Chương XX TRẬN KHÔNG CHIẾN
Khoảng nửa đêm, hai giờ sau khi rời cung điện của tôi ở Helium, Kantos Kan, Xodar và tôi tới Hastor. Carthoris, Tars Tarkas và Hor Vastus đã đi thẳng tới Thark trên một con tàu khác.
Những con tàu vận tải ngay lập tức xuất phát và chậm chạp tiến về nam. Đoàn tàu chiến sẽ bắt kịp chúng vào sáng ngày thứ hai.
Ở Hastor, chúng tôi thấy mọi thứ đã được sẵn sàng, và Kantos Kan đã hoạch định một cách hoàn hảo từng chi tiết của chiến dịch đến mức chỉ trong vòng mười phút sau khi chúng tôi tới, đoàn tàu thứ nhất đã cất cánh rời khỏi sân bay. Sau đó, trong thoáng chốc, những con tàu lớn lướt nhẹ vào màn đêm, tạo thành một đường kẻ dài, mỏng mảnh trải dài hàng dặm về hướng nam.
Chỉ sau khi chúng tôi đã vào cabin của Kantos Kan, tôi mới nghĩ tới việc hỏi về ngày tháng, vì cho tới lúc đó tôi không chắc mình đã ở bao lâu trong những căn hầm ngục của Zat Arras. Khi Kantos Kan bảo cho tôi biết, tôi bàng hoàng nhận ra mình đã tính sai thời gian trong lúc nằm trong bóng tối của căn ngục. Ba trăm sáu mươi lăm ngày đã trôi qua - đã quá muộn để giải cứu Dejah Thoris.
Cuộc viễn chinh không còn mục đích giải cứu nữa mà là báo thù. Tôi không nhắc với Kantos Kan về sự thật kinh khủng rằng trước khi chúng tôi có thể hy vọng vào được ngôi Đền Issus, công chúa Helium sẽ không còn trên đời nữa. Theo những gì tôi biết, có thể nàng đã chết rồi, vì tôi không biết đích xác ngày nàng được diện kiến Issus lần đầu.
Giờ đây, không nên để cho các bạn tôi phải gánh thêm gánh nặng đối với những nỗi buồn chồng chất của tôi - họ đã chia sẻ quá đủ với tôi trong quá khứ. Do đó tôi nén giữ niềm đau khổ cho riêng mình, và không nói gì với bất cứ về sự thật rằng chúng tôi đã quá chậm trễ. Thế nhưng cuộc viễn chinh vẫn có nhiều ý nghĩa nếu nó có thể dạy cho nhân dân Hỏa tinh những sự thật về sự lừa dối tàn ác đã kéo dài suốt vô số thế hệ, và nhờ đó mỗi năm sẽ cứu cho hàng ngàn người thoát khỏi định mạng tàn khốc đang chờ đợi họ ở chặng cuối cuộc hành hương tự nguyện.
Sẽ rất có ích khi người da đỏ hiểu được về thung lũng Dor, và Miền đất của những linh hồn đi lạc nằm giữa những dãy núi Otz, và cánh đồng băng chắn ngang rộng hàng nhiều dặm không cần phải tưới tiêu để có những mùa màng sung túc.
Ở đây, dưới đáy của một thế giới hấp hối, là một khu vực có bề mặt phì nhiêu một cách tự nhiên duy nhất. Chỉ ở đây mới có sương và mưa, chỉ ở đây mới có một biển cả lộ thiên, và đầy những nước; và tất cả những thứ này chỉ là chốn lai vãng của những loài thú dữ, và từ vùng đất rộng mở phì nhiêu và xinh đẹp này, những tàn dư tệ hại của hai chủng tộc từng một thuở hùng cường đã ngăn chặn hàng triệu con người khác của Hỏa tinh. Chỉ cần tôi có thể thành công trong việc phá tan cái rào chắn của sự mê tín tôn giáo đã ngăn chặn các chủng tộc khỏi vùng đất El Dorado [3] này, đây sẽ là một sự tưởng niệm xứng đáng cho những phẩm hạnh bất tử của nàng công chúa của tôi - tôi sẽ lại phục vụ cho Barsoom và sự hy sinh của Dejah Thoris sẽ không uổng công vô ích.
Rạng sáng tinh mơ buổi sáng ngày thứ hai, chúng tôi xuất phát những đoàn thuyền vận chuyển lớn và những con tàu hộ tống. Chẳng bao lâu, chúng tôi đã tới gần đủ để chuyển giao các tín hiệu. Ở đây, tôi xin lưu ý rằng tín hiệu vô tuyến điện rất ít khi được sử dụng trong thời chiến, hay để chuyển giao những thông điệp bí mật, vì thông thường khi một quốc gia phát hiện ra một loại mật mã mới; hay phát minh ra một dụng cụ mới cho các mục đích vô tuyến, các nước láng giềng của nó sẽ nỗ lực tối đa cho tới khi họ có thể ngăn chặn và dịch được các thông điệp đó. Vì thế trong một thời gian rất dài, điều này khiến cho mọi khả năng của thông tin vô tuyến điện trở nên kiệt quệ và không có quốc gia nào dám chuyển các thông điệp quan trọng theo cách này.
Tars Tarkas báo cáo rằng các con tàu vận chuyển đều ổn thỏa. Những con tàu chiến lướt qua để giữ vị trí tiên phong, và những đoàn tàu kết hợp di chuyển chầm chậm trên băng cực, bám sát vào mặt đất để bọn tu sĩ làm chủ vùng đất mà chúng tôi đang tiếp cận không thể phát hiện ra.
Đi trước hết ở phía xa là một đường kẻ mỏng những chiếc tàu trinh sát một người lái để dọ thám tình hình, và số khác hộ tống hai bên sườn của chúng tôi, trong khi một số ít hơn đi bọc hậu sau các con tàu vận chuyển chừng hai mươi dặm. Với đội hình này chúng tôi đã tiến về phía lối vào của biển Omean trong suốt nhiều giờ khi một trong số những chiếc tàu trinh sát ở phía trước quay lại để báo cáo rằng cái đỉnh hình nón của lối vào đã hiện ra trong tầm mắt. Hầu như ngay lúc đó, một chiếc tàu trinh sát khác từ sườn trái lao nhanh về phía con tàu chỉ huy.
Tốc độ rất nhanh của nó nói lên tầm quan trọng của thông tin mà nó mang tới. Kantos Kan và tôi chờ nó trên boong tàu nhỏ lớn tương đương với cái cầu của những con tàu chiến trên trái đất.
Hầu như ngay sau khi con tàu trinh sát nhỏ đã đậu trên sân đáp rộng của tàu chỉ huy, viên phi công bước lên thang tới boong tàu nơi chúng tôi đứng.
“Một đoàn tàu chiến lớn đang bay theo hướng nam, đông nam, thưa hoàng tử,” anh ta kêu lên. “Phải có tới nhiều ngàn chiếc và chúng đang hướng thẳng về phía chúng ta.”
“Những tên tu sĩ gián điệp không luồn vào cung điện của John Carter mà chẳng làm được gì,” Kantos Kan nói với tôi. “Xin hoàng tử hãy ra lệnh.”
“Hãy cử mười con tàu chiến canh gác lối vào biển Omean, với mệnh lệnh là không để cho kẻ thù nào vào hay rời khỏi đường hầm. Điều đó sẽ giam chân đoàn tàu lớn của bọn da đen.
“Triển khai các con tàu chiến thành một chữ V lớn với đỉnh chỉ thẳng về hướng nam, đông nam. Lệnh cho các con tàu vận chuyển, xung quanh là tàu hộ tống, bay thật sát lằn tàu của các tàu chiến cho tới khi đỉnh của chữ V đã đi vào đội hình của kẻ thù, khi đó chữ V sẽ mở rộng ra ở đỉnh, những tàu chiến của mỗi cánh tấn công dữ dội kẻ thù và đẩy lùi chúng để hình thành một hành lang xuyên qua đội hình của chúng, các con tàu vận chuyển và tàu hộ tống phải bay vào hành lang đó với tốc độ lớn nhất để tới một vị trí bên trên các đền dài và khu vườn của bọn tu sĩ.
“Ở đó, hãy hạ cánh và dạy cho bọn Thánh sĩ một bài học về sự ác liệt của chiến tranh mà chúng sẽ không thể quên được trong suốt vô số thế hệ. Dự định của tôi không tách khỏi ý đồ chính của chiến dịch, nhưng chúng ta phải tiến hành một cuộc tấn công dứt điểm bọn tu sĩ này, nếu không chúng ta sẽ không được yên ổn trong thời gian đoàn tàu của chúng ta còn ở lại gần Dor, và các cơ may trở về thế giới bên ngoài của chúng ta sẽ bị giảm thiểu rất nhiều.”
Kantos Kan chào tôi và quay đi để chuyển giao các chỉ thị của tôi cho các viên sĩ quan phụ tá đang chờ đợi. Trong một khoảng thời gian ngắn ngủi đến khó tin, đội hình của những con tàu chiến đã thay đổi theo mệnh lệnh của tôi, mười chiếc canh gác cửa vào biển Omean đang lao nhanh tới điểm đến của chúng, và những con tàu chở quân cùng các tàu hộ tống đang bám sát nhau để chuẩn bị bay xuyên qua hành lang.
Mệnh lệnh tiến tới hết tốc độ được ban ra, đoàn tàu lao vút qua không gian như những con chó săn đang săn thỏ, và tiếp sau đó những con tàu của kẻ thù đã hiện ra trong tầm mắt. Chúng tạo thành một đường rời rạc từ hai phía và có độ dầy khoảng ba chiếc tàu. Cuộc đột kích của chúng tôi bất ngờ đến mức chúng chưa có thời gian chuẩn bị. Nó bất ngờ như tia sét hiện ra trên một bầu trời quang đãng.
Mỗi giai đoạn trong kế hoạch của tôi đều có hiệu quả tuyệt vời. Những con tàu lớn của chúng tôi cắt một con đường qua đường bay của những con tàu chiến của bọn tu sĩ; rồi chữ V mở rộng ra và một hành lang rộng xuất hiện, những con tàu vận chuyển lao vào đó thẳng tiến về phía các ngôi đền lấp lánh của bọn tu sĩ mà giờ đây có thể nhìn thấy rõ ràng dưới ánh mặt trời. Trước khi bọn tu sĩ có thể tập hợp lại từ cuộc tấn công, một trăm ngàn chiến binh da xanh đã nhảy xuống các cung điện và khu vườn của chúng, trong khi một trăm năm mươi ngàn chiến binh khác tựa người vào thành những con tàu vận chuyển đang hạ thấp để trổ tài thiện xạ siêu phàm của họ với những tên lính tu sĩ đang đóng trên thành lũy hay đang cố gắng bảo vệ những ngôi đền.
Lúc này hai đoàn tàu lớn đã tới gần nhau trong một trận đánh kinh thiên động địa ở phía xa bên trên tiếng ầm ĩ của trận đánh trong những khu vườn rực rỡ của bọn tu sĩ. Hai nhánh của các chiến thuyền Helium chầm chậm nối đầu lại với nhau, rồi bắt đầu biến thành một vòng tròn trong hàng ngũ quân thù.
Từng chiếc một lượn vòng trên đường bay của chúng bên dưới Kantos Kan cho tới khi cuối cùng chúng tạo thành một vòng tròn gần như hoàn hảo. Khi đã bay vào đường bay của địch, chúng tấn công ngay bên sườn những con tàu của bọn tu sĩ. Phía kẻ thù cố gắng đột nhập và phá vỡ đội hình đó, nhưng điều này cũng giống như việc đưa bàn tay trơn ngăn lại một lưỡi cưa đang xé gió.
Từ vị trí của tôi trên boong bên cạnh Kantos Kan, tôi nhìn thấy hết con tàu này tới con tàu khác của kẻ thù rơi xuống. Chúng tôi chậm rãi triển khai vòng tròn của cái chết cho tới khi chúng tôi lơ lửng bên trên những khu vườn nơi những chiến binh da xanh đang tấn công. Tôi truyền lệnh cho họ lên tàu. Lúc đó họ chầm chậm rút tới một vị trí ở giữa trung tâm của vòng tròn.
Cũng trong lúc này, hỏa lực của bọn tu sĩ đã hoàn toàn tắt hẳn. Chúng đã quá kinh hoàng và chỉ vui mừng để cho chúng tôi yên ổn tiếp tục hành trình. Nhưng cuộc tẩu thoát của chúng tôi không hoàn toàn dễ dàng như vậy, vì hầu như ngay khi vừa lên đường hướng tới lối vào của biển Omean, chúng tôi nhìn thấy ở phía bắc xa xa một vạch đen lớn đang ló lên ở chân trời. Nó không thể là gì khác ngoài một đoàn tàu chiến.
Chúng tôi không thể đoán được đó là tàu của ai và chúng đang bay tới đâu. Khi chúng tới gần hơn, người vận hành tàu của Kantos Kan nhận được một bức thông điệp vô tuyến điện mà anh ta lập tức trao cho bạn của tôi. Anh ta đọc xong rồi đưa nó cho tôi. Nó viết thế này: “ Kantos Kan, hãy đầu hàng đi, nhân danh Jeddak xứ Helium, vì mi không thể tẩu thoát. Ký tên: Zat Arras .”
Bọn tu sĩ hẳn cũng đã bắt được và dịch bức thông điệp gần như cùng lúc với chúng tôi, vì ngay lập tức chúng khôi phục lại vẻ thù địch khi nhận ra rằng chúng tôi sẽ sớm bị những kẻ thù khác tấn công.
Trước khi Zat Arras tới đủ gần để phát hỏa, một lần nửa chúng tôi giao chiến dữ dội với đoàn tàu của bọn tu sĩ. Khi đã tới gần, hắn bắt đầu nã một loạt đạn kinh khủng vào chúng tôi. Hết con tàu này tới con tàu khác lảo đảo rơi xuống dưới những loạt đạn không biết thương xót mà chúng tôi đang gánh chịu.
Việc này không thể kéo dài lâu hơn. Tôi lệnh cho những con tàu vận chuyển hạ cánh trở lại xuống những khu vườn của bọn tu sĩ.
“Hãy trả thù cho tới mức tột cùng,” tôi gửi thông điệp cho những đồng minh da xanh, “vì cho tới tối sẽ không còn ai sống sót để báo thù cho những sai lầm của các bạn.”
Ngay sau đó, tôi nhìn thấy mười chiếc chiến thuyền đã được ra lệnh canh gác đường hầm biển Omean. Chúng đang quay trở lại với tốc độ tối đa, liên tục nổ súng vào các khẩu pháo của bọn tu sĩ. Chỉ có một cách giải thích duy nhất. Họ đang bị truy đuổi bởi một đoàn tàu thù địch khác. Chà, tình cảnh không thể nào tệ hơn nữa. Cuộc viễn chinh đã tới hồi kết thúc. Không có người nào đã lên tàu có thể quay lại qua cái chỏm băng đáng sợ đó nữa. Tôi ước gì có thể chạm trán Zat Arras với thanh trường kiếm của mình chỉ một khoảnh khắc trước khi tôi chết! Chính hắn đã gây ra sự thất bại của chúng tôi.
Khi quan sát mười chiếc chiến thuyền đang lao đến, tôi nhìn thấy những kẻ truy đuổi đang nhanh chóng hiện ra trong tầm mắt. Đó là một đoàn tàu lớn khác. Trong khoảnh khắc, tôi không thể tin vào mắt của mình. Nhưng cuối cùng tôi buộc phải chấp nhận định mệnh rủi ro nhất đã xảy ra cho cuộc viễn chinh, vì đoàn tàu mà tôi nhìn thấy chính là đàn tàu của bọn da đen, lẽ ra phải được cầm chân một cách an toàn ở biển Omean. Thật là cả một chuỗi tai ương và không may mắn! Định mệnh đáng sợ đã lơ lửng trên đầu tôi vì hẳn tôi đã bị cản trở ở từng bước chân nhỏ trên con đường tìm kiếm người vợ mất tích của mình! Thật sự đã có một thứ tính chất thần thánh thâm hiểm nào đó trong cái thân xác gớm ghiếc ấy! Tôi không tin vào nó, và, ngực ưỡn ra, tôi chạy tới boong tàu bên dưới để tiếp tay cho các bạn của mình chống lại những tên đang đáp xuống tàu từ một con tàu của bọn tu sĩ. Trong niềm khát khao chiến đấu mặt đối mặt, niềm hy vọng kiên cường cũ của tôi đã quay trở lại. Và khi những tên tu sĩ lần lượt gục xuống dưới lưỡi kiếm của tôi, tôi hầu như cảm thấy rằng cuối cùng chúng tôi có thể chiến thắng, thậm chí từ một thất bại đã hiển nhiên.
Sự hiện diện của tôi đã khích lệ các anh em chiến binh nhiều đến nỗi họ xông lên những tên da trắng thiếu may mắn với một sự hung tợn kinh khủng. Chỉ trong khoảng khắc, chúng tôi đã xoay chuyển tình thế và một giây sau đó, khi đã tràn lên những boong tàu của chúng, tôi hài lòng khi nhìn thấy tên chỉ huy của chúng đã nhảy từ mái vòm con tàu xuống để biểu lộ sự đầu hàng và chiến bại.
Sau đó tôi tới cạnh Kantos Kan. Anh ta đã quan sát những gì xảy ra ở boong tàu bên dưới, và dường như nó đã mang lại cho anh ta một ý tưởng mới mẻ. Ngay lập tức, anh ta truyền lệnh cho một trong những viên sĩ quan cấp dưới. Ngay sau đó, những lá cờ của hoàng tử xứ Helium tung ra từ mọi điểm của con tàu chỉ huy. Một tiếng hò reo lớn vỡ ra từ những người trên tàu, một tiếng hò reo được tiếp nối bởi mỗi một con tàu khác của đoàn lính viễn chinh khi họ kéo những lá cờ của tôi lên nóc tàu.
Thế rồi Kantos Kan tiến hành việc làm táo bạo của mình. Một tấm băng-rôn có thể dễ dàng nhìn thấy đối với từng thủy thủ của tất cả các đoàn tàu tham gia vào trận chiến dữ dội đó được kéo lên cột buồm của con tàu chỉ huy.
“ Vì Hoàng tử xứ Helium, những người Helium chống lại mọi kẻ thù của ông ta ,” nó ghi như vậy. Lúc này cờ của tôi xuất hiện từ một trong những con tàu của Zar Arras. Rồi từ một con tàu khác, một con tàu khác nữa. Trên một số tàu, chúng tôi có thể nhìn thấy những trận chiến dữ dội diễn ra giữa chiến binh Zodanga và các thủy thủ Helium, nhưng cuối cùng cờ của hoàng tử xứ Helium tung bay trên mọi con tàu đã đi theo Zat Arras truy đuổi chúng tôi - chỉ không có trên con tàu chỉ huy của hắn.
Zat Arras đã mang theo năm ngàn tàu chiến. Bầu trời đen kịt lại dưới ba đoàn tàu lớn. Helium đang chiếm lĩnh trận địa lúc này, và trận đánh đã biến thành vô số cuộc đấu tay đôi. Các đoàn tàu không thể hoặc khó mà triển khai thế trận trong bầu trời đông nghịt, đầy lửa đạn đó.
Tàu chỉ huy của Zat Arras ở gần tàu của tôi. Tôi có thể nhìn thấy hình dáng của hắn từ chỗ tôi đang đứng. Đám thủy thủ người Zodanga của hắn đang trút hết loạt đạn này tới loạt đạn khác vào chúng tôi và chúng tôi đáp lại với sự dữ dội tương đương. Hai con tàu mỗi lúc một tới gần nhau hơn cho tới khi chỉ còn cách nhau vài mét. Mọi người đổ xô ra phía thành của mỗi con tàu. Chúng tôi chuẩn bị cho cuộc chiến đấu sống còn với kẻ thù đáng ghét của mình.
Những cái móc sắt đầu tiên được ném ra khi hai con tàu lớn chỉ còn cách nhau một mét. Tôi lao lên boong tàu cùng với chiến sĩ của mình. Ngay đúng lúc hai con tàu chạm nhẹ vào nhau, tôi chen vào dòng người và là người đầu tiên phóng sang boong tàu của Zat Arras. Sau lưng tôi, những chiến binh cừ khôi nhất cũng phóng ào qua trong tiếng hò reo, la hét, nguyền rủa. Không gì có thể ngăn được họ khi cơn sốt của khát khao chiến trận đang bùng lên trong đầu họ.
Những tên lính Zoganda rút lui trước cơn thủy triều chiến trận đang dâng đó, và khi binh lính của tôi quét sạch những boong tàu thấp hơn, tôi lao tới phía trước boong tàu nơi Zat Arras đang đứng.
“Mi là tù nhân của ta, Zat Arras,” tôi hét lên. “Hãy đầu hàng và mi sẽ được tha chết.”
Trong một khoảnh khắc, tôi không thể nói được là hắn định đồng ý theo yêu cầu của tôi hay sẽ đối mặt tôi với thanh kiếm tuốt ra khỏi vỏ. Hắn đứng ngần ngừ trong khoảnh khắc, rồi buông thỏng đôi tay, hắn quay đầu và chạy tới phía đối diện của boong tàu. Trước khi tôi có thể đuổi kịp, hắn phóng tới thành tàu và ném người vào những độ sâu đáng sợ bên dưới.
Zat Arras, phó vương xứ Zoganda, đã tự kết liễu mình như thế.
Trận đánh lạ lùng đó vẫn tiếp diễn. Bọn tu sĩ và bọn da đen không hợp lực với nhau để chống lại chúng tôi. Ở bất cứ nơi nào một con tàu của bọ tu sĩ gặp một con tàu của bọn da đen đều có một trận đánh tưng bừng, và chính điều này đã cứu chúng tôi. Bất cứ chỗ nào khi các thông điệp của tôi có thể được truyền đi mà không bị kẻ thù nắm bắt, tôi đều truyền đi mệnh lệng rằng tất cả các con tàu của chúng tôi phải rút khỏi trận chiến càng nhanh càng tốt, tập trung về một vị trí ở phía tay và phía nam của chiến địa. Tôi cũng cử một phi đội trinh sát tới những chiến binh da xanh trong các khu vườn bên dưới để truyền lệnh lên tàu trở lại và lệnh cho các tàu vận chuyển tập trung.
Các viên chỉ huy của chúng tôi được chỉ thị thêm rằng khi giao chiến với một kẻ thù phải thu hút nó càng nhanh càng tốt tới một con tàu của kẻ thù truyền kiếp của nó, và thận trọng vận động để buộc cho hai bên giao chiến với nhau, sau đó tìm cách rút ra. Chiến lược này tỏ ra rất hoàn hảo, và ngay trước khi mặt trời lặn, tôi hài lòng khi nhìn thấy tất cả những gì còn sót lại của đoàn tàu hùng mạnh trước đây đang tập trung ở một vị trí cách chiến địa vẫn còn dữ dội giữa bọn người da đen và da trắng gần hai mươi dặm về hướng tây nam.
Tôi chuyển Xodar sang một chiến thuyền khác và cử anh cùng năm ngàn chiến thuyền trực tiến về phía Đền Issus. Carthoris, tôi và Kantos Kan chỉ huy số thuyền còn lại, tiến về lối vào của biển Omean.
Kế hoạch của chúng tôi lúc này là cố gắng tiến hành một cuộc tấn công kết hợp vào Issus vào rạng sáng hôm sau. Tars Tarkas với các chiến binh da xanh của ông và Hor Vastus với người đa đỏ, do Xodar dẫn đường, sẽ hạ cánh trong khu vườn của Issus hay các đồng cỏ xung quanh; trong khi Carthoris, Kantos Kan và tôi sẽ dẫn lực lượng nhỏ hơn của mình từ biển Omean tiến qua những đường hầm bên dưới ngôi đền mà Carthoris biết rất rõ.
Bây giờ tôi đã hiểu ra lý do vì sao mười chiến thuyền của tôi phải rút lui khỏi miệng đường hầm. Có lẽ khi họ vửa tới bên trên đường hầm, hải quân của bọn Con Cả đã triển khai ra khỏi miệng đường hầm. Trọn hai mươi chiến thuyền đã thoát ra, và dù họ nổ súng ngay lập tức để cố gắng ngăn chặn cơn thủy triều đang cuộn lên từ đường hầm đen tối, kẻ thù chống lại họ quá lớn và họ buộc phải bỏ chạy.
Với sự cảnh giác cao, chúng tôi tiếp cận đường hầm, dưới sự che phủ của bóng đêm. Tôi lệnh cho đoàn thuyền dừng lại ở khoảng cách vài dặm và từ đó Carthoris tiến tới trước một mình trên một con tàu một người lái để dọ thám tình hình. Khoảng nửa giờ sau, nó quay lại và báo rằng không có dấu hiệu gì của một con tàu tuần tiễu hay của kẻ thù dưới bất kỳ hình thức nào. Thế là chúng tôi nhanh chóng và lặng lẽ tiến quân về hướng biển Omean.
Ở miệng đường hầm, chúng tôi dừng lại một lúc để tất cả mọi con thuyền tới những địa điểm đã chỉ định trước của chúng, rồi cùng với con tàu chỉ huy, tôi nhanh chóng chìm vào độ sâu đen tối, trong lúc các chiến thuyền khác cũng lần lượt theo sau tôi một cách nhanh chóng.
Chúng tôi phải quyết định nắm lấy mọi cơ hội có thể để tới ngôi đền bằng con đường ngầm dưới đáy biển, vì thế tôi không để lại con tàu canh gác nào ở miệng đường hầm. Làm thế cũng chẳng ích lợi gì vì chúng tôi không có đủ lực lượng để chống lại hải quân hùng mạnh của bọn da đen nếu chúng quay lại để giao chiến với chúng tôi.
Để vào biển Omean an toàn, chúng tôi phụ thuộc rất nhiều vào sự chống cự của nó. Tôi tin rằng trước khi bọn Con Cả canh gác ở đó nhận ra kẻ thù chứ không phải đoàn tàu trên đường quay về của chúng đang bay vào cái vòm của lòng biển bị chôn, chúng tôi đã vượt qua đó.
Và sự việc diễn ra như vậy. Trên thực tế, có bốn trăm trong số năm trăm chiến thuyền của chúng tôi đã an toàn đáp xuống lòng biển Omean trước khi loạt đạn đầu tiên nổ. Trận đánh rất ngắn ngủi và dữ dội, nhưng không thể có kết quả nào khác. Bọn Con Cả, do khá bất cẩn trong sự an toàn tưởng tượng, chỉ để lại một nhúm tàu cổ lổ và lạc hậu để canh gác hải cảng to lớn của chúng.
Carthoris đề nghị rằng chúng tôi sẽ cho những tù nhân đang được canh giữ đổ bộ lên vài hòn đảo lớn, rồi kéo những con tàu của bọn Con Cả tới đường hầm, nơi chúng tôi sẽ tìm cách đưa chúng vào bên trong cái lòng giếng lớn một cách an toàn. Thế rồi chúng tôi mở những tia nổi trong bộ điều hòa của chúng, để chúng tự nổi lên khóa lại con đường hành lang tới biển Omean khi chúng tiếp cận với những con tàu đã đậu sẵn ở đó.
Lúc này, chúng tôi cảm thấy rằng ít nhất sẽ có một khoảng thời gian nào đó trước khi bọn Con Cả quay về tới được mặt biển Omean, và chúng tôi có nhiều cơ hội để tiến vào những hành lang ngầm dưới biển dẫn tới Đền Issus. Một trong những bước đầu tiên mà tôi tiến hành là tự chỉ huy một lực lượng khá lớn tới hòn đảo cất tàu ngầm. Ở đó chúng tôi chỉ gặp sự cưỡng kháng rất yếu ớt của một nhóm lính canh nhỏ.
Tôi tìm thấy con tàu ngầm trong cái hồ của nó. Ngay lập tức tôi cử một đội binh lính hùng mạnh ở lại để canh giữ nó và hòn đảo, rồi chờ Carthoris và những người khác tới.
Trong số các tù binh có Yersted, chỉ huy của con tàu ngầm. Hắn nhận ra tôi nhờ ba chuyến đi mà tôi đã thực hiện cùng với hắn trong thời gian tôi bị bọn người Con Cả giam giữ.
“Cảm thấy thế nào khi cục diện xoay chuyển,” tôi hỏi hắn, “trở thành tù nhân của người mà anh giam giữ ngày xưa?”
Hắn mỉm cười, một nụ cười rất dữ tợn mang nhiều ý nghĩa sâu xa.
“Sẽ không lâu đâu, John Carter,” hắn đáp. “Chúng tôi đang chờ đợi anh và chúng tôi đã chuẩn bị.”
“Nó đã xảy ra như thế,” tôi đáp, “vì tất cả bọn anh đã chuẩn bị để trở thành tù nhân của tôi mà gần như không bên nào phải nổ súng.”
“Đoàn tàu có thể bỏ lỡ anh,” hắn nói, “nhưng nó sẽ quay lại Omean, và khi đó vấn đề sẽ rất khác - đối với John Carter.”
“Tôi không biết rằng đoàn tàu đã bỏ lỡ tôi,” tôi đáp, nhưng dĩ nhiên hắn không hiểu ý của tôi, và chỉ nhìn một cách hoang mang.
“Có nhiều tù nhân đi tới chỗ của Issus trên con tàu của anh không, Yersted?” Tôi hỏi.
“Rất nhiều,” hắn gật đầu.
“Anh có nhớ một người được gọi là Dejah Thoris?”
“Chà, thật vậy, vì vẻ đẹp tuyệt vời của nàng ta, và cũng vì thực tế rằng nàng là vợ của kẻ khả tử đầu tiên đã thoát khỏi Issus qua vô số thời đại thần thánh của người. Và cái cách mà Issus nhớ nàng với tư cách là vợ của một người và mẹ của một người khác đã giơ tay chống lại Nữ thần của Cuộc sống Vĩnh cửu.”
Tôi rùng mình sợ hãi khi nghĩ tới sự báo thù hèn hạ mà tôi biết Issus có thể thực hiện lên Dejah Thoris vô tội vì sự báng bổ của chồng con nàng.
“Vậy bây giờ Dejah Thoris ở đâu?” Tôi hỏi, biết rằng hắn sẽ nói những lời mà tôi sợ nhất, thế nhưng tôi yêu nàng tới mức tôi không thể kềm lòng để nghe thậm chí một điều xấu nhất về số phận của nàng từ đôi môi của một kẻ gần đây đã gặp nàng. Với tôi, điều này dường như mang nàng tới gần tôi hơn.
“Hôm qua vừa diễn ra các nghi lễ hàng tháng của Issus,” Yersted đáp, “và tôi nhìn thấy nàng ngồi ở vị trí quen thuộc của nàng dưới chân của Issus.”
“Cái gì,” tôi kêu lên, “vậy là nàng chưa chết?”
“Sao, chưa,” gã da đen đáp, “chưa tròn một năm kể từ ngày nàng nhìn lên vẻ đẹp linh thiêng sáng chói của…”
“Chưa tròn một năm?” Tôi cắt ngang lời hắn.
“Sao, chưa,” Yersted khăng khăng. “Không thể nào tới ba trăm bảy mươi hay tám mươi ngày.”
Một tia sáng bừng lóe lên trong đầu tôi. Tôi thật là ngốc quá! Hầu như tôi không thể kềm lại sự biểu lộ ra ngoài niềm vui to lớn của mình. Vì sao tôi lại quên được sự khác biệt lớn giữa chiều dài một năm giữa sao Hỏa và trái đất vậy nhỉ! Tôi đã trải qua mười năm trái đất trên Barsoom nhưng tính theo thời gian Hỏa tinh chỉ có năm năm và chín mươi sáu ngày. Ngày của người sao Hỏa dài hơn ngày của chúng ta bốn mươi mốt phút, và một năm của họ có tới sáu trăm tám mươi bảy ngày.
Tôi đến kịp lúc! Tôi đến kịp lúc! Những từ này tràn qua bộ não của tôi hết lần này sang lần khác, cuối cùng tôi phải thốt chúng ra thành tiếng. Yersted lắc đầu.
“Kịp lúc để cứu công chúa của anh?” hắn hỏi, và không chờ câu trả lời của tôi. “Không, John Carter. Issus sẽ không chịu thua đâu. Bà ấy biết rằng anh sẽ đến, và trước đó chưa có bàn chân kẻ phá hoại nào đặt được vào trong những khu vực có tường bao của Đền Issus, nếu một tai họa như thế sẽ xảy ra, Dejah Thoris sẽ bị đặt cách xa mãi mãi khỏi niềm hy vọng giải cứu mong manh nhất.”
“Anh muốn nói là nàng sẽ bị giết chỉ đơn giản là để cản trở tôi?”
“Không phải thế, mà là một phương sách khác như là biện pháp cuối cùng,” hắn đáp. “Anh có bao giờ nghe nói đến ngôi đền Mặt trời? Đó là chỗ mà họ sẽ nhốt nàng. Nó nằm xa bên trong nội điện của đền Issus, một ngôi đền nhỏ có một ngọn tháp mỏng nằm xa bên trên những ngọn tháp của ngôi đền lớn bao quanh nó. Bên dưới nó, trong lòng đất, là bộ phận chính của ngôi đền bao gồm sáu trăm tám mươi bảy căn phòng hình tròn, cái này nằm dưới cái kia. Có một hành lang dẫn tới từng căn phòng xuyên qua vách đá dầy của những căn hầm của Issus.
“Vì toàn bộ đền Mặt trời xoay theo vòng quay của Barsoom xung quanh mặt trời, nhưng mỗi năm lối vào từng căn phòng riêng biệt đối diện với miệng của hành lang tạo ra nó chỉ nối với thế giới bên ngoài một lần duy nhất.
“Issus nhốt những ai làm bà khó chịu nhưng không quan tâm tới việc hành hình ngay lập tức vào những căn phòng đó. Hay để trừng phạt một quý tộc Con Cả, bà ấy có thể ra lệnh nhốt anh ta vào một căn phòng của đền Mặt trời trong một năm. Thỉnh thoảng bà giam một đao phủ với lời kết án rằng cái chết sẽ đến với một hình thức kinh khủng vào một ngày ấn định, và chỉ có đủ thức ăn được đưa vào căn phòng để duy trì sự sống trong số ngày mà Issus đã ấn định để chịu nỗi thống khổ tinh thần.
“Dejah Thoris sẽ chết như thế, và số phận của nàng sẽ được định đoạt bởi một bàn chân xa lạ đầu tiên nào bước qua ngưỡng cửa đền Issus.”
Thế là rốt cuộc tôi đã bị ngăn trở, dù tôi đã thực hiện được một phép lạ và đến kịp lúc, thế nhưng tôi vẫn còn cách xa nàng như lúc tôi đứng trên bờ sông Hudson cách xa nơi đây bốn mươi tám triệu dặm.