Chương II TRẬN CHIẾN TRONG RỪNG
Tars Tarkas và tôi không có thì giờ để trao đổi chuyện trò khi đang đứng đó, trước tảng đá lớn, xung quanh là xác của bọn đối thủ kỳ lạ, bởi lẽ từ mọi hướng quanh cái thung lũng rộng, hàng đàn quái vật kinh khủng đang tràn tới để đáp lại tiếng gọi của nhân vật lạ lùng phía trên đầu chúng tôi.
“Nào,” Tars Tarkas hét, “chúng ta phải trèo lên vách núi. Đó là hy vọng tạm thời thoát thân duy nhất của chúng ta. Có thể ta sẽ tìm thấy một hang động hay một khe núi hẹp để đương đầu với đàn quái vật này.”
Chúng tôi cùng chạy băng qua đồng cỏ đỏ thắm. Tôi phải giảm bớt tốc độ để không bỏ rơi quá xa người bạn của mình. Có lẽ chúng tôi phải chạy khoảng ba trăm thước Anh để tới được chân vách núi, sau đó sẽ tìm một công sự thích hợp để đối phó với những tên đang truy đuổi.
Trong lúc chúng đang nhanh chóng tiến tới gần, Tars Tarkas hét bảo tôi hãy chạy vượt lên trước và nếu có thể hãy tìm một nơi ẩn nấp. Đề nghị này rất đúng, vì những giây phút quý báu đó có thể cứu sống chúng tôi. Thế là sử dụng hết từng phân cơ bắp trái đất của mình trong nỗ lực tối đa, trong thoáng chốc, với những cú phóng rất xa, tôi đã vượt qua khoảng cách giữa tôi và vách núi.
Vách núi dựng thẳng đứng ngay từ mặt đất phủ đầy cỏ của thung lũng. Không có những đống đá nào được tích lũy từ những tảng đá rơi xuống nằm gần vách núi như tôi thường thấy. Những tảng đá rơi từ trên xuống đều nằm rải rác hoặc bị vùi lấp một phần trong lớp cỏ là dấu hiệu duy nhất cho thấy sự phân hủy những đống đá chất cao đã diễn ra trước đó.
Cái liếc mắt đầu tiên để xem xét bề mặt vách núi khiến tim tôi ngập tràn một linh cảm xấu, vì tôi không tìm đâu ra một dấu hiệu nhỏ nhất của ngay cả một chỗ đặt chân bé xíu bên trên vách đá cao sừng sững, ngoại trừ nơi mà tên truyền lệnh sứ quái dị kia đang đứng và rú lên những lời hiệu triệu của mình.
Bên phải tôi là táng lá rậm rạp cao tới một ngàn bộ của cánh rừng mọc dưới chân vách núi.
Bên trái tôi, vách núi trải dài, rõ ràng không hề gián đoạn, băng ngang đầu của cái thung lũng rộng, rồi chìm khuất sau những đường nét mơ hồ trông như một dãy núi to chạy men vòng quanh và bao bọc kín thung lũng từ mọi hướng.
Có lẽ từ độ cao một ngàn bộ bên trên, dòng sông đã tuôn ra từ vách núi. Vì dường như không có một cơ may nhỏ nhoi nào để trốn thoát theo hướng đó, tôi lại chú ý tới cánh rừng.
Vách núi trên đầu tôi cao khoảng năm ngàn bộ. Mặt trời hơi lệch về một hướng và bóng núi vàng nhạt đổ xuống cánh rừng. Bóng núi bị phá vỡ đó đây bởi những vệt sọc và đốm màu đỏ mờ, xanh lá và đôi khi là một khoảng trắng.
Chúng rất đẹp, nhưng tôi e là ngay từ cái nhìn đầu tiên, tôi không hề có chút ngưỡng mộ nào dành cho chúng.
Lúc này, tôi chỉ xem chúng như một phương tiện để tẩu thoát. Thế nên khi tôi nhìn qua nhìn lại thật nhanh khoảng không gian rộng lớn của chúng để tìm kiếm một khe hở hoặc đường nứt nào đó, đột nhiên tôi cảm thấy căm ghét chúng giống như một tù nhân căm ghét những bức tường nhà tù trơ trơ và tàn nhẫn.
Tars Tarkas đang nhanh chóng tiến tới gần tôi, và còn nhanh hơn nữa là bọn sinh vật đáng sợ đang đuổi theo sát gót ông.
Nhưng lúc này có lẽ chỉ còn khu rừng là nơi thoát thân duy nhất. Tôi ra hiệu cho Tars Tarkas chạy theo tôi về phía hướng mặt trời băng qua đỉnh vách núi. Khi ánh nắng chạm vào bề mặt tối mờ mờ, chúng lóe ra hàng triệu tia sáng chói lọi với đủ màu sắc, đỏ rực, xanh và trắng lóa - một quang cảnh rực rỡ tuyệt vời mà mắt loài người chưa hề trông thấy.
Bề mặt của toàn bộ vách núi, như sau đó tôi biết, là những mạch và mảng vàng ròng, ngoại trừ những nơi nó bị xen lẫn bởi những phiến đá hồng ngọc, lục bảo ngọc và kim cương - một dấu hiệu quyến rũ của sự phong phú lớn lao không thể tả nằm chôn sâu sau mặt ngoài lộng lẫy.
Nhưng điều thu hút sự chú ý của tôi nhất là khi có những tia nắng rọi vào, khiến mặt vách núi trở nên lung linh lấp lánh, có những đốm đen hiện ra rõ ràng ở trên cao, gần đỉnh của khu rừng, và hiển nhiên còn kéo dài xuống bên dưới và phía sau những tàng cây.
Hầu như tôi nhận ra chúng là gì ngay tức khắc. Đó là lối vào của những hang động tối trên vách núi - những con đường để tẩu thoát hoặc tạm thời trú ẩn nếu chúng tôi có thể lên tới đó.
Chỉ có một con đường duy nhất, xuyên qua những tàng cây cao tít ở phía bên phải chúng tôi. Tôi biết rõ rằng mình có thể trèo lên tới đó. Nhưng Tars Tarkas, với thân hình và trọng lượng to lớn hẳn phải thấy đây là một việc nằm ngoài khả năng hay sự khéo léo của ông, vì những người sao Hỏa là những tay leo trèo tệ nhất. Trên toàn bộ bề mặt của hành tinh cổ này, tôi chưa bao giờ trông thấy một ngọn đồi hay ngọn núi cao quá bốn ngàn bộ bên trên đáy biển chết. Nhưng người Hỏa tinh ít khi có cơ may để leo lên những ngọn núi này. Hơn nữa, họ cũng chẳng bao giờ nắm lấy các cơ may khả dĩ, vì họ luôn có thể tìm ra một đường vòng bên dưới chân của bất kỳ ngọn núi nào, và họ thích đi theo những con đường đó hơn là những lối tắt gần hơn nhưng quá gay go.
Tuy vậy, không có gì phải cân nhắc thêm ngoài việc cố gắng leo lên những thân cây sát bên vách núi để tới được những cái hang động bên trên.
Ông bạn người Thark nắm bắt ngay được những khả năng cũng như khó khăn của kế hoạch này. Và vì không còn chọn lựa nào khác, chúng tôi vọt nhanh tới những thân cây mọc gần vách núi nhất.
Những kẻ truy đuổi không nương tay lúc này đã tiến tới gần chúng tôi. Rất gần, đến mức hầu như vị vua xứ Thark khó mà tới được cánh rừng trước chúng. Ông cũng không thực hiện một nỗ lực nào đáng kể, vì người Hỏa tinh da xanh không hề né tránh việc đánh nhau. Tôi cũng chưa bao giờ nhìn thấy một người da xanh tránh né việc đối đầu với cái chết dưới bất kỳ hình thức nào. Thế nhưng Tars Tarkas lại là người dũng cảm nhất trong số những người dũng cảm, và ông đã chứng minh điều đó hàng ngàn lần. Không. Hàng vạn lần, trong vô số các trận chiến sống còn với người và thú dữ. Vì thế, tôi biết có một lý do khác hơn là nỗi sợ hãi khiến ông phải bỏ chạy. Đó là vì ông biết có một sức mạnh lớn hơn cả lòng kiêu hãnh hay danh dự đã thúc đẩy tôi phải chạy trốn khỏi những kẻ hủy diệt hung tàn. Sức mạnh đó là tình yêu. Tình yêu đối với nữ thần Dejah Thoris. Còn lý do của tình yêu cuộc sống lớn lao và bất chợt của ông thì tôi không thể nghĩ ra, vì họ, những con người tàn nhẫn, bất hạnh và không có tình yêu đó, thường tìm đến với cái chết hơn là sự sống.
Tuy nhiên, cuối cùng chúng tôi cũng đã tới được mé rừng. Trong lúc đó tên truy đuổi nhanh chân nhất trong bọn đang lao tới chúng tôi. Một người thực vật khổng lồ với bộ móng vuốt vươn dài khoe những cái mồm hút máu hướng về phía chúng tôi.
Hắn chạy trước tên đồng đội gần nhất tới một trăm thước Anh. Vì thế, tôi bảo Tars Tarkas hãy trèo lên thân cây lớn sát mặt vách núi trong khi tôi hạ thủ hắn, tạo điều kiện cho ông bạn người Thark vụng về này leo lên những nhánh cây cao nhất trước khi cả đàn đuổi tới và mọi khả năng tẩu thoát đều bị cắt đứt.
Khi tôi giơ cao lưỡi gươm để tặng cho tên quái vật một đòn chí tử, hắn dừng lại, và khi nhát kiếm của tôi vút vào không khí, cái đuôi to lớn của hắn quật ngang mặt cỏ với sức mạnh tương đương với một cái tát của loài gấu xám Bắc Mỹ hất tôi té nhào trên mặt đất. Trong chớp mắt, hắn đã nhào tới tôi, nhưng trước khi hắn úp những cái mồm đáng sợ vào ngực và cổ họng tôi, tôi đã nắm chặt cả hai cái xúc tu quằn quại đó.
Tên người thực vật này rất lực lưỡng, nặng nề và mạnh khỏe, nhưng những cơ bắp trái đất và sự nhanh nhẹn của tôi, cộng thêm việc tôi đã nắm chặt được tử huyệt của hắn, tôi nghĩ, sẽ mang tới cho tôi thắng lợi cuối cùng. Nhưng khi chúng tôi đang giằng co bên cạnh thân cây mà Tars Tarkas đang leo lên với sự khó khăn vô hạn, tôi đột nhiên liếc mắt qua vai của tên đối thủ về phía những tên truy đuổi giờ đã tới rất gần tôi.
Cuối cùng, tôi đã nhìn rõ những con quái vật khác đi cùng với bọn người thực vật để đáp lại tiếng rú lạ lùng của người đứng trên vách núi. Chúng là những sinh vật đáng sợ nhất của Hỏa tinh - những con khỉ đột trắng khổng lồ.
Với những kinh nghiệm trên sao Hỏa trước đây, tôi khá quen thuộc với chúng và cách chiến đấu của chúng, và tôi có thể nói rằng trong tất cả những sinh vật đáng sợ, lạ lùng kỳ quái nhất của cái thế giới khác lạ này, chính những con khỉ đột trắng đã khiến cho tôi tới gần với cảm giác sợ hãi nhất.
Tôi cho rằng nguyên do của cảm giác này là vì hình thức rất giống với con người trên trái đất đã tạo cho chúng một dáng vẻ khác thường nhất của loài người, cộng thêm với kích thước khổng lồ của chúng.
Khi đứng thẳng, chúng cao tới mười lăm bộ. Như những người Hỏa tinh da xanh, chúng có một cặp chi trung tính nằm giữa hai chi trên và dưới. Đôi mắt chúng nằm sát với nhau nhưng không lồi ra như mắt người da xanh. Đôi vành tai chúng vươn cao, nhưng nằm đúng vị trí hơn tai của người da xanh, trong khi mũi và răng của chúng giống hệt như của loài khỉ đột châu Phi. Trên đầu chúng là một chỏm lông to lớn lạ thường.
Qua vai của đối thủ, tôi trông thấy những con khỉ đột này và những tên người thực vật đáng sợ khác. Với một đợt sóng những tiếng gầm gừ, kêu rống, chúng nhào tới tôi, và trong số những âm thanh đang tra tấn lỗ tai tôi khi tôi ngã xuống, đáng sợ nhất với tôi chính là tiếng rít kinh khủng của bọn người thực vật.
Ngay lập tức, một loạt nanh và vuốt nhọn cắm ngập vào da thịt tôi. Những đôi môi lạnh lẽo lần mò trên các động mạch của tôi. Tôi cố vùng vẫy thoát thân, và dù bị đè dưới những thân hình nặng nề đó, tôi đã cố đứng lên được. Rồi, với lưỡi gươm dài mà tôi chỉ có thể dùng như một lưỡi dao găm, tôi tàn sát chúng dữ dội đến mức tới một lúc nào đó, tôi đã có thể đứng tự do trong một thoáng.
Những điều cần vài phút để viết ra này chỉ diễn ra trong vòng vài giây. Trong thời gian đó, Tars Tarkas đã nhìn thấy tình cảnh tuyệt vọng của tôi, và đã nhảy xuống khỏi cành cây thấp nhất mà ông leo lên được với muôn vàn vất vả. Khi tôi đánh ngã tên đối thủ cuối cùng trước mặt, người Thark vĩ đại đã nhảy tới bên tôi, và chúng tôi cùng chiến đấu, lưng tựa vào lưng, như đã từng thực hiện hàng trăm lần trước đó.
Thỉnh thoảng, những con khỉ đột trắng lại nhào tới sát bên chúng tôi, và chúng tôi đẩy lùi chúng bằng lưỡi gươm. Những cái đuôi to lớn của bọn người thực vật quật xuống chúng tôi với sức mạnh kinh người từ mọi hướng, hoặc chúng nhảy xổ lên đầu chúng tôi với sự nhanh nhẹn của những con chó săn chồn. Nhưng mọi cuộc tấn công đều vấp phải lưỡi gươm chói ngời trong đôi tay của những kiếm sĩ đã lừng danh số một khắp Hỏa tinh suốt hai mươi năm qua. Tars Tarkas và John Carter thật sự là những cái tên mà các chiến binh sao Hỏa thích nói tới nhiều nhất.
Nhưng ngay cả hai tay kiếm cừ khôi nhất trong thế giới của những chiến binh cũng không thể chống cự mãi với một số lượng đông gấp bội những tên quái vật dữ dằn, hung tợn không hề biết thất bại cho tới lúc lưỡi thép lạnh buộc trái tim chúng thôi không đập nữa. Thế là, từng bước một, chúng tôi buộc phải lui lại. Trong phút chốc, chúng tôi phải áp sát lưng vào thân cây lớn mà chúng tôi đã chọn để leo lên. Hàng loạt cuộc tấn công đổ ập xuống chúng tôi, và chúng tôi lại lùi dần, cho tới khi đã buộc phải lùi hết phân nửa vòng tròn quanh gốc cây khổng lồ.
Tars Tarkas đi trước, đột nhiên, tôi nghe thấy ông bật kêu lên.
“Đây ít ra là một công sự cho chúng ta, John Carter.” Ông nói, và liếc sang, tôi nhìn thấy một cái hốc trên gốc cây, có đường kính chừng ba bộ.
“Chúng ta cùng vào, Tars Tarkas.” Tôi hét lên, nhưng ông không di chuyển; bảo rằng thân hình của ông quá lớn đối với cái hốc đó, còn tôi thì có thể chui vào một cách dễ dàng.
“Cả hai chúng ta sẽ chết nếu ở lại, John Carter. Đây là cơ hội nhỏ nhất cho một trong hai chúng ta. Hãy nắm lấy nó và anh sẽ sống để báo thù cho tôi. Việc cố chui vào cái lỗ nhỏ xíu đó với tôi là vô ích, trong lúc cả bầy quái vật này đang lao tới chúng ta từ mọi phía.”
“Vậy chúng ta sẽ cùng chết, Tars Tarkas,” tôi đáp, “vì tôi sẽ không đi trước. Hãy để tôi phòng thủ trong khi ông chui vào, rồi thân hình nhỏ bé của tôi sẽ cho phép tôi chui vào trước khi chúng có thể ngăn cản.”
Chúng tôi vẫn chiến đấu dữ dội trong lúc nói những lời ngắt quãng trên, chấm câu bằng những nhát đâm và chém vào kẻ địch đang tràn ngập.
Cuối cùng ông rên lên, vì đó dường như là cách duy nhất để hai chúng tôi có thể sống sót thoát khỏi bọn địch đông vô số vẫn đang tràn tới từ khắp hướng băng qua cái thung lũng rộng.
“Cái cách của anh, John Carter, là luôn nghĩ tới cuộc sống của mình sau rốt,” ông nói, “nhưng cách của anh còn là ra lệnh cho những người còn sống phải làm gì, ngay cả với vị jeddak vĩ đại nhất đang cai trị trên sao Hỏa.”
Trên gương mặt tàn ác, khô khan của ông nở một nụ cười, khi ông, vị jeddak vĩ đại nhất, đành phải tuân lệnh một sinh vật của một thế giới khác - một con người có thân hình nhỏ xíu chưa bằng phân nửa thân hình ông.
“Nếu anh thất bại, John Carter, hãy biết rằng gã người Thark độc ác không có trái tim này, người mà anh đã dạy cho ý nghĩa của tình bằng hữu, sẽ quay ra để chết cạnh anh.”
“Cứ làm như ông muốn, bạn của tôi,” tôi đáp, “nhưng giờ hãy nhanh lên, chui đầu vào trước, trong lúc tôi bảo vệ cho ông.”
Ông ngần ngừ giây lát sau lời đó, vì chưa bao giờ trước đó trong suốt cuộc đời tranh đấu của mình ông quay lưng đi mà không có một kẻ thù bị đánh bại hay đã chết.
“Nhanh lên nào, Tars Tarkas,” tôi hối thúc, “không thì cả hai chúng ta sẽ chết một cách vô ích; tôi không thể một mình chống giữ chúng mãi được.”
Khi ông mọp người xuống để cố chui vào hốc cây, cả bầy quái vật đáng sợ lao vào tôi. Lưỡi gươm của tôi quét sang phải rồi sang trái, khi thì nhuộm một màu xanh lá bởi thứ máu nhầy nhụa của bọn người thực vật, khi lại nhuộm màu đỏ với máu của một con khỉ đột trắng lớn, nhưng lúc nào cũng bay lượn từ đối thủ này sang đối thủ khác, không hề nấn ná giây nào với việc uống dòng máu nóng từ giữa tim một đối thủ hung tàn nào đó.
Cứ thế, tôi chiến đấu như chưa bao giờ từng chiến đấu trước đó, chống cự lại những quái vật đáng sợ. Ngay cả chính lúc này, tôi cũng không thể hiểu vì sao cơ bắp của con người lại có thể chịu đựng nổi sự tấn công kinh hoàng của chúng, chịu đựng nổi sức nặng kinh khủng của hàng tấn thịt đang chiến đấu một cách dữ dằn.
E rằng chúng tôi có thể trốn thoát, bọn quái vật nỗ lực gấp đôi để đánh gục tôi, và dù mặt đất quanh tôi chất cao xác của đồng bọn chúng, cuối cùng chúng cũng thành công trong việc chế ngự tôi. Tôi ngã xuống bên dưới chúng lần thứ hai trong ngày hôm đó. Và một lần nữa cảm thấy những đôi môi đáng sợ đang áp sát vào da thịt của mình.
Nhưng gần như ngay trước khi tôi ngã xuống, tôi cảm thấy hai bàn tay mạnh mẽ đang tóm lấy cổ chân tôi, và ngay sau đó, tôi bị kéo vào phía trong hốc cây. Trong một khoảnh khắc, đó là một cuộc kéo co giữa Tars Tarkas và một tên người thực vật to lớn, kẻ đang bám chặt lồng ngực tôi. Ngay lập tức, tôi chĩa mũi gươm vào hắn và với một nhát đâm tôi đưa hắn về chầu tiên tổ.
Thân người tả tơi đẫm máu với những vết thương tàn khốc, tôi nằm thở hổn hển trên mặt đất trong cái hốc cây trong khi Tars Tarkas ngăn chặn đám đông cuồng nộ ở bên ngoài để bảo vệ lối vào.
Chúng bao quanh gốc cây suốt một giờ, nhưng sau vài nỗ lực chúng chỉ còn đe dọa chúng tôi với những tiếng hú inh tai và những tiếng rít kinh khủng.
Cuối cùng, tất cả rút đi, trừ một nhóm ở lại để ngăn không cho chúng tôi tẩu thoát. Chuyến phiêu lưu của chúng tôi dường như đã được an bày kết quả bằng một cuộc bao vây mà kết thúc duy nhất là chúng tôi sẽ chết vì đói khát. Vì dù có lẻn được ra ngoài trong bóng đêm, chúng tôi còn có thể hy vọng sẽ tẩu thoát về đâu trong cái thung lũng xa lạ và thù địch này?
Khi các cuộc tấn công đã ngưng và mắt chúng tôi đã quen với ánh sáng tối tăm trong hốc cây, tôi bắt đầu thám hiểm nơi trú ẩn này.
Hốc cây rỗng có đường kính khoảng năm mươi bộ, và từ cái nền cứng bằng phẳng của nó, tôi đoán rằng đã từng có sinh vật trú ngụ ở đây trước khi nó bị chúng tôi chiếm lĩnh. Khi ngước mắt nhìn lên để ước lượng chiều cao hốc cây, tôi nhìn thấy một ánh sáng lờ mờ ở xa tít trên cao.
Có một lối ra ở bên trên. Nếu lên tới đó, chúng tôi có thể tìm được nơi trú ẩn trong những hang động trên vách núi. Lúc này, mắt tôi đã hoàn toàn quen với ánh sáng tù mù bên trong, và khi tiếp tục xem xét, tôi phát hiện ra một cái thang thô sơ ở đầu kia của hốc cây.
Tôi nhanh nhẹn leo lên và thấy rằng đầu thang tiếp nối với phần cuối của một chuỗi những thanh ngang bằng gỗ tạo thành những nhịp cầu cho phần rỗng hẹp như một ống phễu bên trong thân cây. Các thanh ngang này được gắn tiếp nối, cách nhau chừng ba bộ, tạo thành một cái thang tuyệt hảo ở chừng mực mà tôi có thể nhìn thấy được.
Tôi leo trở xuống nền hốc cây và báo cho Tars Tarkas biết phát hiện của tôi. Ông đề nghị tôi tiếp tục leo lên thám thính càng xa càng tốt trong mức độ an toàn trong khi ông canh giữ lối vào.
Khi leo lên để thám thính cái phễu kỳ lạ này, tôi thấy rằng cái thang kéo dài đến mút tầm mắt của tôi, và càng lên cao, ánh sáng bên trên càng sáng tỏ hơn.
Tôi tiếp tục leo thêm khoảng năm trăm bộ nữa, cho tới lúc nhìn thấy lối ra của hốc cây, nơi ánh sáng luồn vào. Nó có đường kính bằng với lối vào ở dưới gốc cây, và mở thẳng ra một nhánh cây lớn bằng phẳng. Bề mặt nhẵn nhụi của nhánh cây chứng tỏ nó từng được một sinh vật nào đó dùng làm lối đi lên xuống.
Tôi không mạo hiểm đi ra nhánh cây vì e rằng mình có thể bị phát hiện và lối thoát của chúng tôi theo hướng này sẽ bị cắt đứt. Thay vì thế, tôi vội vã leo xuống gặp Tars Tarkas.
Tôi nhanh chóng xuống tới chỗ ông và sau đó cả hai chúng tôi cùng leo lên cái thang dài, hướng tới lối ra bên trên.
Tars Tarkas đi trước và khi tôi chạm vào thanh ngang đầu tiên, tôi kéo theo cái thang và chuyền nó cho ông, ông mang nó lên khoảng một trăm bộ rồi chêm nó một cách an toàn giữa một trong những thanh ngang và vách của hốc cây. Theo cách tương tự, tôi tháo bỏ những thanh ngang thấp khi leo qua chúng, xóa bỏ mọi phương tiện để leo lên trong phạm vi một trăm bộ kể từ đáy hốc cây, nghĩa là triệt tiêu mọi khả năng bị truy đuổi và tấn công từ bên dưới.
Khi lên tới lối ra trên đỉnh hốc cây, Tars Tarkas nép sang một bên để tôi có thể lách qua và thám thính tình hình, vì nhờ có trọng lượng nhỏ và nhanh nhẹn hơn, tôi ứng phó dễ dàng hơn với những nguy cơ của con đường cheo leo chóng mặt này.
Nhánh cây chếch lên một góc nhỏ hướng về vách núi, và khi đi theo nó tôi thấy rằng nó kết thúc bên trên một gờ đá hẹp, cách đó chừng vài bộ. Gờ đá này là lối vào của một hang động.
Khi tôi tới gần phần cuối mỏng manh của cành cây, nó oằn xuống dưới sức nặng của tôi, cho tới khi tôi lấy lại được thăng bằng một cách đầy nguy hiểm ở đầu mút phía ngoài của nó, nó đong đưa nhè nhẹ ở độ cao ngang bằng và cách gờ đá chừng hai bộ.
Bên dưới tôi năm trăm bộ là thảm cỏ đỏ thắm của thung lũng; gần năm ngàn bộ bên trên là bề mặt hùng vĩ, lấp lánh của những vách đá lộng lẫy.
Cái hang động trước mặt tôi không phải là một trong những hang động mà tôi đã nhìn thấy từ mặt đất, chúng nằm cao hơn, có lẽ tới cỡ một ngàn bộ. Nhưng theo tôi biết, nó cũng tốt cho mục đích của chúng tôi không kém những hang động trên cao kia. Thế là tôi quay lại thân cây với Tars Tarkas.
Chúng tôi bò dọc theo con đường nhấp nhô, nhưng khi tới đầu mút nhánh cây, chúng tôi phát hiện ra rằng sức nặng của cả hai người khiến nhánh cây oằn xuống thấp và cửa hang lúc này ở quá cao bên trên, ngoài tầm với của chúng tôi.
Cuối cùng, chúng tôi đồng ý rằng Tars Tarkas sẽ quay lại phía sau, để lại cho tôi sợi dây đai da dài nhất của ông, khi nhánh cây vươn lên độ cao cho phép tôi đi vào hang động, tôi sẽ bước vào, rồi sau đó khi Tars Tarkas bò tới, tôi sẽ buông sợi dây đai xuống để kéo ông lên tới chỗ gờ đá một cách an toàn.
Chúng tôi đã thực hiện điều này một cách thành công. Ngay sau đó, chúng tôi cùng đứng trên rìa của một gờ đá nhỏ nhìn xuống quang cảnh tuyệt diệu của thung lũng đang trải rộng bên dưới.
Trong tầm mắt chúng tôi, cánh rừng lộng lẫy và thảm cỏ đỏ thắm chạy men theo một bờ biển lặng im, xung quanh là những vách đá bảo vệ cao sừng sững. Có một lúc chúng tôi cho rằng mình đã nhìn thấy một ngọn tháp mạ vàng lấp lánh trong ánh nắng giữa những ngọn cây chập chùng ở phía xa xa, nhưng chúng tôi nhanh chóng từ bỏ ý nghĩ đó và tin rằng đó chỉ là một ảo giác phát xuất từ niềm khao khát mãnh liệt được khám phá nơi cư trú của những người văn minh trong cái chốn đẹp đẽ nhưng ghê rợn này.
Ở bờ sông bên dưới, những con khỉ đột trắng khổng lồ đang thưởng thức các bộ phận còn sót lại của những bạn đồng hành khi nãy của Tars Tarkas, trong khi đó, những bầy người thực vật đang gặm cỏ trong những vòng tròn ngày càng lan rộng khắp đồng cỏ.
Biết rằng không còn có khả năng bị tấn công từ phía thân cây, chúng tôi quyết định đi khám phá cái hang động. Chúng tôi có đủ lý do để tin rằng nó là sự tiếp nối của con đường chúng tôi đã đi qua, dẫn tới một nơi mà chỉ có các thần linh mới biết là đâu, nhưng rõ ràng cách rất xa cái thung lũng dữ dằn này.
Trong lúc tiến lên, chúng tôi phát hiện ra một đường hầm có kích thước lớn dẫn sâu vào vách núi. Vách đường hầm cao chừng hai mươi bộ, và chiều rộng của nó khoảng năm bộ. Mái đường hầm có hình vòm. Chúng tôi không có phương tiện gì để thắp sáng nên đành phải lần mò đi vào bóng tối mênh mông. Tars Tarkas bám vào một bên vách, còn tôi bám vào vách bên kia, và để tránh việc rẻ vào hai ngách khác nhau, bị chia cách hay lạc lối trong một mê cung rối rắm nào đó, chúng tôi nắm lấy tay nhau.
Không biết chúng tôi đã đi được bao xa trong đường hầm theo cung cách đó, nhưng lúc này chúng tôi đụng phải một chướng ngại vật khóa kín đường tiến tới. Nó có vẻ giống như một vách ngăn hơn là phần cuối của hang động, vì cấu trúc của nó không phải bằng chất liệu của vách núi, mà là một chất liệu gì đó mang lại cảm giác giống như một thứ gỗ rất cứng.
Tôi lặng lẽ giơ tay sờ soạng bề mặt của nó, và ngay lập tức được tưởng thưởng với cảm nhận về một cái nút thường có trên một cánh cửa ở sao Hỏa, tương tự một nắm đấm cửa trên trái đất.
Khi ấn nhẹ vào nó, tôi hài lòng khi cảm thấy cánh cửa đang chậm chạp mở ra phía trước tôi, và trong khoảnh khắc, chúng tôi nhìn vào một gian phòng sáng mờ mờ, mà ở mức độ chúng tôi có thể thấy, không có ai trú ngụ.
Chẳng mất tí hơi sức nào, tôi mở rộng cánh cửa ra và bước vào phòng, theo sau là Tars Tarkas. Khi chúng tôi đang đứng im lặng nhìn quanh căn phòng, một tiếng động nhẹ ở sau lưng khiến tôi quay nhanh lại. Và, với sự kinh ngạc, tôi nhìn thấy cánh cửa đang đóng lại với một tiếng ấn lách cách do một bàn tay vô hình nào đó.
Ngay lập tức, tôi lao tới để mở nó ra, vì dường như có một cái gì đó trong chuyển động lạ lùng của cánh cửa và sự im lặng đầy căng thẳng gần như có thể sờ mó được của căn phòng đã cảnh báo cho chúng tôi về một điều ác đang rình rập trong căn phòng vách đá nằm giữa lòng của những vách núi bằng vàng này.
Những ngón tay của tôi cào một cách vô ích vào cánh cửa cứng trong lúc đôi mắt tôi tìm kiếm vô vọng một cái nút giống như cái nút đã cho phép chúng tôi đi vào.
Và rồi, từ một đôi môi vô hình, một tràng cười hung ác và chế giễu vang lên khắp căn phòng trống.