John Carter Và Thống Soái Hỏa Tinh

John Carter Và Thống Soái Hỏa Tinh

Tổng số chương: 16

Dưới bóng râm của khu rừng nằm bên sườn trảng cỏ đỏ thắm trong thung lũng Dor ven bờ biển mất tích Korus, trên đầu là hai vầng trăng sao Hỏa đang trôi nhanh theo quỹ đạo trên bề mặt hành tinh hấp hối, tôi len lén bò dọc theo con đường mờ mờ lượn theo những địa điểm tối tăm, kiên trì theo đuổi một mục đích nguy hiểm.

Suốt sáu tháng sao Hỏa dài dằng dặc, tôi đã ẩn náu ở khu phụ cận của ngôi đền Mặt Trời đáng ghét. Trong cái cuống chậm chạp xoay tròn của nó, sâu bên dưới lòng đất Hỏa tinh, công chúa của tôi đang bị chôn sống. Nhưng tôi không biết nàng còn sống hay đã chết. Lưỡi dao mỏng của Phaidor có đâm trúng quả tim yêu đấu của nàng không? Chỉ có thời gian mới hé lộ được sự thật.

Phải mất sáu trăm tám mươi bảy ngày sao Hỏa nữa cánh cửa của gian phòng đó mới lại đối diện với đầu đường hầm nơi tôi đã trông thấy Dejah Thoris mãi mãi đẹp xinh của tôi lần cuối.

Một nửa thời gian đó đã trôi qua, hay sẽ qua vào ngày mai, thế nhưng ký ức của tôi xóa sạch mọi sự kiện đã đến trước đó hay sau đó, chỉ lưu giữ lại cảnh tượng cuối cùng trước khi khói che mờ đôi mắt của tôi và khe hở hẹp cho tôi thấy quanh cảnh bên trong căn phòng khép lại giữa tôi và nàng công chúa xứ Helium trong suốt một năm dài sao Hỏa.

Như thể sự việc chỉ vừa xảy ra ngày hôm qua, tôi vẫn nhìn thấy gương mặt xinh đẹp của Phaidor con gái của Matai Shang, méo mó vì ghen tuông và căm ghét, khi nàng ta lao tới trước với lưỡi dao giơ cao nhắm vào người phụ nữ mà tôi yêu dấu.

Tôi cũng nhìn thấy cô gái da đỏ, Thuvia xứ Ptarth, phóng ra phía trước để ngăn chận hành vi đáng sợ đó.

Lúc ấy khói từ ngôi đền đang cháy đã lan tỏa tới đó và che khuất mất tấn thảm kịch, nhưng trong tai tôi vẫn vang dội tiếng kêu rú khi lưỡi dao hạ xuống. Rồi sự im lặng, và khi khói đã tan đi, ngôi đền xoay đã đóng kín mọi cảnh tượng hay âm thanh từ căn phòng mà trong đó ba người phụ nữ xinh đẹp bị cầm tù.

Có nhiều thứ khiến tôi phải chú ý tới kể từ khoảnh khắc kinh hoàng đó; nhưng không giây phút nào ký ức về điều đó nhòa phai, và trong suốt thời gian rảnh rỗi sau vô số các bổn phận mà tôi đã nhận lãnh trong việc xây dựng lại chính quyền của người da đen vì đoàn chiến thuyền và các lực lượng bộ binh của chúng tôi đã áp đảo được họ, tôi vẫn ở sát bên cạnh cái cuống đền mỏng manh đã giam giữ vợ tôi.

Trong suốt nhiều niên đại, chủng tộc da đen đã tôn thờ Issus, nữ thần giả mạo của Hỏa tinh. Và họ đã trải qua một tình trạng hỗn loạn khi tôi vạch trần ra sự thật rằng bà ta còn vô tích sự hơn cả một mụ già xấu tính. Trong cơn thịnh nộ, họ đã xé xác của bà ta ra thành từng mảnh.

Từ đỉnh cao của chú thuyết duy ngã độc tôn, chủng tộc Con Cả đã rơi xuống những vực sâu ô nhục. Nữ thần của họ đã ra đi, và cùng với bà ta là toàn bộ kết cấu tôn giáo giả tạo của họ. Lực lượng hải quân luôn được tán tụng của họ đã bị những chiến thuyền và chiến binh da đỏ xứ Helium thiện chiến đánh bại hoàn toàn.

Những chiến binh da xanh từ các đáy biển cạn của vùng ngoại vi sao Hỏa đã cưỡi những con ngựa hoang băng qua các khu vườn thiêng của ngôi đền Issus, và Tars Tarkas, vua xứ Thark, dữ tợn nhất trong số họ, đã ngồi lên ngai vàng của Issus để tạm cai trị chủng tộc da đen trong lúc các lực lượng đồng minh quyết định số phận của đất nước bị thống trị này.

Hầu hết đều nhất trí với yêu cầu rằng tôi phải bước lên cái ngai vàng cổ kính của người da đen, ngay cả bản thân những người Con Cả cũng đồng tình với việc đó; nhưng tôi không chấp nhận. Tim tôi không bao giờ hòa chung nhịp với một chủng tộc đã chất chồng những nỗi ô nhục lên công chúa vợ tôi và con trai tôi.

Theo đề xuất của tôi, Xodar trở thành vua của người da đen. Anh từng là một hoàng tử, cho tới khi bị Issus giáng cấp, vì thế không có ai thắc mắc về sự phù hợp của anh đối với vị trí đứng đầu đất nước.

Thế là sự thanh bình của Thung Lũng Dor đã được đảm bảo, các chiến binh da xanh quay trở lại các khu đáy biển cạn hoang vu của họ, trong khi những người Helium chúng tôi trở về đất nước của mình. Ở đây mọi người lại một lần nữa muốn tôn tôi lên làm vua, vì không có tin tức gì về Tardos Mors, vua xứ Helium, ông nội của Dejah Thoris, hay con trai ông, Mors Kajak, phó vương xứ Helium, cha vợ tôi.

Đã hơn một năm kể từ ngày họ lên đường thám hiểm bắc bán cầu để tìm kiếm Carthoris và cuối cùng dân chúng đã ngã lòng của họ cũng chấp nhận xem những lời đồn đãi mơ hồ rằng họ đã chết ở vùng cực bắc giá băng giá là sự thật.

Tôi lại phải khước từ một ngai vàng, vì tôi không tin rằng Tardos Mors hùng mạnh, hay người con trai đáng nể không kém của ông, đã chết.

“Hãy để cho một trong những người thuộc huyết thống của họ cai trị các người cho tới khi họ quay trở lại,” tôi đã nói thế với hội đồng quý tộc xứ Helium khi đang đứng trên bệ Sự Thật, bên cạnh chiếc ngai Công Lý trong ngôi đền Thưởng Phạt, cũng chính là nơi tôi từng đứng hồi năm trước, khi Zat Arras tuyên bố tử hình tôi.

Trong lúc nói tôi bước tới chỗ Carthoris đang đứng, trong hàng đầu của giới quý tộc đứng quanh tôi, và đặt tay lên vai nó.

Như thể chỉ là một người, các nhà quý tộc và dân chúng cất cao giọng hò reo tán thành. Mười ngàn thanh gươm được rút ra khỏi vỏ và giơ cao, và những chiến binh vinh quang của Helium cổ kính tôn Carthoris lên làm vua xứ Helium.

Nhiệm kỳ hoạt động của Carthoris sẽ là trọn đời hoặc cho tới khi ông cố hoặc ông nội của nó quay lại. Sau khi đã xếp đặt một cách thỏa đáng nhiệm vụ hệ trọng đó cho đất nước Helium, ngày hôm sau tôi lên đường đi tới Thung Lũng Dor để có thể ở sát cạnh ngôi đền Mặt trời cho tới cái ngày định mệnh đó và chờ đến lúc căn ngục vùi chôn tình yêu đã mất của tôi mở ra.

Theo ý tôi, Hor Vastus và Kantos Kan, cùng với các viên trung úy thân tín khác ở lại ở Helium với Carthoris, để nó có thể nhờ cậy trí khôn ngoan, lòng dũng cảm và sự trung thành của họ trong khi thực hiện những nhiệm vụ khó khăn mà nó đã nhận lãnh. Đi cùng với tôi chỉ có Woola, con chó săn sao Hỏa.

Đêm nay con vật trung thành nhẹ nhàng đi theo sát gót chân tôi. To như một con ngựa Shelland, với cái đầu kinh khủng và những chiếc nanh đầy đe dọa, nó thật sự là một hình ảnh đáng sợ khi chạy lon ton theo tôi với mười cái chân chắc nịch, ngắn ngủn. Nhưng với tôi nó là hiện thân của tình yêu và lòng trung thành.

Kẻ đi phía trước là một hoàng tử da đen, Thurid. Tôi đã nhận được sự căm thù vĩnh viễn của hắn kể từ lúc hạ gục hắn với đôi bàn tay không ở sân đền Issus và trói hắn lại bằng những sợi đai của chính hắn trước mặt các nam nữ quý tộc mà trước đó không lâu đã tán dương kỹ năng chiến đấu của hắn.

Như nhiều người da đen khác, rõ ràng hắn đã chấp nhận trật tự mới của mọi sự kiện với thái độ vui vẻ, và đã thề nguyền trung thành với Xodar, lãnh tụ mới của hắn; nhưng tôi biết hắn căm ghét tôi, và tôi chắc rằng trong thâm tâm, hắn ghen tị và ghét Xodar, vì thế tôi vẫn theo dõi hành tung của hắn, và tới gần đây, tôi tin chắc rằng hắn đang ngấm ngầm mưu tính việc gì đó.

Đã nhiều lần tôi quan sát thấy hắn rời khỏi cái thành phố có tường bao quanh của tộc người Con Cả sau khi đêm buông xuống, lần tới Thung lũng Dor tàn ác và kinh khủng, nơi người ta không thể nào tìm tới để làm một điều chính trực.

Đêm nay hắn đi nhanh dọc theo mé bìa rừng cho tới khi ra khỏi tầm nghe hay tầm nhìn của thành phố, rồi hắn băng ngang qua bải cỏ đỏ thắm đi về phía bờ biển mất tích Korus.

Ánh sáng của vầng trăng thấp giăng bàng bạc khắp thung lũng, tạo nên muôn ngàn sắc màu chuyển biến trên bộ đai nạm đầy châu báu và lấp lánh trên lớp da đen bóng như gỗ mun của hắn. Hắn ngoảnh đầu về phía khu rừng hai lần, theo cung cách của một kẻ đang tiến hành một công việc xấu xa, dù có lẽ hắn cảm thấy an toàn và không bị ai theo dõi.

Tôi không bận tâm tới việc đi theo sát hắn dưới ánh trăng, kế hoạch của tôi là không can thiệp vào công việc của hắn. Tôi muốn hắn đi tới nơi định đến mà không có chút gì ngờ vực, để tôi có thể biết điểm đến đó ở đâu và công việc đang chờ đợi con thú ăn đêm này tại đó là gì.

Vì thế tôi vẫn núp kín cho tới khi Thurid đã biến mất sau bờ biển dốc, cách tôi chừng một phần tư dặm. Rồi với Woola theo sau, tôi vội vã băng qua đồng cỏ theo sau tên hoàng tử da đen.

Sự lặng lẽ của một nấm mồ trùm lên cái thung lũng chết bí ẩn nằm sâu trong cái tổ ấm áp ở vùng cực nam của hành tinh đang hấp hối này. Xa xa, những vách đá bằng vàng ngẩng gương mặt hùng vĩ lên bầu trời lấp lánh sao, những kim loại quý và những thứ châu ngọc lóng lánh trong thành phần của các vách đá lóe lên dưới ánh sáng rực rỡ của hai vầng trăng sao Hỏa.

Ở sau lưng tôi là khu rừng, bị cắt tỉa và xén gọn như một công viên, hệt như cánh đồng cỏ, bởi cách ăn lạ lùng của giống người thực vật.

Trước mặt tôi là biển mất tích Korus, và xa hơn nữa, tôi nhìn thấy cái sườn lấp lánh của Iss, dòng sông bí ẩn, nơi nó trào ra từ bên dưới những vách đá bằng vàng để đổ vào biển Korus. Trong suốt vô số thời kỳ đó là nơi đã đưa những người sao Hỏa bất hạnh và bị lừa dối từ thế giới bên ngoài hành hương tự nguyện tới cái thiên đường giả trá này.

Lúc này bọn người thực vật, với đôi tay hút máu, và bọn khỉ đột trắng đã biến thung lũng Dor thành một nơi ghê rợn vào ban ngày đang ẩn náu trong hang ổ của chúng để nghỉ đêm.

Không còn một gã Thánh sĩ nào đứng trên cái ban công dựa vào vách núi bằng vàng bên trên dòng sông Iss để triệu tập chúng tới những nạn nhân đang trôi xuống từ con sông Iss cổ xưa, lạnh lẽo, rộng lớn với những tiếng kêu kỳ quặc.

Các lực lượng hải quân của Helium và người da đen đã dọn sạch các pháo đài và những ngôi đền của các tu sĩ khi họ từ chối không chịu đầu hàng và chấp nhận trật tự mới. Một trật tự đã quét sạch cái tôn giáo lầm lạc của họ khỏi Hỏa tinh chịu nhiều đau khổ.

Ở một vài đất nước xa xôi, họ vẫn còn duy trì được quyền lực lâu đời của mình, nhưng Matai Shang, giáo hoàng của họ, Vị cha già của các Thánh sĩ, đã bị trục xuất khỏi ngôi đền của ông ta. Chúng tôi đã nỗ lực tìm bắt ông ta, nhưng với vài tên tay chân trung thành, ông ta đã trốn thoát và đang ẩn nấp. Chúng tôi không biết đó là nơi nào.

Khi thận trọng đi tới rìa của vách đá thấp nhìn xuống biển mất tích Korus, tôi nhìn thấy Thurid đang lướt trên mặt nước sáng lóng lánh trong một chiếc xuồng con - một trong những thứ thuyền được chế tác từ rất xa xưa mà những Thánh sĩ, cùng với tổ chức các tu sĩ và tu sĩ cấp thấp hơn đã đặt dọc theo bờ của dòng sông Iss, giúp cho chuyến hành trình dài của các nạn nhân được thuận lợi hơn.

Trên bờ biển mé dưới tôi là khoảng chục chiếc thuyền tương tự, mỗi chiếc có đầu kéo dài, ở một đầu có một cái cuốc chim, còn ở đầu kia có một mái chèo. Thurid đang đi sát bờ biển, và khi hắn biến khỏi tầm nhìn, ngoặt vào một doi đất kế bên, tôi đẩy một chiếc thuyền xuống nước, gọi Woola nhảy vào đó, và chèo ra khỏi bờ biển.

Việc đuổi theo Thurid đưa tôi đi dọc theo bờ biển tới cửa sông Iss. Vầng trăng cao nằm sát cạnh chân trời, gieo một bóng tối đậm đặc ở mé dưới những vách đá ven theo mặt nước. Thuria, vầng trăng thấp, đã lặn đi, và nó sẽ không mọc trong bốn giờ kế tiếp, thế nên ít nhất tôi có thể ẩn nấp an toàn dưới bóng tối trong khoảng thời gian đó.

Tên chiến binh da đen vẫn tiếp tục chèo. Lúc này hắn đã đối diện với cửa sông Iss. Không chút ngần ngừ, hắn bơi ngược lên dòng sông dữ dội, cố chèo chống với dòng nước mạnh.

Tôi và Woola theo sau hắn, lúc này đã tới gần hơn, vì hắn quá tập trung vào việc chèo ngược dòng sông nên không còn bụng dạ nào nghĩ tới những việc sau lưng. Hắn đi men theo bờ sông nơi dòng nước chảy yếu hơn.

Lúc này hắn đã đi tới cái cửa hang tối tăm trên vách đá bằng vàng, qua đó dòng sông đổ xuống. Hắn chèo chiếc thuyền đâm thẳng vào bóng tối mịt mùng.

Có vẻ như là vô vọng khi cố đi theo hắn ở một nơi tôi không thể nhìn thấy được bàn tay ngay trước mặt mình. Khi tôi gần như từ bỏ cuộc theo đuổi và quay trở lại cửa sông chờ hắn thì một cua quẹo bất ngờ để lộ ra một ánh sáng nhờ nhờ ở phía trước.

Con mồi của tôi lại hiện ra mờ mờ, và trong ánh sáng ngày càng tăng dần của vách đá có chất lân quang được gắn thành từng mảng lớn trên cái mái hình vòm của hang động, tôi đi theo hắn không chút khó khăn.

Đây là chuyến đi đầu tiên của tôi trên dòng sông Iss, và những điều tôi thấy sẽ nằm lại mãi mãi trong ký ức của tôi.

Dù chúng thật kinh khủng, chúng không thể so với những điều kiện kinh khủng đã từng có trước khi Tars Tarkas, người chiến binh da xanh vĩ đại, Xodar, vị hoàng tử da đen, và tôi mang ánh sáng chân lý tới cho thế giới bên ngoài và ngăn chận cuộc hành hương điên rồ của hàng triệu người tới nơi mà họ tin là sẽ kết thúc trong một thung lũng xinh đẹp của sự an bình, hạnh phúc và tình yêu.

Ngay cả hiện giờ, trên những hòn đảo thấp vẫn còn rải rác những dòng suối rộng nơi những bộ xương và các xác chết đã bị ngấu nghiến mất nửa phần của những người mà thông qua nỗi sợ hãi hay một sự tỉnh ngộ bất ngờ trước sự thật đã dừng lại hầu như ngay trước khi hoàn tất chuyến hành trình của họ.

Trong mùi hôi thối kinh khủng của những hòn đảo giống như nhà xác đáng sợ này, những kẻ hóa điên đang gào thét, nói lắp ba lắp bắp và vật vã tìm kiếm giữa những tàn tích của các bữa tiệc rùng rợn; trong khi trên những cái xương đã bị gặm sạch, họ đánh nhau với người khác, kẻ yếu cung cấp thức ăn cho kẻ mạnh; hoặc với những bàn tay như móng vuốt họ chộp lấy những thân thể trôi lềnh bềnh xuôi theo dòng nước.

Thurid không mảy may chú ý tới những con người đang gào rú, đe dọa hoặc van nài hắn tùy theo tâm trạng dẫn dắt họ. Rõ ràng hắn đã quen với những cảnh tượng khủng khiếp xung quanh. Hắn tiếp tục chèo ngược dòng sông khoảng một dặm nữa. Rồi hắn băng qua bờ bên trái, kéo chiếc xuồng lên một dải dất thấp hầu như có cùng độ cao với mặt nước.

Tôi không dám băng qua mé bên kia theo hắn, vì chắc chắn hắn sẽ nhìn thấy tôi. Thay vì vậy tôi dừng lại gần vách đá đối diện bên dưới một tảng đá nhô ra, gieo một bóng tối đậm đặc bên dưới nó. Tại đây tôi có thể quan sát Thurid mà không gặp phải nguy cơ bị phát giác.

Gã da đen đang đứng trên dải đất cạnh chiếc xuồng, nhìn ngược lên dòng sông, như thể đang đợi một người nào đó đến từ hướng ấy.

Trong lúc nằm đó bên dưới những tảng đá tối, tôi nhận thấy dường như có một dòng nước mạnh chảy thẳng tới giữa dòng sông, vì thế khó mà giữ chiếc xuồng của tôi ngay tại vị trí. Tôi lần sâu hơn vào bóng tối để tìm một chỗ có thể neo lại chiếc xuồng trên bờ sông; nhưng dù tôi đã tiến tới nhiều thước Anh, tôi vẫn không sờ soạng được chỗ nào; nhận ra rằng chẳng bao lâu nữa tôi sẽ đi tới một điểm nơi tôi không thể nhìn thấy gã da đen nữa, tôi buộc phải quay lại vị trí ban đầu, cố sức ở nguyên tại chỗ, chèo thật mạnh để chống lại dòng nước tuôn ra từ bên dưới khối đá sau lưng tôi.

Tôi không thể hình dung ra thứ gì có thể tạo ra dòng chảy mạnh mẽ này, vì dòng chảy chính của con sông có thể nhìn thấy rõ ràng từ nơi tôi ngồi, và tôi có thể nhìn thấy giao điểm gợn sóng lăn tăn giữa nó và dòng chảy bí ẩn đã đánh thức sự tò mò của tôi.

Trong khi tôi vẫn đang suy đoán về hiện tượng này, sự chú ý của tôi đột ngột chuyển về phía Thurid. Hắn đang giơ cao hai lòng bàn tay lên trên đầu theo cách chào phổ biến của những người sao Hỏa, và giây lát sau hắn thốt lên tiếng chào theo ngôn ngữ sao Hỏa với một giọng trầm trầm nhưng dễ nhận ra:

“Kaor!”

Tôi ngước mắt nhìn lên dòng sông theo hướng mà hắn đang khom người, và lúc này trong tầm nhìn hạn chế của tôi xuất hiện một chiếc thuyền dài, trong đó có sáu người đàn ông. Năm người đang chèo, còn người thứ sáu ngồi ở vị trí danh dự.

Những nước da trắng, những lọn tóc vàng che phủ những cái đầu hói, và những viên đá quý rực rỡ được bọc vàng trên trán họ cho thấy họ là những Thánh sĩ.

Trong lúc họ chèo tới dải đất nơi Thurid đang đứng đợi, kẻ ngồi ở đầu thuyền đứng dậy để bước lên bờ, và tôi thấy rằng đó không phải là ai khác ngoài Matai Shang, vị Cha già của Các Thánh sĩ.

Sự thân mật rõ ràng ở cách hai người đàn ông này chào hỏi nhau khiến tôi rất thắc mắc, vì những người da trắng và da đen ở Barsoom là những kẻ thù truyền kiếp - chưa bao giờ trước đó tôi biết một cuộc gặp gỡ nào khác giữa hai bên ngoài các trận chiến.

Rõ ràng những sự kiện đảo chiều vừa mới xảy ra đối với hai chủng tộc này đã tạo nên một mối liên minh giữa hai cá nhân này - ít ra là để chống lại những kẻ thù chung - và lúc này tôi nhận ra vì sao Thurid thường xuyên đi tới Thung lũng Dor vào ban đêm như vậy, và bản chất của sự thông đồng của hắn là để chống lại tôi hoặc những người bạn của tôi.

Tôi ước gì có thể tìm được một vị trí gần với họ hơn để có thể nghe được câu chuyện của họ; nhưng lúc này việc băng qua dòng sông là ngoài tầm tay với, vì thế tôi nằm im lặng quan sát họ. Nếu họ biết tôi nằm gần họ đến thế, họ có thể dễ dàng giành thế thượng phong và giết tôi với lực lượng áp đảo.

Nhiều lần Thurid chỉ tay qua dòng sông về phía tôi, nhưng các cử chỉ của hắn có ám chỉ gì tới tôi hay không thì tôi chưa biết được. Lúc này hắn và Matai Shang bước lên con thuyền lớn đang hướng ra dòng sông và xoay tròn, tiến đều đều về hướng của tôi.

Trong lúc họ tới gần, tôi chèo chiếc xuồng của mình ra xa dần dưới bức vách đá treo lơ lửng, nhưng cuối cùng rõ ràng là thuyền của họ cũng đi cùng một hướng với tôi. Năm chiếc mái chèo đưa con thuyền tiến tới với một tốc độ đòi hỏi tôi phải nỗ lực hết sức để tiến tới với một tốc độ ngang bằng.

Hầu như từng giây phút tôi đều mong đợi mũi xuồng của mình va vào đá cứng. Ánh sáng từ dòng sông đã tắt lịm, nhưng tôi nhìn thấy một làn sáng mờ mờ ở một quãng cách xa xa, và mặt nước trước mặt tôi vẫn đang mở rộng.

Cuối cùng tôi cũng sực nghĩ ra sự thật - tôi đang đi theo một nhánh sông đổ vào dòng sông Iss ngay chính tại nơi tôi đang ẩn nấp.

Lúc này những người chèo thuyền đã tới rất gần tôi. Tiếng mái chèo của họ nhấn chìm tiếng chèo của tôi, nhưng chỉ giây lát nữa ánh sáng tăng dần ở phía trước sẽ để lộ tôi trước họ.

Không có thời gian để lãng phí. Cho dù hành động kiểu gì, tô cũng phải thực hiện nó ngay lập tức. Tôi xoay mũi thuyền sang phải, tìm kiếm mé có đá của dòng sông, và tôi dừng lại ở đó trong lúc Matai Shang và Thurid tiến tới giữa dòng nước. Nó hẹp hơn dòng sông Iss nhiều.

Khi họ tới gần hơn, tôi nghe giọng của Thurid và vị Cha già của các Thánh sĩ cất cao trong cuộc tranh luận.

Gã hoàng tử da đen nói:

“Tôi xin nói với ngài rằng tôi chỉ muốn trả thù John Carter, hoàng tử xứ Helium. Tôi không đưa ngài vào cái bẫy nào hết. Tôi có được gì đâu khi cáo giác ngài với những kẻ đã hủy hoại quốc gia và nhà cửa của tôi?

Vị giáo hoàng trả lời:

“Chúng ta hãy dừng lại ở đây giây lát để ta nghe các kế hoạch của anh. Rồi chúng ta có thể tiến hành với một sự thấu hiểu tốt hơn về các bổn phận và nghĩa vụ của chúng ta.”

Ông ta quay sang những người chèo thuyền, lệnh cho họ đưa thuyền vào bờ, cách chỗ tôi không hơn chục bước chân.

Giá như họ tới mé dưới tôi, hẳn họ sẽ nhìn thấy tôi nổi lên trong làn ánh sáng mờ mờ phía trước, nhưng từ nơi cuối cùng họ dừng lại, tôi được an toàn không kém gì đang ở cách xa họ nhiều dặm.

Những lời tôi đã nghe lõm được khiến tôi thêm tò mò, và tôi nôn nóng muốn biết Thurid đang dự định trả thù tôi theo kiểu nào. Tôi không phải chờ lâu. Tôi lắng nghe chăm chú.

Gã da đen nói tiếp:

“Không có nghĩa vụ nào hết, thưa Cha già của các Thánh sĩ. Thurid, hoàng tử của Issus không ra một giá nào cả. Khi công việc được hoàn thành tôi sẽ rất vui nếu ngài xem xét phần thưởng mà tôi đáng được nhận, thích hợp với dòng dõi lâu đời và đẳng cấp cao quý của tôi, tại một tòa án nào đó còn trung thành với niềm tin xưa cũ của ngài, vì tôi không thể trở về Thung lũng Dor hay một nơi nào khác trong phạm vi quyền lực của hoàng tử xứ Helium; nhưng tôi không đòi hỏi ngay cả điều đó - nó sẽ là mong muốn của chính ngài.”

Matai Shang đáp:

“Đó sẽ là mong muốn của anh. Và không chỉ có thế. Quyền lực và của cải sẽ là của anh nếu anh cứu được Phaidor, con gái của ta, và giao nộp cho ta Dejah Thoris, công chúa xứ Helium.”

Ông ta nói tiếp với một tiếng gầm gừ hiểm ác:

“À, nhưng gã đàn ông ở Trái đất sẽ phải chịu đau khổ vì những sự lăng nhục mà hắn đã thực hiện đối với kẻ linh thánh nhất trong hàng linh thánh, cũng không có sự xấu xa nào là quá xấu xa để giáng xuống đầu nàng công chúa của hắn ta. Giá mà ta có thể buộc hắn chứng kiến sự ô nhục và mất danh giá của người đàn bà da đỏ ấy.”

Thurid đáp:

“Ngài sẽ đối xử với cô ta theo cách của ngài trước khi ngày mai trôi qua, Matai Shang, chỉ cần ngài hứa một lời.”

Matai Shang nói:

“Ta đã nghe nói về đền Mặt trời, nhưng chưa bao giờ ta nghe nói rằng những tù nhân của nó có thể thoát ra trước khi cái năm giam cầm đã ấn định của họ trôi qua. Vậy làm thế nào anh có thể thực hiện một điều bất khả?”

Thurid đáp:

“Có lối vào bất kỳ gian phòng nào của ngôi đền vào bất cứ lúc nào. Chỉ có Issus biết điều này; Issus cũng chưa bao giờ tiết lộ các bí mật của bà ấy hơn mức cần thiết. Tình cờ, sau khi bà ta chết, tôi đã bắt gặp một tấm bản đồ cũ của ngôi đền, và tôi phát hiện ra những hướng đi chi tiết nhất để tới các gian phòng vào bất cứ lúc nào.

“Và tôi cũng biết thêm rằng có nhiều người từng đi theo hướng đó vì Issus trong quá khứ, luôn là để thực hiện các nhiệm vụ giết chết hay hành hạ các tù nhân; nhưng những người biết con đường bí mật đó sẽ chết một cách bí ẩn ngay khi họ trở về và đã báo cáo cho Issus độc ác.”

Cuối cùng Matai Shang nói:

“Vậy thì chúng ta cứ tiến hành. Ta phải tin anh, nhưng đồng thời anh cũng phải tin ta, vì chúng ta có sáu người còn anh chỉ có một mình.”

Thurid đáp:

“Tôi không sợ, và ngài cũng không cần phải sợ. Sự căm ghét của chúng ta đối với kẻ thù chung là một sự ràng buộc đủ để bảo đảm cho lòng trung thành lẫn nhau giữa chúng ta, và sau khi chúng ta đã làm nhục công chúa xứ Helium, sẽ có một lý do lớn hơn để duy trì mối liên minh giữa chúng ta - trừ phi tôi phạm sai lầm lớn về ngôi đền của Issus.”

Matai Shang ra lệnh cho những người chèo thuyền. Chiếc thuyền tiếp tục ngược lên dòng sông nhánh.

Tôi phải khó khăn lắm mới kềm chế bản thân không lao vào họ và giết chết hai tên mưu đồ xấu xa đó; nhưng tôi nhanh chóng nhận ra hành động vội vã như thế là một sự điên rồ. Nó sẽ cắt đứt nguồn duy nhất có thể dẫn đường tới cái nhà tù giam cầm Dejah Thoris trước khi một năm dài của sao Hỏa đi hết một vòng.

Nếu hắn có thể dẫn Matai Shang tới chỗ đó, vậy thì hắn cũng dẫn theo cả John Carter, hoàng tử xứ Helium.

Với những nhát chèo lặng lẽ, tôi chậm rãi lần theo lằn nước của con thuyền lớn.

Danh sách chương


Sách tương tự