Chương III CĂN PHÒNG BÍ ẨN
Trong một khoảnh khắc sau khi tiếng cười khủng khiếp đó thôi vang vọng khắp căn phòng bằng đá, Tars Tarkas và tôi đứng trong sự im lặng căng thẳng và hồi hộp. Nhưng không còn âm thanh nào phá vỡ bầu không gian yên tĩnh nữa, và cũng không có thứ gì chuyển động trong tầm nhìn của chúng tôi.
Cuối cùng, Tars Tarkas cười khẽ theo kiểu của ông khi đối diện với sự kinh hoàng hay đe dọa. Đó không phải là một tiếng cười kích động, mà là cách thể hiện chân thật của niềm hân hoan xuất phát từ những điều khiến cho những người trái đất phải căm ghét hay bật khóc lên.
Tôi thường nhìn thấy những người da xanh bò lăn ra trên mặt đất trong cơn vui điên loạn khi chứng kiến nỗi thống khổ trước khi chết của những người phụ nữ và trẻ con dưới sự hành hạ của trò chơi kinh tởm của họ - Trò chơi lớn.
Tôi nhìn lên anh bạn người Thark, và một nụ cười nở trên môi tôi, vì lúc này thật sự cần có một gương mặt tươi cười hơn là một cái cằm run rẩy.
“Ông có nghĩ ra tất cả những vụ này là sao không?” Tôi hỏi. “Chúng ta đang ở cái nơi chết tiệt nào đây?”
Ông ngạc nhiên nhìn tôi.
“Chúng ta ở đâu?” Ông lặp lại. “John Carter, có phải anh định bảo tôi là anh không biết anh đang ở đâu?”
“Tất cả những gì mà tôi có thể đoán ra là tôi đang ở Barsoom, nhưng ngoại trừ ông và những con khỉ đột trắng khổng lồ, tôi thậm chí khó lòng đoán ra điều đó, vì những cảnh tượng ngày hôm nay không giống như những gì thuộc về Barsoom yêu dấu mà tôi từng biết cách đây mười năm dài, cũng không giống với thế giới chôn nhau cắt rốn của tôi. Không, Tars Tarkas, tôi không biết chúng ta đang ở đâu.”
“Anh đã ở đâu kể từ lúc anh mở những cánh cổng lớn của nhà máy sản xuất khí quyển cách đây nhiều năm, sau khi người điều hành nhà máy chết, máy ngưng hoạt động và toàn thể Barsoom đang hấp hối vì ngạt thở? Thậm chí người ta không tìm thấy thi thể của anh, dù nhiều người khắp cái thế giới này đã tìm kiếm nó suốt nhiều năm, dù vua xứ Helium và cháu nội ông, nàng công chúa của anh đã hứa sẽ trọng thưởng lớn đến mức ngay cả những hoàng tử thuộc dòng dõi hoàng gia cũng tham gia tìm kiếm.
“Tất cả chỉ có thể kết luận khi mọi nỗ lực tìm anh đều thất bại, rằng anh đã thực hiện chuyến hành hương dài cuối cùng xuống dòng sông Iss, để chờ đợi nàng công chúa Dejah Thoris xinh đẹp của anh ở thung lũng Dor bên bờ biển mất tích xứ Korus.
“Không ai có thể đoán được vì sao anh lại bỏ đi, vì công chúa vợ anh vẫn còn sống…”
“Tạ ơn Thượng đế.” Tôi ngắt lời ông. “Tôi không dám hỏi ông, vì tôi sợ tôi đã chậm chân không cứu được nàng - nàng đã rất yếu khi tôi bỏ lại nàng trong vườn thượng uyển của Tardos Mors vào cái đêm xa xôi đó; yếu đến nỗi lúc đó hầu như tôi không còn hy vọng có thể đến nhà máy khí quyển trước khi linh hồn của nàng rời khỏi tôi mãi mãi. Vậy là nàng vẫn còn sống?”
“Nàng còn sống, John Carter.”
“Ông chưa nói cho tôi biết chúng ta đang ở đâu.” Tôi nhắc ông.
“Chúng ta đang ở nơi mà tôi hy vọng tìm ra anh, John Carter, và một người khác. Cách đây nhiều năm anh đã từng nghe câu chuyện về người phụ nữ đã dạy tôi những điều mà người Hỏa tinh da xanh khác được dạy phải căm ghét chúng, người đã dạy tôi yêu. Anh đã biết về những hình phạt độc ác và cái chết kinh khủng mà tình yêu của nàng đã mang lại cho nàng trong bàn tay của tên quái vật Tal Hajus. Tôi nghĩ là nàng đợi chờ tôi bên bờ biển chết Korus.
“Anh cũng biết rằng có một người đàn ông đến từ một thế giới khác, chính là anh, John Carter, đã dạy cho gã người Thark độc ác này tình bạn là gì. Và tôi nghĩ chắc anh cũng đang lang thang ở thung lũng Dor thảnh thơi này.
“Thế là vì hai người mà tôi mong mỏi nhất đã ở cuối chặng hành hương dài mà tôi phải thực hiện một ngày nào đó, và vì thời gian mà Dejah Thoris từng hy vọng có thể mang anh quay lại bên nàng cũng đã trôi qua - nàng luôn cố tin rằng anh chỉ tạm thời quay trở lại hành tinh của anh; cuối cùng tôi đã lên đường đến với niềm khao khát lớn lao của mình, và tôi khởi hành cách đây một tháng, ngày cuối của nó anh đã chứng kiến hôm nay. Giờ thì anh biết mình đang ở đâu rồi chứ, John Carter?”
“Vậy đó là sông Iss đổ vào biển mất tích xứ Korus trong thung lũng Dor?” Tôi hỏi.
“Đây là thung lũng của tình yêu, an bình và ngơi nghỉ mà mọi người Barsoom từ thời thượng cổ đã luôn khao khát hành hương tới vào cuối một cuộc đời chỉ có thù ghét, tranh chấp và chém giết.” Ông đáp. “John Carter, đây là Thiên đàng.”
Giọng của ông lạnh lẽo và đầy mai mỉa. Sự cay đắng phản ánh nỗi thất vọng khủng khiếp mà ông phải chịu đựng. Một sự vỡ tan ảo tưởng như thế, một sự vỡ tan những hy vọng và khao khát dài cả đời người như thế, một sự chối bỏ truyền thống cổ xưa như thế, hẳn đã bào chữa rất nhiều cho sự tỏ bày thái độ của ông.
Tôi đặt tay lên vai ông.
“Tôi rất tiếc.” Tôi nói, dường như không còn lời nào khác hơn để nói.
“Hãy nghĩ đi, John Carter, về vô số triệu người Barsoom đã tự nguyện hành hương xuống dòng sông tàn ác này từ thời nguyên thủy, chỉ để rơi vào móng vuốt tàn bạo của những sinh vật kinh khủng đã tấn công chúng ta hôm nay.
“Có một truyền thuyết xa xưa kể rằng một lần kia, có một người da đỏ đã quay về từ bờ biển mất tích xứ Korus, quay về từ thung lũng Dor, băng qua dòng sông Iss huyền bí, và truyền thuyết đó nói rằng ông ta đã kể lại một câu chuyện báng bổ đáng sợ về những quái thú kinh khủng đang sinh sống trong một thung lũng xinh đẹp lạ lùng, những con quái thú phóng lên từng người Barsoom khi anh ta kết thúc chuyến hành hương và ăn tươi nuốt sống anh ta bên bờ biển mất tích nơi anh ta đã mong tìm thấy tình yêu, an bình và hạnh phúc. Nhưng những người thời xa xưa đó đã giết chết kẻ phỉ báng, vì truyền thống đã ấn định rằng bất kỳ ai trở về từ đáy của dòng sông huyền bí đều phải bị giết chết.
“Nhưng giờ đây chúng ta biết rằng đó không phải là sự phỉ báng; rằng truyền thuyết đó có thật, và rằng người đàn ông đó chỉ kể lại những gì ông ta nhìn thấy; nhưng điều đó có ích gì cho chúng ta không, John Carter? Vì dù chúng ta có thoát được, chúng ta cũng sẽ bị cư xử như là những người báng bổ. Chúng ta đang nằm giữa con ngựa hoang của niềm tin và con voi điên của thực tế. Chúng ta không còn đường thoát nữa.”
“Hay như người ở trái đất nói, chúng ta đang nằm giữa miệng hùm và hàm sấu dữ, Tars Tarkas.” Tôi đáp, không thể không mỉm cười trước tình thế tiến thoái lưỡng nan này.
“Chúng ta không làm gì khác được ngoài việc chờ đón mọi việc sắp tới, và ít nhất cũng hài lòng khi biết rằng bất kỳ ai muốn giết chúng ta sẽ phải bỏ thây gấp nhiều lần so với số mà chúng thu lượm được. Khỉ đột trắng hay người thực vật, người da xanh hay người da đỏ, bất kỳ ai muốn hạ sát chúng ta sẽ biết rằng chúng phải đền khá nhiều mạng sống dưới tay của John Carter, hoàng tử của gia tộc Tardos Mors và Tars Tarkas, vua xứ Thark.”
Tôi không thể nín cười trước sự hài hước khắc nghiệt của ông, và ông cũng bật ra tiếng cười của niềm vui thật sự vốn là một trong những thuộc tính của vị vua người Thark này, điều phân biệt ông với những người đồng loại khác.
“Nhưng còn anh, John Carter,” cuối cùng ông kêu lên, “nếu anh không ở đây suốt những năm qua thì thật ra anh đã ở đâu, và vì sao tôi lại gặp anh ở đây hôm nay?”
“Tôi đã quay về trái đất. Trong suốt mười năm trái đất dài đằng đẳng tôi đã nguyện cầu có một ngày tôi được đưa một lần nữa về cái hành tinh cổ xưa khắc nghiệt của ông. Vì bất chấp mọi phong tục tàn nhẫn và khủng khiếp của nó, tôi cảm nhận được một mối cảm thông và tình yêu thậm chí còn lớn lao hơn ở thế giới đã sinh ra tôi.
“Suốt mười năm tôi đã chịu đựng một cái chết trong khi đang sống vì sự mơ hồ và nghi ngại rằng không biết Dejah Thoris còn sống hay chăng, và giờ đây, lần đầu tiên trong suốt những năm qua những lời nguyện cầu của tôi đã được hồi đáp, và sự nghi ngại của tôi đã tan biến, tôi đã tìm lại bản thân thông qua một ý thích tàn nhẫn của định mệnh, bị ném vào cái xó xỉnh bé nhỏ này của Barsoom, nơi rõ ràng không có đường thoát khỏi, và nếu có, lại ở cái giá sẽ dập tắt mãi mãi niềm hy vọng mong manh được nhìn thấy lại công chúa của tôi trong cuộc đời này - và ông đã thấy niềm khao khát đó hôm nay.
“Chỉ khoảng nửa giờ trước khi tôi trông thấy ông chiến đấu với bầy người thực vật, tôi còn đang đứng trong ánh trăng bên bờ một con sông rộng đổ ra biển đông của vùng đất hạnh phúc nhất trên trái đất. Tôi đã trả lời ông, bạn của tôi. Ông có tin không?”
“Tôi tin,” Tars Tarkas đáp, “dù tôi không thể hiểu nổi.”
Trong lúc trò chuyện, tôi đã quan sát bên trong căn phòng. Có lẽ nó dài khoảng hai trăm bộ, rộng chừng phân nửa con số đó, với một lối ra ở giữa bức vách đối diện với nơi chúng tôi đã đi vào.
Căn phòng được khoét trong lòng vách núi, phơi bày lớp vàng mờ đục trong ánh sáng tù mù phát ra từ một ngọn đèn phát xạ nhỏ nằm giữa trần phòng. Đây đó, những bề mặt lóng lánh của hồng ngọc, ngọc lục bảo và kim cương nằm rải rác trên những bức vách và trần nhà bằng vàng. Nền phòng làm bằng một chất liệu khác, rất cứng, và đã bị bào mòn nhẵn như kính do sử dụng nhiều. Tôi không nhìn thấy dấu hiệu của một khe hở nào khác ngoài hai cánh cửa, và vì một cánh cửa đã bị đóng lại, tôi tới gần cánh cửa kia.
Khi tôi giơ tay ra để tìm nút điều khiển, tiếng cười độc ác và chế giễu lại vang lên, lần này gần sát đến mức tôi bất giác lùi lại, nắm chặt lấy chuôi gươm.
Và rồi từ góc xa của căn phòng rộng, một giọng nói cất lên đều đều: “ Chẳng có hy vọng nào đâu, chẳng có hy vọng nào đâu; kẻ chết không quay trở lại, kẻ chết không quay trở lại; cũng không có sự hồi sinh. Đừng hy vọng, vì không có hy vọng.”
Dù đôi mắt tôi quay ngay lập tức về nơi dường như phát ra giọng nói, tôi không nhìn thấy ai cả, và tôi phải thú nhận rằng sống lưng tôi chợt lạnh đi và những sợi tóc ngắn sau gáy tôi dựng ngược lên, như những sợi lông cổ của một con chó săn khi nó nhìn thấy những vật lạ lùng trong bóng tối mà con người không thấy được.
Tôi bước nhanh về phía giọng nói thê lương, nhưng nó đã tắt hẳn trước khi tôi tới bức vách kia. Rồi từ đầu kia của căn phòng, một giọng nói the thé, chói tai khác lại cất lên: “ Những tên ngu xuẩn! Những tên ngu xuẩn! ” Nó rít lên. “ Các ngươi nghĩ có thể đánh bại những quy luật vĩnh cửu của Sự Sống và Cái Chết sao? Dám chống đối lại Issus huyền bí, Nữ thần của Cái Chết? Chẳng phải sứ giả hùng mạnh của người, dòng sông cổ Iss, đã đón các ngươi vào lòng nặng nề của nó để đưa các ngươi tới thung lũng Dor?
“Ồ, những tên ngu xuẩn, các ngươi nghĩ rằng Issus sẽ chịu từ bỏ sao? Nghĩ rằng các ngươi có thể trốn thoát khỏi nơi mà trong vô số thời đại chưa có một linh hồn nào thoát khỏi?
“Hãy quay lại con đường mà các ngươi đã đến, về với những cái dạ dày không biết xót thương của con cháu của Cây Sự Sống hay là những cặp nanh lấp lánh của những con khỉ đột trắng, vì đó là sự chấm dứt nhanh chóng những khổ đau; còn nếu cứ khăng khăng theo đuổi mục đích thiển cận băng qua những mê cung của vách núi vàng trong dãy núi Otz, băng qua những thành lũy của các pháo đài không thể xâm nhập của các Thánh Sư, Cái Chết dưới hình thức đáng sợ nhất sẽ ập xuống các ngươi - một Cái Chết kinh khủng đến mức ngay cả những Thánh Sư, kẻ đã hiểu rõ về Sự Sống lẫn Cái Chết cũng phải ngoảnh mặt đi trước sự tàn nhẫn của nó và che tai lại để không nghe thấy tiếng rên la kinh khủng của các nạn nhân.
“Hãy quay lại con đường mà các ngươi đã đến, hỡi những tên ngu xuẩn .”
Rồi tiếng cười đáng sợ phát ra từ đầu bên kia căn phòng.
“Thật kỳ quặc,” tôi quay sang Tars Tarkas và nhận xét.
“Chúng ta phải làm gì?” Ông hỏi. “Chúng ta không thể đánh nhau với không khí. Tôi sẽ nhanh chóng quay lại và đối đầu với những kẻ thù mà tôi có thể cảm nhận được thịt da chúng khi xuyên lưỡi gươm của mình qua thân thể chúng và biết rằng tôi đang đánh đổi một cách xứng đáng cái xác thân yêu mến của tôi trước khi ngã vào sự lãng quên vĩnh viễn, chốn vĩnh cửu công bằng nhất và đáng ao ước nhất mà con người khả tử có quyền hy vọng tới.”
“Nếu, như ông nói, chúng ta không thể đánh nhau với không khí, Tars Tarkas, tôi đáp, “thì ngược lại, không khí cũng không thể đánh nhau với chúng ta. Tôi, kẻ từng đối đầu và chế ngự hàng ngàn chiến binh vạm vỡ và những lưỡi gươm cuồng nộ, sẽ không quay đầu lại vì một chuyện tầm phào. Và cả ông cũng vậy, ông bạn người Thark ạ.”
“Nhưng những giọng nói vô hình có thể phát ra từ những sinh vật vô hình với những lưỡi gươm vô hình.” Người chiến binh da xanh đáp.
“Vớ vẩn, Tars Tarkas.” Tôi kêu lên, “Những giọng nói đó đến từ những sinh vật có thật như ông hay như tôi. Trong mạch máu của chúng cũng là dòng máu có thể cạn dễ dàng như của chúng ta, và sự kiện chúng vẫn vô hình đối với chúng ta là chứng cứ tốt nhất trong đầu tôi rằng chúng là khả tử; là những tên khả tử không can đảm lắm. Tars Tarkas, ông cho rằng John Carter này sẽ bỏ chạy bởi tiếng rít đầu tiên một kẻ thù hèn nhát không dám công khai ló mặt và so gươm thẳng thắn hay sao?”
Tôi đã nói thật to để những tên cố tình khủng bố có thể nghe thấy, vì tôi đã mệt mỏi với sự khủng bố tinh thần này. Tôi cũng nảy ra ý nghĩ rằng, toàn bộ vụ này chỉ là một âm mưu đe dọa để chúng tôi quay lại thung lũng chết chóc mà từ đó chúng tôi đã trốn thoát, để những sinh vật hung tàn ở đó tiêu diệt chúng tôi một cách nhanh chóng.
Im lặng một lúc lâu, rồi đột nhiên một tiếng động khẽ, rón rén sau lưng khiến tôi quay phắt lại và nhìn thấy một con sư tử khổng lồ nhiều chân đang ngoằn ngoèo bò tới chỗ tôi.
Sư tử khổng lồ là loài quái thú săn mồi lang thang trên những ngọn đồi thấp bao quanh những biển chết của Hỏa tinh cổ đại. Như hầu hết những sinh vật Hỏa tinh, nó gần như không có lông, chỉ có một cái bờm to dựng đứng trên cái cổ dầy.
Thân hình dài, mềm mại của nó được bổ sung bởi mười cái chân mạnh mẽ. Cặp hàm to lớn, giống ở loài chó rừng sao Hỏa calot , có những hàng nanh bén nhọn. Mõm nó kéo dài tới đầu trên của đôi tai nhỏ và đôi mắt lớn, lồi màu xanh là nét bổ sung cuối cùng cho vẻ dữ dằn.
Khi bò tới gần tôi, nó quật đuôi sang hai bên hông và khi thấy rằng nó đã bị phát hiện, nó gầm lên một tiếng khủng khiếp. Những con mồi của nó thường bị tê liệt với tiếng gầm và trong khoảnh khắc đó nó lao tới.
Cũng thế, nó quăng thân hình to lớn vào tôi, nhưng tiếng gầm của nó chẳng có tác dụng gì đối với tôi, và nó gặp phải một lưỡi thép lạnh lẽo thay vì da thịt ngon lành của một con mồi.
Trong khoảnh khắc sau đó, tôi rút lưỡi gươm ra khỏi trái tim yên lặng của con sư tử lớn, và khi quay sang Tars Tarkas, tôi ngạc nhiên khi thấy ông đang đối mặt với một con quái thú tương tự.
Ngay khi ông kết liễu con thú, tôi quay lại, như bị thôi thúc bởi bản năng tự vệ, và nhìn thấy một con khác đang vượt qua căn phòng tới gần tôi.
Trong vòng gần một giờ kể từ lúc này trở đi, hết con quái thú này đến con khác liên tục lao vào chúng tôi, rõ ràng là xuất hiện từ đâu đó trong bầu không khí trống rỗng quanh đây.
Tars Tarkas rất hài lòng. Đây là một cái gì đó hữu hình mà ông có thể đâm chém với lưỡi gươm lớn của mình, trong khi tôi, về phần mình, có thể nói rằng cuộc tấn công này là một tiến bộ đáng kể sau những giọng nói quái lạ từ những đôi môi vô hình.
Việc chả có gì là siêu nhiên ở các đối thủ mới của chúng tôi đã được chứng tỏ rõ ràng bởi những tiếng gào rú giận dữ và đau đớn khi chúng đón nhận các nhát gươm và những tia máu thật tuôn ra từ các động mạch bị cắt đứt của chúng khi chúng chết cái chết thật sự.
Trong thời gian xảy ra cuộc tấn công mới này, tôi để ý thấy rằng những con thú chỉ xuất hiện khi chúng tôi xoay lưng về phía chúng. Chúng tôi chưa bao giờ nhìn thấy con nào thật sự hiện ra trong không khí. Và phán đoán cho tôi biết rằng lũ thú phải xông vào phòng qua một lối vào được bố trí che đậy nào đó.
Trong số những thứ trang sức đính trên những vòng đai da của Tars Tarkas, thứ trang phục duy nhất của người sao Hỏa thay vì những mũ lụa, áo lụa hay áo da để chống lại cơn lạnh ban đêm, có một mảnh gương nhỏ, cỡ một gương soi bỏ túi lớn nhất của một phụ nữ, treo ở sau tấm lưng to lớn của ông, ngay khoảng giữa vai và hông.
Khi ông đứng nhìn xuống một đối thủ mới vừa gục chết, mắt tôi tình cờ nhìn vào tấm gương này và trong bề mặt sáng lấp loáng của nó tôi nhìn thấy một cảnh tượng khiến tôi cất tiếng thì thào:
“Đừng cử động, Tars Tarkas! Đừng nhúc nhích một bắp thịt nào!”
Ông không hỏi vì sao mà chỉ đứng im như tượng đá trong khi mắt tôi theo dõi một sự việc lạ lùng có rất nhiều ý nghĩa đối với chúng tôi.
Cái tôi nhìn thấy là chuyển động nhanh chóng của một phần bức vách sau lưng tôi. Nó quay trên những cái trục, và cùng quay với nó là một phần của nền nhà ngay phía trước nó. Giống như bạn đặt đứng một tấm danh thiếp lên một đồng xu mà bạn đã đặt nằm úp trên mặt bàn, khiến cho rìa của tấm cạc chia đôi một cách hoàn hảo bề mặt của đồng xu.
Tấm danh thiếp là một phần của bức tường đang quay và đồng xu là một phần nền nhà. Cả hai được nối kết với nhau sít sao đến nỗi không một vết hở nào có thể nhận ra.
Khi đường quay đi được nửa vòng, một con quái thú hiện ra, ngồi chồm hỗm trên phần nền nhà đang quay vốn là phía đối diện phía ngoài bức vách trước khi nó bắt đầu chuyển động. Khi phần nền nhà dừng lại, con thú đã đối diện với tôi. Sự việc khá đơn giản.
Nhưng cái làm tôi chú ý nhất là cảnh tượng mà phần nền nhà đã quay đi cho thấy qua khoảng trống nó tạo ra. Một căn phòng lớn, sáng rực ánh đèn, trong đó có nhiều đàn ông và phụ nữ bị xiềng vào tường, và trước mặt họ là một người đàn ông có gương mặt tàn ác, rõ ràng đã điều khiển và vận hành chuyển động của cánh cửa bí mật. Hắn không đỏ như người Hỏa tinh da đỏ, cũng không xanh như người da xanh, mà trắng, giống như tôi, với một mái tóc vàng xõa dài.
Những tù nhân sau lưng hắn là những người Hỏa tinh da đỏ. Cùng bị xiềng với họ còn có một số quái thú, một số giống như những con đã tấn công chúng tôi, và một số khác cũng dữ tợn không kém.
Khi tôi quay lại đối mặt với địch thủ mới, trái tim tôi đã vô cùng nhẹ nhõm.
“Nhìn bức tường ở đầu căn phòng kia, Tars Tarkas,” tôi cảnh báo, “bọn thú được thả qua những cánh cửa bí mật trên tường đó để tấn công chúng ta.” Tôi đứng sát bên ông và nói với một giọng thật khẽ để những tên đang hành hạ chúng tôi không biết rằng tôi đã phát giác được bí mật của bọn chúng.
Chừng nào chúng tôi còn nhìn vào hai đầu đối diện của căn phòng thì vẫn chưa có cuộc tấn công nào khác. Thế là hoàn toàn rõ ràng rằng những phần của căn phòng này bằng cách nào đó đang bị quan sát từ bên ngoài.
Cuối cùng, tôi nảy ra một kế hoạch hành động. Lui lại sát bên cạnh Tars Tarkas, tôi thì thầm nói cho ông nghe ý định của mình, mắt vẫn dán chặt vào đầu kia của căn phòng.
Người bạn Thark làu bàu đồng ý khi tôi nói xong, và bắt đầu làm theo kế hoạch của tôi bằng cách lùi về phía bức tường mà tôi đối diện trong khi tôi chậm rãi tiến về phía trước mặt ông.
Khi đã tới một điểm cách cánh cửa bí mật chừng mười bộ, tôi ra hiệu cho đồng đội của mình dừng lại và yêu cầu ông đứng yên bất động cho tới khi tôi ra hiệu sẵn sàng. Tôi nhanh nhẹn xoay lưng về phía cánh cửa mà qua đó tôi hầu như có thể cảm thấy những cặp mắt đỏ rực và hiểm ác của những con quái thú.
Ngay lập tức, mắt tôi dán vào tấm gương trên lưng Tars Tarkas và trong một giây sau đó tôi nhìn chăm chú phần tường sau lưng mình.
Tôi không phải đợi lâu, vì ngay lúc đó bề mặt vàng lóng lánh bắt đầu di chuyển nhanh. Nó gần như khởi động ngay khi tôi ra hiệu cho Tars Tarkas, đồng thời lao tới cánh cửa đã hé ra phân nửa. Theo cách tương tự, bạn tôi nhào tới lối ra ở đầu đối diện.
Một cú phóng duy nhất đã đưa tôi lọt vào căn phòng kế bên và giúp tôi mặt đối mặt với cái tên có gương mặt hung ác mà tôi đã nhìn thấy trước đó. Hắn cao cỡ tôi, có cơ bắp rắn chắc và ở mọi chi tiết ngoại hình đều giống hệt như một người trái đất.
Bên hông hắn treo một thanh kiếm dài, một con dao găm và một trong số những khẩu súng kinh khủng rất phổ biến trên sao Hỏa.
Việc tôi chỉ vũ trang bằng một thanh kiếm dài, và theo quy tắc và đạo đức chiến đấu ở khắp nơi trên sao Hỏa, rằng người ta chỉ có thể sử dụng thứ vũ khí tương tự hay kém hơn đối thủ, dường như không có tác dụng nào đối với tên này, vì hắn rút khẩu súng ra trước khi tôi hạ chân xuống nền nhà bên cạnh hắn, nhưng một nhát gươm của tôi đã hất văng khẩu súng khỏi tay hắn trước khi hắn có thể bóp cò.
Ngay lập tức, hắn rút thanh gươm dài ra, và thế là cả hai chúng tôi lao vào một trong những trận cận chiến ghê gớm nhất mà tôi từng biết.
Hắn là một kiếm thủ cừ khôi và rõ ràng là tập luyện thường xuyên, trong khi đó, tôi đã không cầm lại chuôi gươm suốt mười năm dài trước buổi sáng ngày hôm đó.
Nhưng chẳng bao lâu tôi đã xuất chiêu một cách dễ dàng, và chỉ trong vòng vài phút, gã đàn ông này bắt đầu nhận ra rằng cuối cùng hắn đã gặp một đối thủ đáng gờm.
Gương mặt hắn thâm tím lại vì giận dữ khi không thể xâm nhập qua đường gươm phòng vệ của tôi, trong khi máu đã tuôn ra từ hàng chục vết thương nhỏ trên mặt và thân thể hắn.
“Ngươi là ai, tên da trắng kia?” Hắn rít lên. “Từ màu da của người, rõ ràng người không phải là người Barsoom ở thế giới bên ngoài. Và ngươi cũng không phải là một người trong số chúng ta.”
Câu cuối của hắn gần như là một câu hỏi.
“Nếu ta tới từ ngôi đền của Issus thì sao?” Tôi đánh bạo nói liều.
“Ôi định mệnh!” Hắn kêu lên, gương mặt hắn tái nhợt đi bên dưới lớp máu giờ đang phủ kín nó.
Tôi không biết tiếp tục ra sao, nhưng tôi cẩn thận xếp đặt những suy nghĩ để có thể lợi dụng chúng ở tương lai. Câu trả lời của hắn cho thấy rằng với tất cả những gì hắn ĐÃ BIẾT, tôi có thể đến từ ngôi đền của Issus và ở đó có những người giống như tôi. Và hắn, hoặc là sợ những cư dân ở ngôi đền, hoặc tôn sùng cá nhân hay quyền lực của họ đến mức phải run lên khi nghĩ tới sự tổn hại và sỉ nhục mà hắn đã trút lên một người trong số họ.
Nhưng công việc của tôi với hắn lúc này có tính chất khác với việc đòi hỏi một nguyên do trừu tượng nào đáng kể. Đó là việc chọc lưỡi gươm của tôi vào lồng ngực hắn, và trong vài giây sau đó, tôi đã thực hiện nó xong.
Những tù nhân bị xiềng đã theo dõi trận đấu trong im lặng. Trong phòng không có một âm thanh nào khác ngoài tiếng vũ khí chạm nhau, tiếng chân di chuyển và vài lời trao đổi mà chúng tôi đã thốt ra với nhau trong cuộc chiến một mất một còn.
Nhưng khi thân hình tên đối thủ nằm dài trên sàn, một tiếng kêu cảnh báo bật thốt lên từ một trong những tù nhân nữ:
“Quay lại! Quay lại! Sau lưng anh!” Cô ta rú lên, và khi tôi xoay người cùng với tiếng thét đầu tiên của cô ta, tôi đối mặt với một người thứ hai cùng chủng loại với tên đang gục chết dưới chân tôi.
Tên này đã lén lút bò ra từ một hành lang tối và gần như đang lao vào tôi với thanh gươm giơ cao trước khi tôi nhìn thấy hắn. Không thấy Tars Tarkas đâu cả và tấm panô bí mật trên tường đã khép lại.
Tôi ước gì ông có mặt ở đây ngay lúc này! Tôi đã chiến đấu liên tục suốt nhiều giờ. Tôi đã trải qua những mạo hiểm có thể hút cạn sinh lực của một con người. Thêm nữa, tôi đã không ăn và ngủ suốt gần hai mươi bốn giờ qua.
Tôi đã kiệt sức, và lần đầu tiên trong suốt bao nhiêu năm tôi tự đặt câu hỏi về khả năng đương đầu với một đối thủ của mình. Nhưng chẳng còn con đường nào khác ngoài việc giải quyết hắn ta, một cách nhanh chóng và dữ dằn, vì lối thoát duy nhất của tôi là đánh ngã hắn với sự tấn công mãnh liệt - tôi không thể hy vọng thắng trong một trận đấu kéo dài.
Nhưng rõ ràng hắn có ý đồ, vì hắn cứ lùi và né tránh cho tới khi tôi gần như kiệt sức trong nỗ lực kết liễu hắn.
Hắn là một kiếm sĩ khéo léo hơn tên địch trước đó, và tôi phải thừa nhận rằng hắn đã dẫn dắt tôi vào một cuộc cút bắt mà kết thúc đang tới gần là tôi sẽ mắc phải một sai lầm ngu xuẩn và chết người.
Tôi cảm thấy mình đang yếu dần. Tới một lúc nào đó, khi mọi vật bắt đầu nhạt nhòa trước mặt và tôi lảo đảo, quờ quạng gần như ngủ hơn là tỉnh thức, hắn sẽ kết liễu tôi.
Hắn đã ép tôi lùi lại trước xác của tên đồng bọn. Khi hắn đột ngột xông lên, tôi buộc phải lùi thêm lần nữa, và vướng chân vào cái xác, tôi ngã ngửa lên trên nó.
Đầu tôi đập vào nền nhà cứng đánh bốp một cái, và nhờ đó mà tôi thoát chết, vì nó làm đầu óc tôi sáng tỏ lại và cơn đau làm tôi nổi giận, đến mức ngay lúc đó tôi có thể xé kẻ thù của mình ra thành trăm mảnh với đôi tay không. Tôi quả đã tin rằng mình hẳn phải nỗ lực làm điều đó, nếu tay phải của tôi, với cử động chống người đứng lên, không chạm vào một thứ kim loại lạnh.
Giống như đôi mắt của một người thường, khi bàn tay của một chiến binh chạm phải một thứ vũ khí, anh ta sẽ biết ngay nó là gì. Tôi không cần phải nhìn hay suy nghĩ cũng biết đó chính là khẩu súng của tên địch đã chết, nằm ở chỗ nó rơi xuống lúc đầu.
Tên địch đã dùng mưu mẹo hạ tôi ngã đang xông tới gần, mũi gươm lấp lánh chĩa thẳng vào tim tôi, đồng thời, từ đôi môi hắn phát ra tràng cười ác độc và chế giễu mà tôi đã nghe thấy trong căn phòng bí mật.
Thế là hắn đi đời, đôi môi mỏng vẫn còn cong lên trong tràng cười đáng ghét. Một viên đạn từ khẩu súng của tên đồng bọn đã phá tung trái tim của hắn.
Thân hình hắn, theo đà chạy, đổ nhào xuống người tôi, chuôi gươm của hắn chắc đã chạm mạnh vào đầu tôi, vì khi va chạm với xác của hắn, tôi bất tỉnh.