Chương II BÊN DƯỚI NHỮNG NGỌN NÚI
Trong lúc chúng tôi tiến ngược dòng con sông chảy ngoằn ngoèo bên dưới những vách đá vàng, tuôn ra từ lòng các ngọn núi xứ Otz để hòa lượng nước sẫm màu của nó với dòng sông Iss bí ẩn và chảy xiết, ánh sáng mờ mờ đã xuất hiện phía trước chúng tôi ngày càng trở nên sáng tỏ.
Con sông mở rộng ra cho tới khi nó trở thành một cái hồ rộng dưới một mái vòm, được soi sáng bởi những tảng đá phát lân quang lấp lóe những tia sáng của kim cương, hồng ngọc, ngọc lục bảo và vô số các loại châu báu không tên khác ở Barsoom nằm xen lẫn trong khối vàng nguyên chất vốn là thành phần chính của những vách đá kỳ diệu này.
Ở mé ngoài cái hồ rộng có mái vòm là bóng tối. Tôi không thể đoán được thứ gì nằm đằng sau bóng tối âm u đó.
Việc theo sau con thuyền của các tu sĩ băng qua làn nước lấp lánh có thể bị phát giác bất cứ lúc nào, và do đó, dù không muốn để cho Thurid rời khỏi tầm mắt một phút giây, tôi buộc phải chờ đợi trong bóng tối cho tới khi chiếc thuyền kia đã vượt khỏi tầm nhìn của tôi ở đầu kia hồ.
Lúc đó tôi chèo xuồng lướt qua mặt nước sáng rực theo hướng họ đã đi.
Sau một thời gian tưởng chừng như vô tận, khi tới bên dưới bóng tối của mé bên kia hồ, tôi nhận thấy dòng sông chảy ra từ một khe núi thấp, để đi ngang qua nó, tôi cần phải lệnh cho Woola nằm sát xuống xuồng, và bản thân tôi phải gập sát người lại trước khi cái vách đá thấp cắt đứt đầu tôi.
Cái vách đá lại vươn cao ngay ở mé bên kia, nhưng con đường không còn được rọi sáng nữa. Chỉ có một ánh sáng mong manh phát ra từ những mảng đá lân tinh nhỏ rải rác trên vách và mái đá.
Ngay trước mặt tôi, dòng sông chảy vào một cái hang nhỏ hơn, qua ba lối vào hình cánh cung khác nhau.
Không còn thấy bóng dáng của Thurid và những tu sĩ đâu nữa, họ đã biến mất vào cái hốc tối tăm nào? Tôi không tài nào biết được, vì thế, tôi chọn lối vào ở giữa. Nó cũng có khả năng dẫn tôi đi theo đúng hướng ngang với một trong hai lối vào còn lại.
Con đường ở đây chạy ngang qua bóng tối mịt mùng. Dòng nước rất hẹp. Hẹp đến độ trong bóng tối tôi thường xuyên va phải tảng đá này hoặc khác trong lúc dòng nước uốn lượn dọc theo lòng sông toàn đá.
Lúc này, tôi nghe xa xa phía trước có một tiếng gầm trầm trầm ngày càng lớn dần khi tôi tiến tới gần, và nó nổ tung trong tai tôi với toàn bộ cường độ mãnh liệt điên rồ khi tôi vòng quanh một khúc cua gắt, lọt vào một dòng nước được rọi sáng lờ mờ.
Ngay trước mặt tôi, dòng sông ồ ạt trút xuống một thác nước lớn phủ kín từ đầu này sang đầu kia hẻm núi, cao vòi vọi bên trên đầu tôi vài trăm bộ. Một cảnh quang tuyệt diệu mà tôi chưa từng trông thấy.
Nhưng tiếng gầm thét của nước tuôn trút ào ạt trong cái vòm đá ngầm dưới đất mới thật đáng sợ, điếc cả tai! Giá mà cái thác nước không hoàn toàn khóa kín con đường tiến tới của tôi và chỉ cho tôi thấy tôi đã đi sai hướng, tôi tin rằng tôi sẽ bỏ chạy khỏi tiếng ầm ĩ kinh hồn này bằng bất cứ cách nào.
Thurid và các tu sĩ không thể nào đi theo lối này. Do chọn sai đường, tôi đã mất dấu của họ, và lúc này họ đã đi trước tôi xa đến độ tôi không thể nào tìm thấy họ trước khi quá muộn, nếu như thật sự tôi có thể tìm thấy họ.
Tôi sẽ phải mất nhiều giờ để chèo ngược lên thác nước, chống chọi với dòng nước mạnh, và cần có nhiều giờ khác để đi xuống, dù bước tiến sẽ nhanh hơn nhiều.
Với một tiếng thở dài, tôi quay mũi xuồng đi xuôi dòng, và với những nhát chèo mạnh mẽ tôi đẩy nhanh tốc độ lướt qua bóng tối và dòng chảy ngoằn ngoèo cho tới khi một lần nữa tôi gặp lại cái hang chia dòng nước thành ba nhánh khi nãy.
Vẫn phải chọn một trong hai con đường chưa thám hiểm; tôi cũng không có bất kỳ phương tiện nào khác để có thể xét đoán nhánh nào sẽ dẫn tới những kẻ âm mưu.
Trong phạm vi tôi có thể nhớ lại, chưa bao giờ trong đời mình tôi lại gánh chịu một nỗi thống khổ vì thiếu quả quyết như thế. Có quá nhiều thứ phụ thuộc vào một chọn lựa chính xác; có quá nhiều thứ phụ thuộc vào sự vội vàng.
Những giờ tôi đã đánh mất có thể niêm phong số phận của Dejah Thoris vô song nếu nàng chưa chết. Việc hy sinh thêm nhiều giờ, có thể nhiều ngày nữa trong một cuộc thám hiểm không kết quả do một chọn lựa mù quáng chắc chắn sẽ dẫn tới một chung cuộc chết người.
Nhiều lần tôi thử đi theo lối vào bên phải chỉ để quay lại khi được cảnh báo bởi một trực giác lạ lùng nào đó rằng đây không phải là đường đúng. Cuối cùng, bị thuyết phục bởi hiện tượng cứ lặp đi lặp lại này, tôi tiến tới theo con đường bên trái. Thế nhưng nỗi hoài nghi vẫn còn dây dưa đến độ tôi phải quay lại nhìn thêm lần nữa dòng nước đang cuộn chảy từ bên dưới cái vòm thấp bên tay phải.
Và trong lúc tôi nhìn, bập bềnh trên dòng chảy từ bóng tối thê lương của lòng đất là vỏ của một trong những thứ trái cây mọng nước, to lớn của loài cây sorapus.
Hầu như tôi không thể kềm được một tiếng kêu hân hoan khi vị sứ giả câm lặng, vô tri vô giác này trôi ngang qua tôi, hướng về dòng sông Iss và Korus, vì nó nói cho tôi biết rằng có những người Hỏa tinh đang đi ở phía trước tôi trên chính dòng nước này.
Họ đã ăn thứ thịt quả ngon tuyệt mà thiên nhiên đã tập trung bên trong cái vỏ cứng của trái sorapus và sau khi ăn xong đã quẳng cái vỏ qua mạn thuyền. Đó không thể là ai khác ngoài cái nhóm mà tôi đang tìm kiếm.
Tôi nhanh chóng từ bỏ mọi ý nghĩ về con đường bên trái, và chỉ giây lát sau đã quay sang con đường bên phải. Chẳng bao lâu dòng nước mở rộng ra, và những khu vực có đá lân tinh thỉnh thoảng lại xuất hiện soi sáng đường đi của tôi.
Tôi tận dụng tốt thời gian, nhưng tin chắc rằng tôi đã chậm hơn gần một ngày so với những kẻ tôi đang theo dấu. Cả tôi lẫn Woola đều chưa ăn gì từ ngày hôm trước, nhưng cho tới lúc này nó chưa tỏ vẻ gì là đói bụng. Thật sự tất cả những con thú ở các khu đáy biển cạn của Hỏa tinh có thể vượt qua một khoảng thời gian khó tin mà không cần ăn uống.
Tôi cũng không quá khổ sở. Nước sông khá ngọt và mát lạnh, vì nó chưa bị những xác chết phân hủy làm ô nhiễm như sông Iss. Còn về thức ăn, chỉ mỗi ý nghĩ rằng tôi đang ở gần nàng công chúa yêu dấu của tôi cũng đủ nâng tôi lên khỏi mọi mong muốn vật chất tầm thường.
Trong lúc tôi tiến tới, dòng sông ngày càng hẹp lại và dòng nước chảy nhanh hơn, thất thường hơn. Thật sự nó chảy nhanh tới mức tôi phải khó khăn lắm mới chèo tới được. Tôi không thể nào vượt qua tốc độ một trăm thước/giờ. Khi tới một khúc quanh, tôi đối mặt với một loạt dòng chảy khiến cho con sông cuộn bọt và sôi sục với một tốc độ kinh khủng.
Tim tôi chìm xuống. Hóa ra cái vỏ quả sorapus chỉ là một dấu hiệu sai lầm, và nói cho cùng, trực giác của tôi đã đúng - lẽ ra tôi phải di theo nhánh sông bên trái.
Nếu là một người phụ nữ chắc tôi đã khóc òa lên. Ở bên phải tôi là một xoáy nước to, chảy chậm chạp cuộn thành vòng tròn bên dưới chỗ nhô ra của vách núi. Để những cơ bắp mệt mỏi của tôi được nghỉ ngơi chốc lát trước khi quay lại, tôi mặc cho chiếc xuồng của tôi trôi vào vòng ôm của nó.
Tôi hầu như nằm sóng soày ra vì thất vọng. Nó có nghĩa là phải mất thêm nửa ngày nữa để quay lại và chọn con đường duy nhất còn lại chưa được khám phá. Định mệnh chết tiệt nào đã dẫn dắt tôi tới chỗ chọn ra hai con đường sai trong ba con đường có khả năng?
Trong lúc dòng chảy lười nhát của xoáy nước đưa tôi chậm chạp đi quanh chu vi của vòng tròn nước, chiếc xuồng của tôi hai lần va phải mép đá của dòng sông trong bóng tối ăn sâu bên dưới vách đá. Nó va lần thứ ba, cũng như trước đó, nhưng cú va chạm gây nên một âm thanh khác hẳn - âm thanh của gỗ cọ vào gỗ.
Tôi cảnh giác ngay lập tức, vì không thể có gỗ ở dưới dòng sông bị chôn vùi này nếu nó không được con người mang tới đó. Gần như trùng khớp với nhận thức đầu tiên của tôi về tiếng động đó, bàn tay tôi giơ ra mé ngoài mạn xuồng và một giây sau tôi cảm thấy những ngón tay của mình đang chạm vào mép của một chiếc xuồng khác.
Như thể bị biến thành đá, tôi ngồi trong sự im lặng đầy căng thẳng, cố nhướng mắt nhìn vào bóng tối mịt mùng trước mặt để cố phát hiện xem trên chiếc xuồng đó có người hay không.
Hoàn toàn có khả năng rằng có người ngồi trên xuồng, và họ vẫn chưa biết gì về sự hiện diện của tôi. Vì xuồng của họ đang cọ nhè nhẹ vào những tảng đá ở mé bên kia, thế nên cú chạm nhẹ vào xuồng của tôi ở mé bên này khó mà nhận thấy.
Dù cố mấy tôi vẫn không thể nhìn xuyên qua bóng tối, sau đó tôi chăm chú lắng nghe tiếng thở gần tôi; nhưng trừ tiếng động cọ xát nhanh, nhè nhẹ giữa hai chiếc thuyền và tiếng nước vỗ vào hai mạn thuyền, tôi không thể nhận ra âm thanh nào khác. Như thường lệ, tôi suy nghĩ thật nhanh.
Có một sợi thừng nằm cuộn tròn dưới đáy khoang thuyền của tôi. Tôi khẽ gom nó lại, rồi cột nhanh một đầu dây vào cái vòng đồng ở mũi thuyền, tôi thận trọng bước lên chiếc thuyền bên cạnh. Một tay tôi nắm sợi thừng, tay còn lại là thanh trường kiếm ưa thích của tôi.
Tôi đứng bất động sau khi bước lên con thuyền lạ, có lẽ trong khoảng một phút. Nó hơi lắc lư dưới sức nặng của tôi, nhưng dường như sự cọ xát của mạn thuyền vào mạn chiếc thuyền của tôi có khả năng cảnh báo nhiều nhất cho những người trên thuyền, nếu như có người nào.
Nhưng không có âm thanh nào đáp lại, giây lát sau tôi đã kiểm tra xong từ đầu này tới đầu kia và nhận ra con thuyền bị bỏ không.
Tôi đưa hai tay thăm dò dọc theo bề mặt của những tảng đá mà con thuyền được cột vào và phát hiện ra một dải đất hẹp mà tôi biết phải là con đường những người tới trước tôi đã đi qua. Tôi tin chắc họ không phải là ai khác ngoài Thurid và nhóm người đi cùng với hắn do kích thước và hình dáng của con thuyền tôi vừa phát hiện.
Tôi gọi Woola đi theo và bước lên dải đất. Con thú to lớn, hung tợn nhưng nhanh nhẹn như một con mèo bò theo tôi.
Trong lúc đi qua con thuyền của Thurid và các tu sĩ, nó phát ra một tiếng gầm gừ duy nhất. Khi nó tới bên cạnh tôi trên dải đất, và bàn tay tôi đã đặt lên cổ nó, tôi cảm thấy mớ lông bờm ngắn của nó dựng lên vì tức giận. Tôi nghĩ nó đã cảm nhận bằng ngoại cảm sự có mặt vừa mới đây của một kẻ thù, vì tôi không hề cố truyền đạt cho nó biết về bản chất của cuộc truy tìm của chúng tôi hoặc địa vị của những người mà chúng tôi theo dấu.
Tôi vội vã sửa sai ngay thiếu sót này, và theo cung cách của những người Hỏa tinh da xanh với các con thú của họ, tôi cho nó biết một phần thông qua khả năng ngoại cảm lạ lùng và khác thường của Hỏa tinh, phần khác thông qua lời nói rằng chúng tôi đang theo dấu những người vừa ở trên con thuyền mà chúng tôi mới bước qua.
Một tiếng gừ gừ nho nhỏ như tiếng kêu của một con mèo lớn chứng tỏ rằng Woola đã hiểu. Thế là, với một từ lệnh cho nó đi theo, tôi ngoặt sang bên phải dọc theo dải đất, nhưng hầu như ngay khi tôi vừa làm điều đó, tôi cảm thấy những chiếc nanh to tướng của nó lôi mạnh sợi đai da của tôi.
Trong lúc tôi quay sang để tìm hiểu nguyên do hành động đó của nó, nó tiếp tục lôi tôi theo hướng đối diện. Nó không ngừng lôi kéo cho tới khi tôi đã quay lại và chứng tỏ rằng tôi sẽ tự nguyện đi theo nó.
Tôi chưa bao giờ thấy nó phạm sai lầm trong vấn đề truy tìm dấu vết, vì thế, với một cảm giác hoàn toàn an toàn, tôi thận trọng di chuyển theo bước đi của con thú lớn. Nó đi qua bóng tối như bưng dọc theo dải đất hẹp bên cạnh những ghềnh thác đang chảy ùng ục.
Trong lúc chúng tôi tiến tới, con đường dẫn từ bên dưới vách đá nhô ra tới một vùng ánh sáng lờ mờ, và chính lúc đó tôi thấy rằng con đường đã được mở ra từ vách đá, và nó chạy dọc theo bờ sông mé ngoài những thác nước.
Trong suốt nhiều giờ chúng tôi đi men theo dòng sông tối tăm ảm đạm, ngày càng dấn sâu vào lòng đất Hỏa tinh. Từ phương hướng và khoảng cách, tôi biết rằng hẳn chúng tôi đang ở bên dưới thung lũng Dor, cũng có thể bên dưới biển Omean - hiện giờ chúng tôi không thể cách xa đền Mặt Trời nhiều lắm.
Trong lúc đầu óc tôi đan xen những ý nghĩ, Woola chợt đột ngột dừng lại trước một lối vào hẹp hình vòm trong vách núi bên cạnh con đường. Nó nhanh nhẹn khom người lùi xa khỏi lối vào, đồng thời hướng đôi mắt vào tôi.
Từ ngữ cũng không nói cho tôi biết rõ hơn rằng một dạng hiểm nguy nào đó đang nằm bên cạnh, vì thế tôi lặng lẽ ấn vào hông nó, và bước qua nó để nhìn vào cái khe hở bên tay phải chúng tôi.
Trước mặt tôi là một cái hang khá lớn, và theo cách bố trí của nó, tôi biết nó từng là một trạm gác. Có những cái giá đặt vũ khí, và những bệ hơi nhô cao để đặt lụa và lông thú lót giường cho các chiến binh, nhưng người chiếm ngụ nó lúc này chỉ là hai trong số các tu sĩ đã cùng đi với Thurid và Matai Shang.
Hai gã này đang nghiêm chỉnh trò chuyện với nhau, và từ giọng nói của chúng, rõ ràng chúng hoàn toàn không biết rằng chúng đang bị nghe lõm.
Một trong hai tên nói:
“Tôi nói cho anh biết, tôi không tin cái gã da đen đó. Không cần thiết phải để chúng ta lại đây để canh gác con đường. Chúng ta gác con đường mòn sâu thăm thẳm đã bị bỏ quên từ lâu này để chống lại cái gì chứ? Đây chỉ là một thủ đoạn để chia lẻ số người của chúng ta. Hắn sẽ buộc Matai Shang bỏ lại mấy người khác ở đâu đó với lý do này khác, và cuối cùng hắn sẽ lao vào chúng ta với đồng bọn của hắn và giết chết tất cả chúng ta.”
Tên kia đáp:
“Tôi tin anh, Lakor. Không thể có gì khác hơn ngoài sự căm ghét chết người giữa các tu sĩ và bọn da đen. Và anh nghĩ gì về chuyện ánh sáng ngớ ngẩn này? ‘Để cho ánh sáng tỏa ra với cường độ ba đơn vị radium trong suốt năm mươi giây, và trong suốt một giờ để cho nó rọi sáng với cường độ một đơn vị radium, và rồi chín đơn vị trong hai mươi lăm giây.’ Đó chính là những lời của hắn, và cứ nghĩ mà xem vì sao ông cụ khôn ngoan Matai Shang lại đi nghe một điều ngu xuẩn như thế chứ.”
Lakor đáp:
“Nó thật sự ngu xuẩn. Nó chằng mở ra con đường nào khác hơn là một cái chết nhanh chóng cho tất cả chúng ta. Hắn phải giải đáp đôi điều khi Matai Shang hỏi hắn một cách tâng bốc điều hắn sẽ làm khi hắn tới ngôi đền Mặt Trời, và thế là hắn nhanh nhẹn trả lời theo trí tưởng tượng của hắn. Tôi dám đánh cá một viên ngọc của một giáo hoàng rằng bây giờ hắn không thể tự lặp lại chính lời của hắn.”
Gã kia nói:
“Chúng ta không nên ở lại thêm nữa, Lakor. Có lẽ nếu gấp rút đi theo họ, chúng ta có thể tới kịp thời để cứu Matai Shang, và trút sự báo thù lên gã hoàng tử da đen đó. Anh bảo sao nào?”
Lakor đáp:
“Trong suốt cuộc đời dài của mình tôi chưa bao giờ bất tuân một mệnh lệnh nào của vị Cha già của các Thánh sư. Tôi sẽ ở đây cho tới khi tôi thối rữa ra nếu ông ta không quay lại để lệnh cho tôi đi tới một nơi khác.”
Người bạn đồng hành của Lakor lắc đầu:
“Anh là cấp trên của tôi. Tôi không thể làm trái lệnh anh, dù tôi vẫn tin rằng chúng ta thật ngu ngốc nếu ở lại.”
Cả tôi cũng nghĩ chúng thật ngu ngốc khi ở lại, vì từ những hành động của Woola tôi nhận thấy rằng con đường phải đi ngang qua căn phòng nơi hai tên tu sĩ đang canh gác. Tôi thấy không có lý do gì để nuôi một tình yêu đáng kể nào đối với chủng tộc quỷ sứ tự phong thần này, thế nhưng tôi sẽ đi ngang qua chúng mà không làm phiền chúng nếu có thể được.
Dù sao thì cũng đáng để thử, vì một trận đánh có thể trì hoãn chúng tôi khá lâu, hoặc thậm chí đặt một dấu chấm hết hoàn toàn cho cuộc tìm kiếm của tôi. Những người giỏi hơn tôi đã từng ngã gục trước những đối thủ có khả năng kém hơn những chiến binh tu sĩ dữ tợn này.
Ra hiệu cho Woola đi theo, tôi đột ngột bước vào căn phòng, tới trước mặt hai gã đó. Khi nhìn thấy tôi, hai thanh trường kiếm của chúng lóe lên từ những chiếc đai ở bên hông, nhưng tôi giơ một tay lên với một cử chỉ hòa bình và nói:
“Ta đang tìm Thurid, hoàng tử da đen. Cuộc tranh chấp của ta là với hắn, chứ không phải với bọn ngươi. Hãy để ta đi qua trong hòa bình, vì nếu ta không lầm, hắn cũng là kẻ thù của các ngươi không khác chi là kẻ thù của ta, và các ngươi không có lý do gì để bảo vệ hắn.”
Chúng hạ kiếm xuống và Lakor lên tiếng:
“Ta không biết mi là ai, với nước da của một tu sĩ và mái tóc của một người da đỏ; nhưng mi có thể đi qua và được hoan nghênh nếu chỉ có sự an toàn của Thurid đang gặp nguy hiểm, trong chừng mực có liên quan tới chúng ta. Hãy nói cho chúng ta biết mi là ai, và nhiệm vụ nào đưa mi tới cái thế giới vô danh bên dưới thung lũng Dor này, rồi có thể chúng ta sẽ để cho mi đi qua để thực hiện công việc mà chúng ta hẳn cũng muốn thực hiện nếu như được phép.”
Tôi ngạc nhiên khi không ai trong hai tên nhận ra tôi, vì tôi nghĩ rằng tôi hoàn toàn nổi tiếng bởi trải nghiệm cá nhân hay danh tiếng đối với tất cả mọi tu sĩ ở Barsoom, đủ để chúng nhận ra tôi ngay lập tức ở bất cứ nơi nào trên hành tinh này. Thực sự tôi là người da trắng duy nhất trên Hỏa tinh có mái tóc đen và đôi mắt xám, trừ một người là Carthoris, con trai tôi.
Việc tiết lộ nhân thân của tôi có thể là một lời mời gọi tấn công, vì mọi tu sĩ ở Barsoom đều biết rằng đối với tôi chúng mang món nợ về sụp đổ của uy quyền tối thượng về tinh thần đã có tự lâu đời. Mặt khác, danh tiếng của tôi với tư cách một chiến binh có thể đủ để cho tôi đi qua hai gã này vì lá gan của chúng không đủ can đảm để hoan nghênh một trận đánh sống chết.
Nói thật tình, tôi không cố tự huyễn hoặc bản thân với bất kỳ sự ngụy biện nào giống thế, vì tôi biết rõ rằng trên Hỏa tinh hiếu chiến, có rất ít kẻ hèn nhát, rằng mọi người đàn ông, dù là hoàng tử, tu sĩ hay nông dân, đều cảm thấy vinh quang với một cuộc chiến đấu sống chết. Vì thế tôi nắm chặt thanh kiếm trong lúc trả lời Lakor.
“Ta tin rằng các ngươi sẽ nhận ra sự khôn ngoan khi để cho ta tự do đi qua vì các ngươi sẽ chết một cách vô ích trong lòng đá của Barsoom chỉ vì bảo vệ một kẻ thù truyền kiếp như Thurid, hoàng tử của chủng tộc Con Cả. Việc các ngươi sẽ chết nếu chọn cách chống cự ta là hiển nhiên bởi những xác chết chất thành đống của tất cả những chiến binh vĩ đại của Barsoom đã gục ngã dưới lưỡi gươm này. Ta là John Carter, hoàng tử xứ Helium.”
Trong khoảnh khắc, cái tên đó dường như làm cho hai tên này tê liệt; nhưng chỉ trong giây lát, rồi gã trẻ hơn lao tới tôi cùng lưỡi kiếm sẵn sàng và một tiếng chửi thề.
Hắn đã đứng hơi lùi về phía sau Lakor, đồng đội của hắn một ít, trong cuộc thương lượng giữa chúng tôi. Và lúc này, trước khi hắn có thể tấn công tôi, gã lớn tuổi hơn tóm lấy sợi đai của hắn và kéo hắn lùi lại.
Lakor ra lệnh:
“Khoan đã. Có nhiều thời gian để đánh nhau nếu như chúng ta thấy đánh nhau là khôn ngoan. Có những lý do tốt để mọi tu sĩ ở Barsoom lấy máu của tên phỉ báng, phạm thượng này; nhưng chúng ta hãy pha trộn giữa sự khôn ngoan và lòng căm thù chân chính. Hoàng tử xứ Helium đang theo đuổi một nhiệm vụ mà chính chúng ta, chỉ mới lúc nãy, đã ước gì chúng ta có thể thực hiện. Chúng ta hãy cho hắn đi qua và giết gã da đen. Khi hắn quay lại chúng ta vẫn còn ở đây để ngăn hắn thoát ra thế giới bên ngoài, và như vậy, chúng ta sẽ thoát khỏi việc có hai kẻ thù cùng lúc, mà cũng không phải làm cho Cha già của các Thánh sĩ phải phiền lòng. “
Trong lúc hắn nói, tôi không thể không nhận ra một tia gian xảo trong đôi mắt xấu xa của hắn, và trong khi tôi nhìn thấy lô-gíc hiển nhiên trong lý lẽ của hắn, tôi cảm thấy, có lẽ do tiềm thức, rằng những lời lẽ của hắn hé lộ một dự định ác hiểm nào đó. Gã tu sĩ kia quay sang hắn với sự ngạc nhiên rõ rệt, nhưng khi Lakor thì thầm vài lời vắn tắt vào tai hắn, cả hắn cũng lùi lại và gật đầu đồng ý với đề nghị của tên thượng cấp.
Lakor nói:
“Đi đi, John Carter, nhưng hãy biết rằng nếu Thurid không hạ sát mi ở đó, sẽ có những người chờ mi quay lại. Những kẻ sẽ thấy rằng mi không bao giờ bước trở ra ánh nắng của thế giới bên trên lần nữa. Đi đi!”
Trong lúc chúng tôi nói chuyện, Woola vẫn liên tục gầm gừ và dựng lông lên bên cạnh tôi. Thỉnh thoảng nó ngẩng lên nhìn vào mặt tôi với một tiếng kêu ăng ẳng khe khẽ, van nài, như thể cầu xin tôi một lời để nó có thể lao vào hai cái cổ họng để trống trước mặt nó. Cả nó cũng cảm nhận được sự xấu xa nằm sau những lời êm ái.
Ở mé ngoài hai gã tu sĩ, có nhiều cánh cửa mở ra khỏi căn phòng giam, và Lakor chỉ tới một cánh cửa ở đầu bên phải.
“Con đường đó dẫn tới Thurid.”
Nhưng khi tôi gọi Woola đi theo tôi, con vật kêu lên và lùi lại, và cuối cùng chạy nhanh tới cánh cửa đầu tiên ở bên trái. Nó đứng đó và sủa khe khẽ, như thể thôi thúc tôi đi theo nó vào con đường đó.
Tôi quay lại nhìn Lakor dò hỏi.
“Con vật này hiếm khi sai,” tôi nói, “và trong khi ta không nghi ngờ kiến thức cao hơn của ngươi, tu sĩ, ta nghĩ rằng ta sẽ nghe theo tiếng nói của bản năng có cơ sở là tình yêu và lòng trung thành.”
Trong lúc nói, tôi mỉm cười dứt khoát để cho hắn biết mà không cần phải nói rằng tôi không tin hắn.
“Tùy ý mi,” hắn trả lời với một cái nhún vai. “Rốt cuộc thì cũng như nhau cả.”
Tôi quay lưng đi theo Woola và lối đi bên trái, và dù lưng tôi hướng về phía hai tên địch thủ, đôi tai tôi vẫn cảnh giác, thế nhưng tôi không nghe thấy tiếng đuổi theo. Con đường được soi sáng lờ mờ bởi những bóng đèn radium rải rác, phương tiện soi sáng phổ quát của Barsoom.
Những bóng đèn tương tự có thể vẫn tiếp tục nhiệm vụ trong những hang động ngầm suốt nhiều thế kỷ nữa, vì chúng không đòi hỏi một sự quan tâm nào và đa thành phần đến nỗi chúng chỉ cạn nguồn năng lượng sau rất nhiều năm chiếu sáng.
Chúng tôi chỉ mới đi được một quãng ngắn thì bắt gặp những lối vào của nhiều hành lang khác nhau, nhưng Woola không hề có chút do dự nào. Từ lối ra của một trong các hành lang bên phải, tôi vừa nghe thấy một âm thanh. Nó nói rõ ràng với tôi, John Carter, một chiến binh, hơn bất cứ lời lẽ nào từ miệng lưỡi của tôi rằng nó là tiếng kim loại va chạm. Thứ kim loại đeo trên đai của một chiến binh. Và nó đến từ một khoảng cách ngắn ở hành lang mé tay phải của tôi.
Cả Woola cũng nghe thấy âm thanh đó. Và như một tia chớp, nó chạy tới và đứng đối mặt với mối nguy hiểm đang đe dọa. Bộ lông bờm của nó dựng đứng lên và tất cả những hàng nanh lấp lánh nhe ra dưới đôi môi co lại, gầm gừ. Tôi ra hiệu cho nó im lặng, và chúng tôi cùng bước vào một hành lang khác ở phía trên vài bước.
Ở đó chúng tôi chờ đợi; chúng tôi chờ không lâu, vì lúc này chúng tôi đã nhìn thấy bóng của hai người đàn ông hắt xuống nền của cái hành lang chính xéo qua lối vào nơi chúng tôi đang nấp. Lúc này chúng đang di chuyển rất thận trọng - tiếng lanh canh tình cờ đã cảnh báo cho tôi không lặp lại.
Lúc này chúng đã tới đối diện với vị trí của chúng tôi. Tôi không ngạc nhiên khi thấy đó là Lakor và gã đồng đội của hắn ở cái trạm gác.
Chúng đi rất chậm, và trên tay phải mỗi tên lấp lánh một thanh trường kiếm. Chúng dừng lại rất gần lối vào chỗ chúng tôi, đang nói thì thầm với nhau.
Lakor nói:
“Chúng ta đã cách xa bọn chúng chưa nhỉ?”
Tên kia đáp:
“Hoặc là thế, hoặc là con vật đã dẫn hắn đi sai đường, vì con đường mà chúng ta đi cho tới lúc này ngắn hơn. Ai biết được. Lẽ ra John Carter đã nhận ra rằng nó là con đường tắt dẫn tới cái chết nếu hắn chọn nó theo đề nghị của anh.”
Lakor nói:
“Phải, không có khả năng chiến đấu nào có thể cứu hắn khỏi phiến đá có cơ quan. Chắc chắn hắn phải bước lên đó, và lúc này, nếu cái hố bên dưới hắn có đáy, điều mà Thurid không thừa nhận, hắn sẽ nhanh chóng tiếp cận nó. Cái con chó đáng nguyền rủa đó đã báo cho hắn đi theo lối an toàn hơn!”
Tên kia nói:
“Dù sao còn có những mối nguy khác ở trước mặt hắn. Hắn sẽ không thoát thân một cách dễ dàng như đã thoát khỏi hai lưỡi kiếm tốt của chúng ta. Ví dụ, hãy xem xét coi hắn có cơ may nào, khi bất ngờ bước vào căn phòng của…”
Nếu tôi có thể nghe được câu chuyện đó nhiều hơn, hẳn tôi sẽ được cảnh báo về những hiểm họa nằm trước mặt, nhưng định mệnh đã can thiệp vào, và ngay chính thời điểm đó, trong mọi thời điểm mà tôi sẽ không chọn để hắt hơi, tôi lại hắt hơi.