← Quay lại trang sách

Bob

Tôi giải thích kế hoạch của mình cho Bob.

"Ivan," cậu ta trả lời, "nghe tôi nói này: Vấn đề không nằm ở chuyện ăn uống của cậu." Bob nhảy lên ngực tôi và liếm cằm tôi, hy vọng tìm được một mẩu đồ ăn còn sót lại.

Bob vốn là động vật đường phố, cậu ta chẳng có nơi nào để ở. Bob cực kỳ nhanh nhẹn và khôn ngoan nên các nhân viên ở trung tâm mua sắm đã từ lâu từ bỏ ý định vây bắt cậu ấy. Bob có thể dễ dàng luồn lách qua những khe hở cùng kẽ nứt như một con chuột bị theo dấu. Cậu ta chẳng cần hơn gì ngoài những đầu mẩu xúc xích lôi ra từ thùng rác. Và để tráng miệng, Bob sẽ liếm những vũng nước chanh cùng kem ốc quế rơi vương vãi trên sàn.

Tôi đã mấy lần mời Bob ăn suất của tôi nhưng vì khảnh ăn nên cậu ta nói muốn tự tìm đồ ăn cho mình.

Bob bé xíu, dai sức và nhanh thoăn thoắt, hệt như một con sóc biết sủa. Cậu ta có màu hạt dẻ, và một đôi tai to tướng. Đuổi cậu ta ve vẩy như cỏ gặp gió, lúc thì rung ra rung rinh, lúc lại xoắn tít lại. Cái đuôi của Bob làm tôi chóng hết cả mặt và băn khoăn ghê gớm. Vì tự bản thân nó hàm chứa rất nhiều tầng nghĩa, hệt như lời nói của con người. "Tôi thấy buồn," nó thổ lộ. "Tôi đang vui." Thậm chí nó còn nói, "Cẩn thận! Nhìn tôi nhỏ con thật đấy, nhưng răng tôi rất sắc!"

Khỉ đột chẳng cần đến đuôi. Cảm xúc của bọn tôi không mấy phức tạp. Mông của bọn tôi trống trơn.

Bob từng có ba anh em trai cùng hai chị em gái. Con người ném bọn họ ra khỏi xe tải khi xe đang chạy trên đường cao tốc, lúc ấy bọn họ chỉ mới vài tuần tuổi. Bob lăn xuống một cái rãnh nước.

Các anh chị em khác đã chẳng có cơ may sống sót.

Đêm đầu tiên trên đường cao tốc, Bob ngủ trong vũng bùn lạnh cóng của rãnh nước. Lúc thức dậy, cậu ta lạnh đến mức không thể co chân lại trong suốt một tiếng đồng hồ.

Đêm hôm sau, Bob ngủ dưới đống rơm bẩn thỉu gần nơi tập hợp thùng rác của Trung tâm mua sắm Big Top.

Đêm kế tiếp, Bob mò ra được lỗ hổng dưới bức tường kính lãnh thổ của tôi. Tôi nằm mơ thấy mình ăn phải một cái bánh rán bù xù lông và khi tỉnh giấc trong màn đêm, tôi thấy một con cún con bé tí ngáy khò khò trên bụng mình.

Lâu không gặp lại cảm giác dễ chịu khi được một sinh linh khác phả hơi ấm, tôi đâm ra lúng túng, không biết phải làm gì. Không hẳn là tôi không có khách. Mack đương nhiên đã vào lãnh thổ của tôi, chưa kể đến những người chăm sóc khác. Và cũng không hẳn là tôi không trông thấy những con chuột thường xuyên chạy qua chỗ mình, hay những con chim sẻ cứng đầu thỉnh thoảng lượn vào qua lỗ hổng trên trần nhà.

Nhưng bọn họ chẳng bao giờ ở lại lâu.

Suốt cả đêm, tôi không dám cử động vì sợ sẽ làm Bob thức dậy...

hoang

Tôi từng hỏi Bob vì sao cậu ta không muốn có một mái nhà. Con người, theo như tôi thấy, cực kỳ cực kỳ yêu chó. Và chẳng khó để thấy rằng ôm ấp một con cún con hẳn là phải dễ hơn ôm ấp một con khỉ đột.

"Đâu cũng là nhà tôi," Bob đáp. "Anh bạn ạ, tôi là một con thú hoang: chưa từng được thuần hóa và chưa từng bị khuất phục."

Tôi gợi ý Bob tham gia vào chương trình biểu diễn giống như Snickers, một cô nàng chó poodle(1) có nhiệm vụ nhảy lên đầu Stella.

(1): Chó săn vịt (Poodle) là một giống chó thông minh có bộ lông xoăn dày dặn. Poodle thời kỳ đầu được con người huấn luyện để săn các loại thủy cầm, trong đó chủ yếu là vịt.

Bob đáp rằng Snickers ngủ trên một cái gối màu hồng trong văn phòng của Mack và cô ả ăn một loại thịt đóng hộp có mùi rất kinh.

Cậu ta nhăn mặt. Môi cong lên, để lộ ra hàm răng bé tí sắc như kim tiêm.

"Poodle," cậu ta bảo, "là giống chó ăn bám"...