Chương 36 Con tàu trên Mũi Vàng
Tháng Hai 1972, khi đang học năm thứ hai kiến trúc, tôi nhận ra mình càng ngày càng ít tới lớp. Điều này có liên quan tới mức nào đến việc đánh mất cô người mẫu xinh đẹp và nỗi buồn cô độc mà tôi rơi vào quãng thời gian sau đó? Đôi khi tôi ở lì trong căn nhà của chúng tôi ở Beşiktaş và đọc sách trọn ngày. Đôi khi tôi ôm một cuốn sách dày cộm (Lũ người quỷ ám, Chiến tranh và hòa bình, Gia đình Buddenbrook) và đọc nó ở trong lớp học. Sau khi Bông Hồng Đen biến mất, thú vẽ tranh của tôi cũng tàn tạ. Khi cầm cây bút chì ký họa trên giấy, hay khi cầm cây cọ vẽ trên vải, tôi không còn cái cảm giác mình đang chơi đùa, hay mình đang chiến thắng, mà tôi đã từng có khi còn là một đứa bé. Vẽ tranh, đối với tôi, khởi sự bằng sự thích thú trẻ con, hạnh phúc, và bây giờ, thật là bí ẩn, tôi mất niềm vui ấy, và tôi không biết kiếm đâu ra cái thay thế cho nó, tôi như đắm chìm vào trong một sự bất an dày đặc. Sống mà không vẽ tranh, sống mà không có cách chi để trốn thoát thế giới thực – thế giới mà những người khác gọi là “cuộc sống“ – thì có khác chi chui vô nhà tù. Nếu nỗi sợ hãi trùm lên hết người tôi – hay nếu tôi hút thuốc lá quá độ – thì thế nào tôi cũng bị ngạt thở. Việc bị ngạt thở trong đời thường làm tôi thấy như mình bị chết đuối. Vào những giây phút như thế, tôi chỉ muốn làm một cái gì đó để cho bản thân mình bị đau đớn, đây là ước muốn tự hủy diệt chính mình, hay bỏ chạy thật xa lớp học mà tôi đang ngồi ở trong, cái trường học này.
Nhưng thỉnh thoảng tôi vẫn tới studio và cố hết sức mình để quên cô người mẫu thơm mùi trái hạnh – hoặc làm ngược lại, cố nhớ cô đến mức làm cô hiển hiện trong một bức tranh khác. Nhưng có một điều gì đó bị thiếu. Lỗi lầm của tôi là khăng khăng tin vào ảo tưởng rằng hội họa vẫn có thể đem đến cho tôi niềm lạc thú mà chỉ một đứa bé mới có thể tận hưởng, trong khi tôi không còn là một đứa bé nữa. Và trong khi đang vẽ dở bức tranh, tôi như mường tượng ra được bức tranh sẽ đi tới đâu, và quyết định rằng nó chưa đạt, và thế là bỏ dở. Những lần thiếu chắc chắn đó đưa tôi tới kết luận, nếu mỗi bức tranh mới đem lại cho tôi niềm hạnh phúc như nghệ thuật đã mang lại cho tôi khi còn là một đứa bé, thì tôi phải xác định được mục đích của mình trước khi khởi sự vẽ. Nhưng tôi không biết làm sao khai triển được ý nghĩ đó trong hội họa. Có lẽ là bởi cho tới giờ lúc nào cũng hạnh phúc khi vẽ nên tôi không hiểu là cần phải chịu đau khổ mới vẽ được, rằng nỗi đau đó sẽ giúp ích cho nghệ thuật của tôi.
Tôi cũng hoảng sợ khi chứng kiến sự bất an lây lan qua những mối quan tâm khác: Sau nhiều năm rêu rao kiến trúc là một nghệ thuật, tôi nhận ra nó không có gì nhiều để cho tôi nếu so với hội họa. Khi còn là một đứa bé tôi chưa từng bao giờ đặc biệt quan tâm đến kiến trúc, ngoại trừ những khi xây cất nhà cửa bằng những thỏi đường và những miếng gỗ. Hầu hết giáo sư dạy Đại học Kỹ thuật đều chẳng có hứng sáng tạo, tâm hồn của họ là của những vị kỹ sư, không có hứng thú, chẳng có cảm quan về chuyện chơi đùa, và do đó không thể nào tìm thấy thú vui sáng tạo trong nghề kiến trúc, những giờ học của họ có vẻ chỉ làm lãng phí thì giờ, làm sao lãng những điều mà tôi thực sự muốn làm, cuộc đời “thực“ hơn, đáng sống hơn. Mọi chuyện xung quanh tôi trở thành nhạt nhẽo mỗi khi những ý nghĩ như vậy đến với tôi – bài giảng mà tôi tham dự, tiếng chuông tan lớp học mà tôi đang chờ đợi, những ông thầy khệnh khạng trong lớp học, sinh viên đùa cợt và hút thuốc lá ở trong lớp – tất cả biến thành những bóng ma của chính chúng, bị mắc bẫy ở trong một thế giới chẳng có mục đích, giả trá, và đau khổ, một thế giới chỉ hứa hẹn tôi sự ghê tởm chính mình, và ngột ngạt. Tôi cảm thấy thời gian của tôi trượt khỏi tôi, mục đích lùi dần, như đã từng xảy ra nhiều lần trong những giấc mơ. Để phá tung tình trạng này, tôi viết và vẽ lên những quyển vở: Tôi vẽ vị giáo sư và lưng của nhũng học sinh đang chăm chú nghe giảng bài, tôi viết những bài mô phỏng, nhạo, nhại, làm các đoạn thơ về những gì đang xảy ra ở trong lớp học… Tôi nhanh chóng có số khán thính giả nóng ruột chờ đợi những sáng tác của tôi, nhưng mặc cho cảm giác về thời gian vuột đi mất – và nỗi sợ đời tôi cứ thế trôi đi một cách vô ích – nhiều khi khủng khiếp đến nỗi ngay cả khi tôi bước vào khoa kiến trúc tại Taşkışla với chủ định ở đây cả ngày, thì chỉ một giờ sau là tôi lao ra khỏi tòa nhà như thế để cứu mạng mình (và hoảng sợ vì nỗi mình đang giẫm chân lên những đường nứt giữa các tấm gạch lát vỉa hè); chạy ra đến ngoài, tôi vội vã trú ẩn vào những đường phố của Istanbul.
Những con phố nhỏ của thành phố ở giữa Taskim và Tepebaşı, nơi tôi đã qua lại nhiều lần khi là một đứa bé, cùng với mẹ tôi, khi hai mẹ con trở về nhà bằng dolmuş, nơi đối với một đứa bé sáu tuổi là một miền đất xa xôi, và những khu xóm Pera, được những người Armenia xây dựng lên một cách thật tài tình, nhờ vậy chúng vẫn còn đứng vững – đó là những nơi chốn mà lúc này tôi bắt đầu thám hiểm. Đôi khi tôi đi thẳng từ Phân khoa Kiến trúc tới Taskim bằng cách nhảy lên bất cứ một chiếc xe buýt nào, và đi bất cứ hướng nào tùy hứng bất tử của tôi, hay là của cặp giò: những con phố nhỏ xíu của khu Kasımpaşa; Balat, nơi lần đầu tôi viếng thăm nom có vẻ giả, giống như một khu phố được dựng lên để quay xi nê; những khu xóm cổ của người Hy Lạp và Do Thái, những đợt di dân mới và sự nghèo khổ làm cho chúng thay đổi đến không còn nhận ra được nữa; những con phố nhỏ rất sáng sủa, rất Hồi giáo của khu Üsküdar, vốn đầy những căn nhà gỗ cho mãi đến thập niên 1980; những con phố cổ, kỳ quái, đáng sợ của khu Kocamustafapaşa, trở nên điêu tàn bởi những tòa nhà bê tông xây vội nhìn thật thê lương; cái sân thật đẹp của ngôi giáo đường Fatih, luôn làm tôi sững sờ; khu vực xung quanh Balıklı; khu xóm Kurtuluş và Feriköy, nghèo đến đâu già nua tàn tạ tới đó khiến có cảm giác các gia đình trung lưu đã có mặt tại chốn này từ hàng ngàn năm, thay đổi ngôn ngữ, sắc dân, tôn giáo theo sự áp đặt của nhà nước (sự thực, họ mới ở đó chừng năm chục năm); những lối xóm nghèo hơn thì vắt vẻo ở những rẻo đất dốc thấp hơn (y hệt như ở khu Cihangir, Tarlabaşi, và Nişantaşı) – tôi đi qua tất cả những khu vực này, chẳng cảm thấy một chút chủ ý gì. Ngay từ thoạt kỳ thủy của những chuyến đi hoang đó, tôi cũng chẳng hề có một chủ ý, chỉ tìm cách chạy thoát thế giới, nơi mọi người ai cũng phải có một việc làm, một bàn giấy, một văn phòng. Nhưng, ngay cả khi tôi mầy mò thám hiểm thành phố, từ bức tường này tới bức tường tới, từ con phố này qua con phố khác, thì tôi vẫn đổ xuống đó nỗi buồn ma quỷ, giận dữ của riêng tôi. Ngay cả bây giờ, mỗi khi có dịp đi qua những con phố xưa, nhìn thấy một máy nước xóm nghèo tàn tạ hay một bức tường đổ từng thuộc về một nhà thờ Byzance (Pantocrator, Küçük Ayasofya) trông như thể đã cũ hơn, hoặc khi nhìn xuống một lối đi và thấy Mũi Vàng lóng lánh giữa bức tường của ngôi giáo đường và một tòa nhà mái kết bằng một thứ ngói khảm đỏ xấu xí, tôi sẽ nhớ lần đầu tiên nhìn cảnh này tôi đã thấy xao xuyến như thế nào, và nhận ra cảnh tượng giờ đây đã khác quá rồi. Không phải hồi ức của tôi sai lầm; cái nhìn ngày xưa xao xuyến bởi vì chính tôi lúc đó cũng xao xuyến. Tôi đổ hồn tôi xuống những con phố của Istanbul, và nó vẫn còn đọng lại ở trong đó.
Nếu chúng ta sống trong một thành phố đủ lâu để gửi cho nó gìn giữ những tình cảm chân thật nhất, sâu thẳm nhất của chúng ta ở trong các viễn tượng của nó, thì sẽ có một lúc – đúng như một bài hát gợi nhớ lại một tình yêu đã mất – những con phố đặc biệt, những hình ảnh và viễn cảnh sẽ cùng làm như vậy. Cũng có thể bởi vì tôi đã nhìn thấy quá nhiều xóm nghèo và phố nhỏ, quá nhiều cảnh đồi trong những lần lang thang trong thành phố sau khi đã mất tình yêu thoảng mùi trái hạnh, mà với tôi Istanbul buồn đến như thế.
Khi mới mất nàng, tôi nhìn thấy nỗi buồn của mình phản chiếu ở mọi nơi – mặt trăng tròn có thể trở thành mặt đồng hồ; mọi vật trở thành biểu tượng theo kiểu ấy để rồi sau này tạo ra một giấc mơ. Tháng Ba 1972, tôi đáp một chuyến dolmuş (như đã từng với Bông Hồng Đen kế bên), và xuống đúng ở chỗ tôi muốn xuống, như ngày đó vẫn có lệ này, và chỗ mà tôi muốn xuống là ngay cầu Galata. Bầu trời thấp, tối, màu tía ngả qua xám. Có vẻ như tuyết sẽ đổ, và lối đi bộ trên cầu thì vắng hoe. Theo những bậc thang gỗ ở phía Mũi Vàng, tôi đi xuống chân cầu.
Một con phà sắp sửa rời bến. Phà trưởng, thợ máy, và người quăng dây tất cả đều có mặt ở nơi phà cập bến, như toàn thể thủy thủ đoàn trên một chiếc tàu biển lớn, để tiếp đón chỉ một dúm khách, họ hút thuốc, uống trà và chuyện vãn. Khi bước chân lên phà, tôi nhập vào hoàn cảnh mới, chào hỏi họ, và ngay lập tức cảm thấy như thể những hành khách mệt mỏi, với những chiếc áo khoác xám xịt, mũ chỏm, khăn choàng, túi lưới đều là những mối quen biết từ đời thuở nào, và tôi là một hành khách đi vé tháng, ngày ngày lên xuống Mũi Vàng. Khi con phà lặng lẽ rời bến, tôi có cảm giác mình thuộc về nơi chốn này, mình đang ngồi ở ngay trái tim của thành phố, cảm giác thật dữ dội khiến tôi còn cảm thấy thêm một điều gì khác nữa. Ở bên trên chúng tôi, trên cầu (nơi tôi có thể nhìn thấy những tấm biển quảng cáo nhà băng và cần ăng ten của những chiếc xe điện), và trên những đường phố chính, lúc đó là khoảng giữa trưa vào một ngày tháng Ba 1972; nhưng ở đây, trong thế giới thấp bên dưới, chúng tôi thuộc về một thời gian cũ hơn, rộng hơn, nặng ký hơn. Hình như khi lần theo các bậc thang rồi xuống đến chiếc phà mà tôi tình cờ nhìn thấy, là tôi đã trở ngược về ba mươi năm trước, khi Istanbul còn trơ trọi trong thế giới, nghèo hơn, và đồng điệu hơn với nỗi buồn của nó.
Qua những khung cửa sổ run run ở sàn phía bên trên, phía sau chiếc phà, tôi chăm chú nhìn các bến đỗ của Mũi Vàng từ từ lui về phía sau, và những ngọn đồi, những căn nhà gỗ của một Istanbul cổ, những nghĩa địa với những tàng cây bách; những lối đi, những ngọn đồi tối, những bãi tàu thuyền, những vỏ tàu tróc sơn; một chuỗi bất tận những xưởng thợ, nhà máy nho nhỏ, những cửa hàng, những ống khói; những nhà thờ Byzance điêu tàn; những ngôi giáo đường Ottoman uy nghi nhất vươn lên khỏi những con phố xám xịt và chật hẹp; Nhà thờ Pantocrator ở Zeyrek; những nhà kho thuốc lá ở Cibali; ngay cả cái bóng của ngôi giáo đường Fatih cũng như ở mãi tít xa. Qua những khung cửa sổ ám khói, run rẩy của con phà, cảnh tượng giữa trưa của Istanbul xem ra giống nửa đêm, giống cảnh tượng cũng của thành phố này mà tôi nhìn thấy trong các bộ phim cũ.
Tiếng động cơ của chiếc phà chẳng khác gì tiếng chiếc máy may của mẹ tôi, khi nó rẽ ngoặt để cập bến; những khung cửa sổ hết còn rung, những dòng nước váng đọng của Mũi Vàng, những phụ nữ có tuổi lên phà cùng chừng năm chục chiếc giỏ và những con gà sống gà mái, bỏ lại những con phố chật hẹp của các khu xóm Hy Lạp ở đằng sau; những xưởng thợ nhỏ, những nhà kho và những thùng tô nô; những vỏ xe cũ; những cỗ xe ngựa đưa hành khách lang thang khắp thành phố – tất cả chúng đều như thể được rút ra một cách đầy tinh tế và rõ nét từ những tấm bưu thiếp trăm năm tuổi, và tất tật đều hai màu đen trắng. Khi chiếc phà rời bến, xa dần bãi và những khung cửa cổ lại bắt đầu run rẩy, khi chúng tôi hướng về phía các nghĩa địa trên bờ đối diện, khói đen kịt từ ống khói phà khạc ra, gói gọn tất cả cảnh vật vào trong một nỗi buồn, trông lại càng giống một bức tranh. Có những lúc, bầu trời hoàn toàn đen kịt, nhưng rồi, như trong một góc bộ phim, lửa từ đó bốc lên, một ánh sáng lạnh, như tuyết, xuất hiện.
Liệu đó có phải là bí mật của Istanbul – bên dưới lịch sử lớn lao, cuộc sống nghèo đói, những lâu đài, đền miếu, thánh đường, những phong cảnh tuyệt trần, những người nghèo của nó đã che giấu linh hồn thành phố bên trong một tấm màn mong manh? Nhưng tới đây là chúng ta đi hết một chu kỳ, bởi vì bất cứ điều gì mà chúng ta nói về yếu tính của thành phố đều là nói về những cuộc sống, những trạng thái tâm hồn của riêng chúng ta, nhiều hơn là về chính nó. Thành phố không hề có một trung tâm khác ngoài chính chúng ta.
Vậy thì làm sao mà, vào cái ngày tháng Ba năm 1972 ấy, tôi lại cảm thấy mình là một với các cư dân thành phố Istanbul đến vậy, khi trốn học để chuồn xuống Mũi Vàng, trên chuyến phà trên đường đi tới Eyüp? Có thể đó là điều tôi mong muốn để thuyết phục chính mình rằng, bên cạnh hüzün to lớn của thành phố, chuyện con tim tan nát của riêng tôi, và chuyện không còn tình yêu dành cho hội họa – thứ tình yêu mà tôi nghĩ sẽ mang suốt cuộc đời mình – chẳng có gì là quan trọng. Rằng, khi nhìn vào Istanbul, thất bại, điêu tàn, đau thương rầu rĩ đến thế kia, tôi sẽ quên đi nỗi đau của riêng mình. Nhưng nói một điều như thế thì cũng là cải lương mùi mẫn theo kiểu Thổ Nhĩ Kỳ, giống như một nhân vật, ngay khi bộ phim vừa mới bắt đầu, đã nhiễm độc nỗi buồn Istanbul rồi, thế rồi phải chịu thua thiệt “trong cuộc sống và trong tình yêu” – và điều này không đồng nghĩa với việc dùng nỗi buồn của thành phố để xua đuổi nỗi buồn của riêng tôi. Sự thực, trong gia đình tôi, hay trong những mối thân quan bè bạn, chẳng có ai coi tham vọng trở thành họa sĩ – nhà thơ của tôi là nghiêm túc. Còn đám thi sĩ và họa sĩ của thành phố, hầu hết đều nghểnh cao cổ ngó về Tây phương, có ai chịu nhìn xuống thành phố của họ đâu: Họ chiến đấu để thuộc về kỷ nguyên hiện đại, thế giới của những chiếc xe điện, và của những biển quảng cáo nhà băng ở trên đỉnh cây cầu Galata. Về phần tôi, tôi chưa được sửa soạn đối với cái nỗi buồn đã mang lại cho thành phố lực hút của nó – nhờ đứa bé hạnh phúc, ham chơi ham vui vẫn nằm ngủ ở trong tôi mà có lẽ tôi là người ở xa cách nhất đối với nỗi buồn; cho tới nay, tôi không mong chuyện ôm lấy nó; cảm thấy nó trong mình là tôi bỏ chạy vào một lối khác, tìm trú ẩn trong “các vẻ đẹp“ của Istanbul.
Tại sao chúng ta dám mong muốn thành phố chữa lành những nỗi đau tinh thần của chúng ta? Có thể bởi vì chúng ta không thể không yêu thành phố của chúng ta như yêu gia đình mình. Nhưng chúng ta vẫn phải quyết định xem mình yêu phần nào của thành phố và bịa ra lý do đưa đến tình yêu ấy.
Trong khi phà tới gần Hasköy, mặc dù tâm trí hỗn độn, tôi cũng nhận ra rằng nếu tôi quá gắn bó với thành phố của mình thì là bởi nó đem đến cho tôi một sự khôn ngoan và hiểu biết sâu xa hơn nhiều so với bất cứ điều gì tôi có được từ lớp học. Qua những khung cửa sổ run rẩy, tôi có thể nhìn thấy những căn nhà gỗ cũ nát, điêu tàn; khu xóm Hy Lạp cũ kỹ ở Fener, vẫn bị bỏ hoang một nửa do sự đàn áp không ngừng của nhà nước; và giữa những tòa nhà điêu tàn ấy, trông lại càng bí ẩn hơn bao giờ hết dưới bầu trời vần vũ những đám mây đen – Cung điện Topkapı, thánh đường Süleymaniye, rồi bóng dáng của những ngọn đồi, giáo đường, và nhà thờ Istanbul. Ở đây, giữa những hòn đá và những căn nhà gỗ cổ xưa, lịch sử làm hòa với những điêu tàn của nó; điêu tàn nuôi nấng đời sống và đem đời sống mới đến cho lịch sử. Nếu mối tình dành cho hội họa quá nhanh chóng tàn lụi của tôi không còn cứu vớt tôi được nữa, thì những khu xóm nghèo khổ của thành phố như được sửa soạn, trong bất cứ sự kiện nào, để trở thành thế giới thứ hai của tôi. Tôi ước mong được sống ở trung tâm của cơn chộn rộn liều lĩnh và thơ mộng này! Giống như khi tôi tự đánh mất mình vào trong cõi tưởng tượng để trốn thoát căn nhà của bà tôi và sự buồn chán ở trường học, lần này, quá buồn chán việc học kiến trúc, tôi tự đánh mất mình vào trong cõi Istanbul. Cuối cùng, tôi cảm thấy thoải mái và chấp nhận rằng hüzün mang lại cho Istanbul cái đẹp trầm trọng, hüzün là số phận của nó.
Hiếm khi nào tôi trắng tay khi trở lại thế giới thực. Tôi có thể mang về nhà một loại đồng xèng có răng cưa dùng để gọi điện thoại đã hết còn được sử dụng, hay là một vật gì đó khó đoán định và nói rỡn với đám bạn rằng nó có thể được dùng làm một “cái bót để đi giày hay cái mở nút chai“; tôi có thể mang về một mẩu gạch rớt ra từ một bức tường cả ngàn năm tuổi; một xấp giấy bạc từ thời Sa hoàng, thứ này thì đầy rẫy trong bất cứ một cửa tiệm bán đổ cổ nào trong thành phố vào thời kỳ đó; tôi có thể mang về một con dấu của một hãng buôn đã phá sản trước đó ba chục năm; những quả cân của một anh bán hàng rong; những cuốn sách cũ bán thật rẻ mà hầu như ở cuối chuyến đi nào tôi cũng kiếm được, khi cặp giò của tôi tự động đi tới chợ sách cũ Sahaflar… Tôi mê sách báo viết về Istanbul – bất cứ thứ gì được in ra, từ tờ chương trình, thời dụng biểu, tấm vé, tấm thẻ đều là thông tin có giá trị đối với tôi, và thế là tôi bắt đầu sưu tầm chúng. Một phần trong tôi biết tôi sẽ không thể giữ chúng mãi mãi; sau khi chơi ít lâu, tôi sẽ quên chúng. Và do vậy, tôi cũng biết mình chẳng thể nào trở thành một người mê sưu tầm đến phát khùng phát điên, người không bao giờ làm xong việc của mình, hay thậm chí là một nhà sưu tầm tri thức không mệt mỏi như Koçu, mặc dù vào những ngày mới bắt đầu sưu tầm tôi đã tự nhủ, đây là một phần trong một công trình lớn lao – một bức họa hay một chuỗi họa phẩm, hay một cuốn tiểu thuyết như những cuốn mà tôi đang đọc lúc ấy của Tolstoy, Dostoevsky, hay Mann. Có những lúc – khi mọi kỷ niệm như đầy ắp đến trở thành bão hòa bởi một nỗi buồn thơ mộng về sự lớn lao vương giả đã mất và chút cặn bã lịch sử còn lại của nó – tôi tự tưởng tượng mình là kẻ độc nhất đã mở ra được sự bí ẩn của thành phố; điều này chợt đến trong óc tôi khi tôi đang nhìn qua cửa sổ chiếc phà Mũi Vàng, và tôi đã ôm chầm lấy thành phố như thể nó là của riêng tôi – chưa một ai từng nhìn thấy những gì lúc này tôi đang nhìn thấy!
Một khi làm chủ được cõi thơ mới mẻ này, tôi truy tìm mọi điều một cách hào hứng, mọi vật có mắc mớ tới thành phố. Mọi thứ mà tôi chạm tay vào trong trạng thái tinh thần đó, mọi mẩu nhỏ của hiểu biết, mọi mẫu vật, đều như thể là một tạo tác nghệ thuật. Trước khi sự thăng hoa của tôi xìu xuống, cho phép tôi miêu tả một trong các sự kiện bình thường ấy, chiếc phà với những khung cửa sổ run rẩy.
Chiếc phà này tên là Kocataş. Nó được làm vào năm 1937 ở Mũi Vàng, tại xưởng đóng tàu ở Hasköy, cùng với chiếc được coi như là chị em với nó, chiếc Sarıyer. Chúng được lắp hai động cơ chế tạo vào năm 1913, lấy ra từ chiếc thuyền buồm tên là Nimetullah, chủ thuyền là Hıp Hilmi Paşa. Liệu ta có thể từ việc các cửa sổ run rẩy mà suy ra rằng động cơ không thực sự ăn khớp với chiếc phà? Những chi tiết như vậy cho phép tôi nghĩ về mình như một cư dân thứ thiệt của Istanbul, và điều này mang chiều sâu tới cho nỗi buồn của tôi. Khi bỏ tôi xuống tại Eyüp, chiếc Kocataş bé nhỏ còn tiếp tục phục vụ hành khách thêm mười hai năm nữa, và về hưu vào năm 1984.
Những món đồ mà tôi mang về nhà sau những chuyến đi hoang không mục đích ấy, những toan tính “được thất lạc“ trong Istanbul của tôi – một vài cuốn sách cũ, một cái danh thiếp, một tấm bưu thiếp cũ, hay một một tin tức là lạ về thành phố – những món đồ này là bằng chứng không thể nào thiếu được chứng tỏ rằng cuộc tản bộ của tôi là “thực.“ Như nhân vật của Coleridge thức giấc, thấy mình cầm trên tay bông hồng từ những giấc mộng của mình, tôi biết những món đồ này không phải từ thế giới thứ nhì, cái thế giới đã mang đến cho tôi bao điều hạnh phúc khi tôi còn là một đứa bé, mà từ một thế giới thực ăn nhập với các hồi ức của tôi.
Phiền một nỗi là Eyüp, cái làng nhỏ ở tận cùng Mũi Vàng đó, nơi chiếc Kocataş bỏ tôi lại, xem ra chẳng thực một chút nào. Với tư cách là một hình ảnh về cái Đông phương tự soi vào chính mình, bí ẩn, mang tính chất tôn giáo, đẹp như tranh, nó hoàn hảo tới mức như thể là giấc mơ của một ai đó khác, một thứ Disneyland của Đông phương Hồi giáo Thổ Nhĩ Kỳ tọa lạc ở mép bờ thành phố. Liệu có phải là do nó ở bên ngoài những bức tường Cổ Thành Istanbul, và do đó không bị ảnh hưởng của thời kỳ Byzance, hay những xáo trộn nhiều tầng bậc mà bạn có thể nhìn thấy ở mọi nơi của Istanbul? Hay là bởi những ngọn đồi cao kia đã đem đêm đến quá sớm cho chốn này? Hay do sự khiêm tốn mang tính tôn giáo thần bí khiến cho nó chỉ sở hữu những tòa nhà nhỏ bé, giữ khoảng cách với sự lớn lao vĩ đại của Istanbul, và giữ riêng cho mình thứ quyền uy phức tạp – quyền uy mà nó có từ cát bụi, gỉ sét, khói, đổ nát, nứt vỡ, điêu tàn, rác rưởi, dơ dáy của nó? Điều gì làm cho Eyüp thật gần gũi với những giấc mơ Tây phương về Đông phương và làm cho mọi người đều yêu nó như vậy? Có phải đó là do khả năng liên tục của nó trong việc rút lấy đầy lợi ích từ Tây phương và một Istanbul Tây phương hóa, trong lúc vẫn giữ một khoảng cách với trung tâm, với hệ thống hành chính, những định chế của nhà nước, và những tòa nhà? Đó là lý do khiến Pierre Loti mê nơi này, và sau cùng mua một căn nhà và rời tới đó ở – bởi vì không bị làm hư hỏng, nó là một hình ảnh đẹp tuyệt vời, hoàn hảo về Đông phương – và cũng chính vì những lý do ấy mà tôi chán ngấy nó. Khi tôi tới Eyüp, nỗi buồn tuyệt vời mà tôi có được khi chiêm ngưỡng Mũi Vàng, với những điêu tàn và lịch sử của nó, cứ thế tan biến vào hư vô. Chầm chậm, tôi hiểu ra mình yêu Istanbul vì những điêu tàn của nó, vì hüzün của nó, vì những vinh quang nó từng có nhưng đã để mất. Và vì vậy, để làm cho mình vui lên, tôi rời Eyüp để đi lang thang quanh những lối xóm khác, tìm kiếm điêu tàn.