Chương IV THUVIA
Những âm thanh xung đột đã thôi thúc tôi quay về một lần nữa với thực tại. Trong khoảnh khắc, tôi không thể xác định được những vật xung quanh hay vị trí của những âm thanh đã đánh thức tôi. Và rồi, từ phía ngoài của bức tường trống bên cạnh chỗ tôi nằm, tôi nghe tiếng chân sột soạt di chuyển, tiếng gầm gừ của quái thú, tiếng va chạm lanh canh của những trang phục bằng kim loại, và tiếng thở nặng nề của một người đàn ông.
Khi gượng đứng lên, tôi liếc nhanh quanh căn phòng mà trong đó tôi mới vừa được tiếp đón một cách nồng nhiệt. Những người tù và những con quái thú hung dữ vẫn bị xiềng vào bức tường đối diện đang dõi mắt nhìn tôi với nhiều biểu hiện khác nhau: tò mò, giận dữ, kinh ngạc và hy vọng.
Cảm xúc nói sau cùng có lẽ được thể hiện rõ ràng trên gương mặt xinh đẹp và thông minh của người thiếu nữ da đỏ đã cất tiếng cảnh báo và cứu sống tôi.
Nàng là kiểu mẫu hoàn hảo của chủng tộc rất xinh đẹp đó, với ngoại hình giống như những chủng tộc gần với Thượng đế hơn của loài người trên trái đất, ngoại trừ một điều là màu da nàng đỏ sáng ánh đồng hun. Vì nàng hoàn toàn không đeo trang sức gì cả, tôi không thể đoán ra địa vị của nàng trong xã hội, dù hiển nhiên là nàng phải là tù nhân hay nô lệ trong môi trường hiện tại.
Mất nhiều giây trước khi những âm thanh ở phía đối diện bên kia căn phòng mang đến cho những cơ quan đang chậm chạp phục hồi của tôi một nhận thức về nguồn gốc của chúng. Rồi đột nhiên, tôi nghiệm ra sự thật rằng chúng do Tars Tarkas gây nên trong cuộc chiến đấu tuyệt vọng với những con thú hoang hay những con người man rợ.
Với một tiếng thét động viên, tôi phóng người vào cánh cửa bí mật, nhưng chỉ để tự ném mình vào vách đá. Rồi tôi nôn nóng tìm kiếm tấm panô xoay, nhưng không có kết quả nào cả, và khi tôi sắp sửa vung gươm chém vào bức tường vàng thì người nữ tù trẻ tuổi cất tiếng gọi tôi.
“Hãy gìn giữ thanh gươm của anh, hỡi người chiến binh mạnh mẽ, vì anh sẽ cần tới nó nhiều cho một mục đích khác - đừng chém nó vào thứ kim loại vô tri mà một cái chạm nhẹ ngón tay của người nắm giữ bí mật của nó sẽ có ích hơn nhiều.”
“Cô biết bí mật của nó hay sao?”
“Vâng, hãy tháo xiềng cho tôi, rồi tôi sẽ mở lối cho anh tới một căn phòng khủng khiếp khác nếu anh muốn. Những cái chìa khóa để mở cùm cho tôi trên người đối thủ đầu tiên của anh. Nhưng vì sao anh muốn quay lại đương đầu với loài sư tử hung bạo, hay bất kỳ hình thức hủy diệt nào khác mà họ đã chuẩn bị trong cái bẫy đáng sợ đó?”
“Vì bạn tôi đang chiến đấu ở đó một mình.” Tôi đáp trong khi vội vã tìm kiếm và đã tìm thấy những chiếc chìa khóa trên thi hài của tên coi ngục.
Có rất nhiều chìa khóa trên cái vòng hình bầu dục, nhưng cô gái Hỏa tinh xinh đẹp nhanh chóng chọn ra chiếc chìa để mở cái cùm lớn ở hông nàng. Khi đã tự do, nàng vội vã tiến tới tấm panô bí mật.
Nàng lại lấy từ cái vòng ra một chiếc chìa khóa. Nó giống như một cây kim thon nhỏ. Nàng tra nó vào một cái lỗ hầu như không thể nhìn thấy trên tường. Ngay lập tức, cánh cửa xoay ra trên những cái trục, và phần tiếp giáp của nền nhà mà tôi đang đứng đưa tôi cùng với nó đi vào căn phòng nơi Tars Tarkas đang chiến đấu.
Người chiến binh Thark vĩ đại đứng tựa lưng vào một góc tường, đối diện với ông là khoảng nửa tá quái thú khổng lồ vây quanh thành hình bán nguyệt, đang thu mình chờ cơ hội tấn công. Những cái đầu và vai đẫm máu của chúng lý giải nguyên do của sự thận trọng đó cũng như chứng tỏ kiếm thuật tài ba của Tars Tarkas. Tình trạng tương tự trên lớp da bóng loáng của ông cũng cho thấy sự dã man của những cuộc tấn công mà ông đã chịu đựng cho đến lúc này.
Những bộ móng vuốt và những hàng nanh dữ tợn đã xé nát chân, tay và ngực ông tới tận xương. Sự nỗ lực liên tục và mất máu nhiều làm ông yếu đến nỗi tôi e là ông khó lòng đứng vững nếu không có bức tường. Nhưng với sự ngoan cường bất khuất và lòng dũng cảm của nòi giống, ông vẫn đối đầu với những kẻ thù tàn bạo - một hiện thân của câu tục ngữ xưa trong bộ lạc của ông: “Miễn là một người Thark còn cái đầu và một bàn tay, anh ta vẫn có thể chinh phục.”
Khi nhìn thấy tôi vào, một nụ cười dữ tợn nở trên đôi môi ông, nhưng tôi không biết nụ cười đó là dấu hiệu của sự nhẹ nhõm hay chỉ đơn giản là niềm vui khi nhìn thấy tình trạng bê bết máu me và lôi thôi lếch thếch của tôi.
Khi sắp lao vào cuộc chiến cùng thanh gươm của mình, tôi cảm thấy một bàn tay đặt nhẹ lên vai tôi và khi quay lại, tôi ngạc nhiên khi thấy người thiếu nữ cũng đã theo tôi vào căn phòng đó.
“Chờ chút,” nàng nói nhỏ, “để chúng đó cho tôi.” Rồi nàng đẩy tôi ra và tiến tới, hoàn toàn không có gì tự vệ trước những con sư tử đang gầm gừ.
Khi tới thật gần chúng, nàng thốt lên một từ sao Hỏa với giọng rất khẽ nhưng kiên quyết. Như những tia chớp, những con quái thú chạy tới vây lấy nàng, và tôi cho rằng nàng sẽ bị xé nát thành từng mảnh trước khi tôi tới cạnh nàng. Nhưng không, lũ quái thú quấn lấy chân nàng như những con chó con đang cầu xin một trận đòn nương nhẹ.
Nàng lại nói với chúng, giọng khẽ đến nỗi tôi không thể nghe thấy được, rồi nàng bước về phía đối diện của căn phòng với sáu con quái thú bám theo sát gót. Nàng cho từng con một đi qua tấm panô bí mật vào căn phòng bên kia. Khi con cuối cùng đã ra khỏi căn phòng nơi chúng tôi đang đứng với đôi mắt mở to kinh ngạc, nàng quay lại mỉm cười với chúng tôi, rồi cũng bước theo ra ngoài, bỏ chúng tôi ở lại.
Trong một lúc lâu, cả hai chúng tôi không nói câu nào. Rồi Tars Tarkas bảo:
“Tôi nghe tiếng đánh nhau phía ngoài vách ngăn mà anh đã đi qua, nhưng tôi không lo cho anh, John Carter, cho tới khi tôi nghe tiếng súng nổ. Tôi biết rằng không có người nào trên khắp Barsoom này có thể đương đầu với anh bằng lưỡi thép tuốt trần mà sống sót, nhưng tiếng súng đã tước mất chút hy vọng còn lại của tôi, vì tôi biết anh không có súng. Kể chuyện đó cho tôi nghe nào.”
Tôi kể lại theo yêu cầu của ông. Sau đó chúng tôi cùng tìm kiếm tấm panô bí mật mà tôi qua băng qua để vào căn phòng này - tấm panô ở đầu đối diện của căn phòng mà từ đó cô gái đã dắt những người bạn dữ tợn của mình đi qua.
Chúng tôi thất vọng khi mọi nỗ lực tìm ra cái khóa bí ẩn của nó đều vô hiệu quả. Chúng tôi cảm thấy rằng khi đã ra khỏi đây, chúng tôi có thể hy vọng sẽ tìm ra được một lối thoát ra thế giới bên ngoài.
Sự kiện những tù nhân bị xiềng một cách cẩn trọng khiến chúng tôi tin rằng chắc chắn phải có một con đường để thoát khỏi những con thú kinh khủng sinh sống tại cái nơi tồi tệ này.
Chúng tôi cứ quay từ cửa này sang cửa kia, từ tấm panô vàng ngăn cách ở một đầu của căn phòng sang tấm nằm ở đầu đối diện.
Khi chúng tôi sắp từ bỏ mọi hy vọng, một trong hai tấm panô lặng lẽ xoay về phía chúng tôi, rồi cô gái lúc nãy lại hiện ra bên cạnh chúng tôi.
“Các anh là ai?” Nàng hỏi. “Sứ mệnh của các anh là gì mà phải liều mạng tìm cách trốn khỏi thung lũng Dor và cái chết mà các anh đã chọn.”
“Tôi chả chọn cái chết nào cả, cô gái ạ.” Tôi đáp. “Tôi không phải là người Barsoom, và cũng chẳng tự nguyện hành hương tới dòng sông Iss. Ông bạn tôi đây là vua của tất cả mọi người Thark, và dù ông ta chưa bày tỏ mong muốn quay trở về thế giới đang sống, tôi đang kéo ông ta ra khỏi sự dối trá đã khiến ông tìm tới cái nơi đáng sợ này.
“Tôi là người ở một thế giới khác. Tôi là John Carter, hoàng tử trong vương triều của Tardos Mors, vua xứ Helium. Có lẽ một vài lời đồn đại mơ hồ nào đó về tôi đã lọt tới cái xứ sở giống như địa ngục này của cô chăng.”
Nàng mỉm cười.
“Phải,” nàng đáp, “không có điều gì xảy ra trong thế giới chúng ta đã rời khỏi mà ở đây người ta không biết. Tôi đã nghe nói về anh, cách đây nhiều năm. Những Thánh sĩ ở đây đã từng tự hỏi không biết anh biến đi đâu, vì anh chưa bao giờ hành hương tới đây, mà cũng chẳng được tìm thấy trên bề mặt của Barsoom.”
‘Nói cho tôi biết cô là ai,” tôi nói, “và tại sao cô lại trở thành tù nhân, thế nhưng lại có quyền năng đối với những con quái vật dữ tợn ở một nơi mà sự quen thuộc và quyền lực hoàn toàn nằm ngoài khả năng của một tù nhân hay nô lệ?”
“Tôi là nô lệ,” nàng đáp, “là nô lệ trong suốt mười lăm năm tại cái chốn khủng khiếp này, nhưng hiện tại, họ sắp xử tôi tội chết vì đã mệt mỏi với tôi và trở nên e sợ khả năng hiểu biết của tôi.”
Nàng rùng mình.
“Chết thế nào?” Tôi hỏi.
“Những Thánh sĩ ăn thịt người,” nàng đáp; “nhưng chỉ ăn thịt của những ai đã chết dưới những cái mồm hút máu của một người thực vật - thịt mà dòng máu ô uế của sự sống đã bị hút cạn. Và tôi bị tuyên án sẽ chết với cái kết thúc tàn nhẫn đó. Nó sắp sửa diễn ra trong vài giờ nữa, nếu cuộc mạo hiểm của các anh không làm gián đoạn kế hoạch của họ.”
“Những người đã nếm sức nặng bàn tay của John Carter có phải là những Thánh sĩ không?” Tôi hỏi.
“Ồ, không; những người anh đã hạ gục là những tu sĩ có đẳng cấp thấp hơn; nhưng cũng cùng chung dòng giống tàn ác và đáng ghét đó. Các Thánh sĩ sống trên những sườn đồi bên ngoài, giáp với thế giới rộng lớn mà từ đó họ đã thu hoạch các nạn nhân và chiến lợi phẩm cho mình.
“Những lối đi rắc rối như mê cung nối liền các hang động này với những cung điện xa hoa của các Thánh sĩ, và thông qua các con đường đó, họ giao nhiều nhiệm vụ cho những tu sĩ cấp thấp hơn, những bầy nô lệ, tù nhân và quái thú; những cư dân tàn bạo của cái thế giới không có ánh mặt trời này.
“Trong cái mạng lưới mênh mông những lối đi chằng chịt và vô số hang động này, đàn ông, đàn bà và thú vật sinh ra dưới ánh sáng tối tăm, kinh khủng trong lòng thế giới của nó chưa bao giờ nhìn thấy ánh mặt trời, và cũng sẽ không bao giờ nhìn thấy.
“Họ phải làm theo mệnh lệnh của các tu sĩ; phục vụ ngay tức khắc cho hoạt động thể thao và dinh dưỡng của những người kia.
“Thỉnh thoảng có một người hành hương không may trôi từ dòng sông Iss ra biển im lặng, thoát khỏi bọn người thực vật và lũ khỉ đột trắng canh gác đền Issus và rơi vào bàn tay tàn nhẫn của các Thánh sĩ; hoặc, như sự rủi ro của tôi, bị tóm lại bởi cái gã Thánh sĩ đứng quan sát trên cái gờ đá ở phía trên dòng sông.
“Theo tập tục, tất cả những ai tới thung lũng Dor đều là con mồi thuộc quyền sử dụng của bọn người thực vật và lũ khỉ đột trắng, còn vũ khí và trang bị của họ trở thành phần chia của những tu sĩ; nhưng nếu một người thoát khỏi những cư dân khủng khiếp trong thung lũng thậm chí chỉ vài giờ thôi, thì những tu sĩ có quyền xem người đó là của họ. Và khi một Thánh sĩ đứng quan sát nhìn thấy một nạn nhân mà hắn muốn, hắn thường giẫm chân lên quyền lợi của những cư dân không lý trí của thung lũng và chiếm đoạt nạn nhân bằng những thủ đoạn xấu xa nếu không thể đoạt lấy một cách công bình.
“Có người kể rằng thi thoảng một nạn nhân bị lừa dối nào đó của sự mê tín ở Barsoom thoát khỏi bàn tay của vô số kẻ thù trên con đường kể từ lúc anh ta ra khỏi đường hầm mà qua đó dòng sông Iss chảy suốt một ngàn dặm trước khi nó đổ vào thung lũng Dor cho tới khi anh ta tới ngay chân những bức tường của đền Issus; nhưng định mệnh nào chờ đợi người ta ở đó, ngay cả những Thánh sĩ cũng không thể đoán được, vì kẻ đã đi qua những bức tường dát vàng đó không bao giờ còn quay ra để hé lộ những bí ẩn đã được gìn giữ từ buổi sơ khai của thời gian.
“Đền Issus đối với những tu sĩ cũng giống như thung lũng Dor mà những người ở thế giới bên ngoài hình dung; rằng nó là nơi ẩn náu cuối cùng của an bình, hạnh phúc mà họ sẽ chuyển tới sau cuộc sống. Thế nhưng ở đó, sự bất diệt đã tiêu tan giữa niềm vui được ăn tươi nuốt sống cái thân xác vô cùng quyến rũ của loài sinh vật khổng lồ bị bệnh tâm thần và những tên lùn đạo đức giả.”
“Theo tôi, đền Issus là một địa ngục nằm trong một địa ngục.” Tôi nói. “Chúng ta hãy hy vọng rằng ở đó, bọn tu sĩ cũng sẽ được đối xử như họ đã đối xử với những người khác ở đây.”
“Ai biết được?” Cô gái lẩm bẩm.
“Tôi cho là các Thánh sĩ, qua những gì cô nói, cũng phải chết giống chúng ta. Thế nhưng tôi luôn luôn nghe dân chúng ở Barsoom nói về họ với sự sùng bái và kính sợ, như là nói về những thần linh.”
“Những tu sĩ là người khả tử.” Cô gái đáp. “Họ chết vì những lý do giống như của anh hay của tôi. Họ không sống hết quãng đời ấn định của mình, một ngàn năm, khi bị người có quyền lực hay tập tục buộc họ phải lên đường đi tìm hạnh phúc xuyên qua con đường hầm dài dẫn tới Issus.
“Những người chết trước được cho là đã sử dụng khoảng đời còn lại của họ dưới lốt một người thực vật, và vì lý do này mà các tu sĩ sùng kính người thực vật, vì họ tin rằng mỗi sinh vật ghê tởm ấy trước kia là một tu sĩ.”
“Còn nếu một người thực vật chết thì sao?”
“Nếu hắn chết trước thời hạn một ngàn năm tính từ ngày ra đời của một tu sĩ, kẻ được xem là bất tử, khi đó linh hồn của hắn sẽ chuyển sang một con khỉ đột trắng, nhưng nếu con khỉ đột này chết trước thời điểm chính xác kết thúc một ngàn năm, linh hồn sẽ bị lưu lạc mãi mãi và chuyển từ bất diệt thành loài thuồng luồng ghê tởm thân hình đầy nhớt đông đúc hàng ngàn con đang quằn quại trong biển im lặng nằm dưới hai vầng trăng khi mặt trời đã đi qua và những hình dáng kỳ lạ lướt qua thung lũng Dor.”
“Vậy thì hôm nay chúng ta đã biến nhiều tu sĩ thành những con thuồng luồng rồi.” Tars Tarkas nói và bật cười to.
“Thế nên cái chết của hai anh sẽ còn kinh khủng hơn nữa.” Cô gái bảo. “Và nó sẽ đến, các anh không thể thoát được.”
“Có một người đã thoát được, cách đây nhiều thế kỷ,” tôi nhắc nàng, “và cái gì đã từng được thực hiện cũng có thể được thực hiện thêm lần nữa.”
“Có cố cũng chẳng ích gì đâu.” Nàng đáp một cách vô hy vọng.
“Nhưng chúng tôi sẽ cố gắng,” tôi kêu lên, “và cô sẽ đi với chúng tôi, nếu cô muốn.”
“Để bị chính người dân của tôi giết chết, và khiến ký ức về tôi trở thành một nỗi ô nhục cho gia đình và dân tộc tôi? Một hoàng tử trong hoàng triều của Tardos Mors lẽ ra có thể đề xuất một điều gì hay hơn thế.”
Tars Tarkas im lặng lắng nghe, nhưng tôi có thể cảm thấy đôi mắt ông đang dán vào tôi và tôi biết ông đang chờ câu trả lời của tôi, như một bị cáo đang chờ lời tuyên án của quan tòa.
Điều mà tôi đã khuyên cô gái cũng sẽ là định mệnh của chúng tôi. Vì thế, nếu tôi nhượng bộ cái bản án của sự mê tín lâu đời này, tất cả chúng tôi phải ở lại và đón chào định mệnh dưới một hình thức kinh khủng nào đó trong cái nơi tàn ác và khủng khiếp này.
“Chúng ta có quyền bỏ trốn nếu có thể.” Tôi đáp. “Ý thức đạo đức của chúng ta sẽ không bị tổn thương nếu chúng ta thành công, vì chúng ta biết rằng cuộc sống của tình yêu và an bình trong thung lũng Dor hạnh phúc theo lời truyền tụng là một sự lừa bịp xấu xa và trắng trợn. Chúng ta biết rằng thung lũng này không linh thiêng. Chúng ta biết rằng những tên Thánh sĩ chẳng linh thiêng gì cả; rằng họ chỉ là một chủng tộc khả tử độc ác, nhẫn tâm, không biết về cuộc sống thật sự sắp tới nhiều hơn chút nào so với những điều mà chúng ta biết.
“Việc tiến hành mọi nỗ lực để trốn thoát không chỉ là quyền của chúng ta. Nó là một bổn phận nghiêm mật mà chúng ta phải thực thi ngay cả khi biết rằng chúng ta có thể bị sỉ vả và hành hạ bởi chính nhân dân của chúng ta khi quay về với họ.
“Chỉ có như vậy, chúng ta mới có thể mang sự thật về cho những người không quá gắn bó với sự mê tín điên cuồng và ngu xuẩn, và dù khả năng được tin tưởng của chúng ta, tôi xin nghiêng theo ý cô, là rất ít oi, chúng ta sẽ thật sự là những kẻ hèn nhát nếu lẫn tránh một bổn phận giản đơn như vậy.
“Vả lại, cũng có cơ may là với sức nặng chứng cứ của nhiều người, sự thật trong lời nói của chúng ta có thể được chấp nhận, và ít nhất nó cũng có thể mang lại một thỏa hiệp để tiến hành một cuộc thám hiểm hay điều tra đối với cái thiên đường ghê tởm đầy mỉa mai này.”
Cả cô gái lẫn người chiến binh da xanh đứng im lặng trầm ngâm một lúc. Cuối cùng, chính cô gái là người phá vỡ sự im lặng.
“Tôi chưa bao giờ xem xét vấn đề dưới ánh sáng đó trước đây.” Nàng nói. “Thật sự, tôi sẵn sàng hiến cuộc đời tôi một ngàn lần nếu có thể chỉ để cứu mỗi một linh hồn duy nhất thoát khỏi kiếp sống đáng sợ mà tôi đã trải qua trong cái nơi tàn nhẫn này. Vâng, anh nói đúng, và tôi sẽ đi với các anh chừng nào còn đi được; nhưng tôi ngờ rằng chúng ta sẽ không bao giờ trốn thoát.”
Tôi quay sang nhìn ông bạn người Thark.
“Dù là những cánh cổng đền Issus, hay là đáy biển Korus,” người chiến binh da xanh nói, “là miền bắc tuyết dầy hay miền nam tuyết trắng, Tars Tarkas sẽ đi tới bất kỳ nơi nào mà John Carter dẫn dắt. Tôi đã nói xong.”
“Vậy tiến lên thôi,” tôi hét lên, “chúng ta phải xuất phát ngay, vì chúng ta không thể đi xa nếu cứ ở mãi giữa lòng của ngọn núi và giữa bốn bức tường của căn phòng chết chóc này.”
“Tiến lên,” cô gái nói,” nhưng đừng hy vọng hão rằng anh sẽ không tìm thấy nơi nào tệ hơn cái nơi nằm trong lãnh địa của các tu sĩ này nhé.”
Nói xong, nàng xoay tấm panô bí mật ngăn cách chúng tôi với căn phòng mà tôi đã gặp nàng và một lần nữa chúng tôi xuất hiện trước những người tù khác.
Tất cả mười người bọn họ, cả nam lẫn nữ, đều là người da đỏ. Sau khi nghe chúng tôi giải thích vắn tắt về kế hoạch, họ quyết định tham gia với chúng tôi nhưng vẫn lo âu rằng họ đang đánh liều với số phận của mình khi đương đầu với một niềm mê tín rất xa xưa, dù mỗi người đều đã biết thông qua trải nghiệm đắng cay sự dối trá của toàn bộ mọi chuyện.
Thuvia, cô gái mà tôi giải thoát trước nhất, chẳng bao lâu sau đó cũng đã giải phóng cho mấy người kia. Tars Tarkas và tôi tháo khỏi thi thể hai gã tu sĩ các thứ vũ khí, bao gồm gươm, dao găm và hai khẩu súng cùng loại với kiểu súng của người da đỏ chế tạo.
Chúng tôi phân phối vũ khí cho những người đồng đội mới, giao hai khẩu súng cho hai người phụ nữ, trong đó có Thuvia.
Với tư cách người dẫn đường, Thuvia nhanh chóng nhưng cẩn trọng đưa chúng tôi đi qua những mê cung, băng qua những căn phòng lớn khoét sâu vào lòng vách núi, đi theo những hành lang ngoằn ngoèo, dốc lên cao, thỉnh thoảng lại ẩn núp vào các góc tối khi nghe thấy tiếng bước chân tới gần.
Điểm đến của chúng tôi, theo lời Thuvia, là một căn nhà kho ở xa, nơi có thể tìm được khá nhiều vũ khí và đạn. Từ đó, nàng sẽ dẫn chúng tôi lên tới đỉnh vách núi, và chúng tôi sẽ phải sử dụng cả trí khôn lẫn vũ lực để mở đường băng qua trung tâm thành trì của bọn Thánh sĩ để thoát ra thế giới bên ngoài.
“Ngay cả lúc ấy, hoàng tử ạ,” nàng bảo, “cánh tay của các tu sĩ vẫn còn dài. Nó vươn tới mọi quốc gia của Barsoom. Những ngôi đền bí mật của nó nằm lẩn khuất đâu đó ở giữa mỗi cộng đồng. Nếu thoát được, chúng ta sẽ thấy rằng ở bất kỳ nơi nào chúng ta đến, những lời đồn về chúng ta đã đến trước chúng ta, và cái chết chực chờ chúng ta trước khi chúng ta có thể làm ô nhiễm bầu không khí với những lời báng bổ.”
Chúng tôi đã lên đường được khoảng một giờ mà không gặp phải ngăn trở nào. Khi chúng tôi vừa đi vào một căn phòng lớn và Thuvia thì thầm bảo tôi rằng chúng tôi đang tiếp cận điểm đến đầu tiên thì chúng tôi chạm trán với một gã Thánh sĩ.
Ngoài các thứ dây đai và trang sức bằng châu báu, hắn còn đeo một chiếc vòng vàng bên trên lông mày, ngay giữa chiếc vòng có gắn một viên đá lớn giống hệt như viên đá tôi từng nhìn thấy trên ngực của ông già bé nhỏ ở nhà máy khí quyển hai mươi năm trước.
Đó là loại châu báu vô giá ở Barsoom. Người ta mới chỉ biết tới hai viên ngọc loại này, và chúng được đeo để xác nhận đẳng cấp và địa vị của hai ông già có trách vụ vận hành những cỗ máy lớn bơm khí quyển nhân tạo cho toàn sao Hỏa.
Viên ngọc mà gã Thánh sĩ đang đối diện với chúng tôi đeo có cùng kích thước với viên mà tôi từng trông thấy, có đường kính khoảng một in-sơ. Nó phát ra chín tia sáng khác nhau: bảy màu quang phổ và hai màu khác không có trên trái đất. Vẻ đẹp kỳ diệu của hai tia sáng này thật sự không thể tả.
Khi nhìn thấy chúng tôi, đôi mắt của hắn nhíu lại thành hai khe hẹp xấu xa.
“Đứng lại!” hắn la lên. “Vụ này là sao, Thuvia?”
Để đáp lời, cô gái giơ súng lên và nả đạn thẳng vào hắn. Hắn gục xuống đất chết tươi, không kịp nói thêm tiếng nào.
“Đồ súc sinh!” Nàng rít lên. “Cuối cùng tôi đã báo được thù sau ngần ấy năm.”
Khi quay sang tôi hé môi giải thích, đôi mắt nàng đột nhiên mở to, và với một tiếng kêu cảm thán nàng bước tới gần tôi.
“Ồ, hoàng tử,” nàng nói, “định mệnh thật rất tốt bụng với chúng ta. Con đường vẫn còn khó khăn, nhưng thông qua cái tên hèn mạt đang nằm trên mặt đất, chúng ta có thể tìm ra thế giới bên ngoài. Anh có thấy rằng anh rất giống với cái gã Thánh sĩ này?”
Thật vậy, gã đó có cùng cỡ người với tôi, màu mắt và các đặc điểm khác cũng vậy. Nhưng mái tóc hắn là một chùm những lọn tóc dài màu vàng, giống như hai tên mà tôi đã giết, trong khi tóc tôi màu đen và cắt ngắn.
“Giống thì sao chứ?” Tôi hỏi nàng. “Cô muốn tôi đóng giả cái tên thầy tu tóc vàng của cái giáo phái địa ngục này với mái tóc đen cắt ngắn của tôi à?”
Nàng mỉm cười, và thay cho lời đáp, nàng bước tới cái xác, quỳ xuống và tháo chiếc vòng vàng ra khỏi trán hắn, rồi trước sự kinh ngạc tột độ của tôi, nàng bóc toàn bộ mái tóc ra khỏi đầu hắn.
Nàng đứng lên, tới cạnh tôi và đặt bộ tóc vàng lên mái tóc đen của tôi, rồi tròng chiếc vòng vàng có gắn viên đá kỳ diệu lên đầu tôi.
“Giờ cứ khoác lấy mái tóc giả của hắn, hoàng tử ạ,” nàng bảo, “và anh có thể đi qua mọi nơi anh muốn trong các khu vực của bọn tu sĩ, vì Sator Throg là một Thánh sĩ Đệ thập cấp, và có khá nhiều quyền lực.”
Khi cúi xuống cái xác, tôi nhận ra không có một sợi tóc nào trên cái đầu của hắn, nó hoàn toàn nhẵn nhụi như một cái vỏ trứng.
“Tất cả bọn họ đều như thế từ lúc mới sinh ra.” Thuvia giải thích khi nhìn thấy sự ngạc nhiên của tôi. “Tổ tiên của họ có một mái tóc vàng rất đẹp, nhưng từ nhiều thế hệ chủng tộc này đã hoàn toàn bị sói đầu. Tuy nhiên, bộ tóc giả đã trở thành một phần trong trang phục thầy tu của họ, và được họ xem là một phần quan trọng vì với một tu sĩ nỗi nhục lớn nhất là xuất hiện trước công chúng mà không có nó.”
Chỉ một thoáng sau, tôi đứng trong bộ lễ phục của một Thánh sĩ.
Theo đề nghị của Thuvia, hai trong số những người tù được giải thoát vác cái xác chết đi theo. Chúng tôi tiếp tục hành trình tới căn nhà kho, không hề gặp một trở ngại nào.
Ở đó, với những chiếc chìa khóa mà Thuvia thu được từ xác tên tu sĩ cai ngục, chúng tôi mở ngay được cửa nhà kho, và ngay sau đó chúng tôi đã trang bị đầy đủ súng đạn.
Tới lúc này, tôi đã hoàn toàn kiệt sức không thể nào đi tiếp, vì thế, tôi quăng mình xuống nền nhà, yêu cầu Tars Tarkas làm theo, và nhắc hai trong số tù nhân được giải thoát cẩn thận canh gác.
Tôi ngủ thiếp đi ngay sau đó.