← Quay lại trang sách

Chương III NGÔI ĐỀN MẶT TRỜI

Lúc này không còn gì khác để làm ngoài đánh nhau; tôi cũng không có bất kỳ thuận lợi nào khi lao vào cái hành lang tới trước mặt hai tên tu sĩ, kiếm trong tay, vì tiếng hắt hơi không đúng lúc của tôi đã cảnh báo cho chúng biết về sự hiện diện của tôi và chúng đã sẵn sàng chờ đợi tôi.

Không lời nào được thốt ra, vì chúng chỉ lãng phí hơi thở. Chính sự hiện diện của hai tên này đã tố cáo sự dối trá của chúng. Việc chúng đi theo để bất ngờ chạm trán tôi là đã quá rõ ràng, và dĩ nhiên chúng phải biết rằng tôi đã hiểu kế hoạch của chúng.

Trong chớp mắt tôi đã giao chiến với cả hai, và dù ghét bọn tu sĩ, tôi phải nói một cách công bằng rằng chúng là những kiếm sĩ cừ khôi. Và hai tên này cũng không ngoại lệ, trừ một điều là thậm chí chúng còn tài giỏi và can đảm hơn những tên trung bình trong chủng tộc.

Trong thời gian nó diễn ra, cuộc xung đột thật sự là một niềm vui mà tôi chưa từng nếm trải. Ít nhất có hai lần tôi thoát khỏi một nhát đâm chí tử của mũi thép sắc bén chỉ nhờ vào khả năng nhanh nhẹn mà các cơ bắp trái đất cung cấp cho tôi dưới điều kiện trọng lực và áp suất không khí thấp hơn của Hỏa tinh.

Nhưng dù là thế, suýt nữa tôi đã phải nếm mùi cái chết vào ngày hôm đó trong cái hành lang mờ tối bên dưới cực nam của Hỏa tinh, vì Lakor đã đánh lừa được tôi bằng một cách mà với tất cả mọi kinh nghiệm chiến đấu trên cả hai hành tinh tôi vẫn chưa từng chứng kiến nó lần nào.

Lúc đó gã tu sĩ kia đang giao chiến với tôi, và tôi đang ép hắn lùi lại - đâm vào người hắn ở chỗ này chỗ khác với mũi kiếm của tôi cho tới khi hắn có khoảng một chục vết thương đẫm máu, thế nhưng vẫn chưa thể thâm nhập qua đường kiếm phòng vệ tuyệt diệu của hắn để tung một đòn sát thủ, đủ đưa tiễn hắn về chầu tiên tổ.

Ngay lúc đó Lakor nhanh nhẹn tháo một cái chuông ra khỏi dây đai của hắn, và khi tôi bước lui lại để thực hiện một nhát đâm, hắn quất một đầu của nó vào mắt cá trái của tôi, khiến nó quấn quanh đó trong khoảnh khắc, và hắn đột ngột giật mạnh đầu kia, hất tôi ngã ngửa xuống thật mạnh.

Rồi giống như hai con báo đen phóng tới, chúng lao vào tôi; nhưng chúng đã không tính tới Woola, và trước khi lưỡi kiếm nào chạm vào tôi, một hóa thân gầm rống của một ngàn tên quỷ sứ lao tới bên trên thân hình sóng soảy của tôi, và con chó Hỏa tinh trung thành của tôi lao vào chúng.

Nếu có thể, bạn hãy tưởng tượng một con gấu xám khổng lồ với mười cái chân được trang bị những cái móng dài và một cái mõm to tướng giống như miệng ếch chia đôi đầu nó từ tai này tới tai kia, để lộ ra ba hàng năng dài, trắng nhởn. Rồi cộng thêm vào sinh vật trong trí tưởng tượng của bạn sự nhanh nhẹn và dữ tợn của một con cọp Bengal đang đói và sức mạnh của một cặp bò mộng. Và bạn sẽ có một khái niệm mơ hồ về Woola trong hành động.

Trước khi tôi có thể gọi nó, nó đã nghiền Lakor thành một đống nhão nhoẹt với một cú tát độc nhất của một trong những bàn chân to tướng, và xé toạt tên tu sĩ còn lại tới tận xương theo đúng nghĩa đen. Thế nhưng khi tôi nói với nó một cách gay gắt, nó tỏ ra e sợ như thể nó vừa làm một việc đáng để bị khiển trách và trừng phạt.

Tôi không bao giờ có lòng dạ nào để trừng phạt Woola trong suốt những năm dài đã qua kể từ ngày đầu tiên trên sao Hỏa, khi vị phó vương da xanh của người Tharks giao cho nó nhiệm vụ canh gác tôi. Tôi đã chiếm được tình yêu và lòng trung thành của nó từ những người chủ độc ác và không có tình yêu của nó trước đó. Thế nhưng tôi tin rằng nó sẽ thực hiện bất kỳ hành động độc ác nào nếu tôi bảo nó làm, tình yêu của nó dành cho tôi thật là kỳ diệu.

Viên đá quý ở giữa cái vòng vàng trên trán của Lakor cho thấy hắn là một Thánh sĩ, trong lúc gã đồng đội của hắn, không có thứ trang sức đó, là một tu sĩ cấp thấp hơn, dù từ dây đai của hắn tôi nhận ra hắn đã đạt tới Đẳng cấp thứ chín, chỉ dưới các Thánh sĩ một bậc.

Trong khoảnh khắc đứng nhìn sự tàn phá mà Woola đã gây ra, tôi sực nhớ lại cái lần tôi cải trang với bộ tóc, viên đá quý và sợi dây đai của Sator Throg, gã Thánh sĩ mà Thuvia đã giết chết, và lúc này tôi chợt nghĩ rằng cũng nên tận dụng những thứ đồ trang sức của Lakor với cùng một mục đích.

Giây lát sau, tôi giật bộ tóc giả màu vàng khỏi mái đầu hói của hắn, trùm nó cùng cái vòng vàng lên đầu và khoác lên người tôi sợi dây đai của hắn.

Woola không tán thành sự hóa thân này. Nó đánh hơi tôi và gầm gừ e ngại, nhưng khi tôi nói với nó và vỗ lên cái đầu to tướng, rốt cuộc nó cũng thỏa hiệp với sự thay đổi. Theo lệnh tôi, nó chạy lon ton dọc theo hành lang về hướng mà chúng tôi đang đi và bị hai gã tu sĩ làm cho gián đoạn khi nãy.

Lúc này chúng tôi di chuyển một cách thận trọng, được cảnh báo bởi một phần câu chuyện tôi đã nghe lõm. Tôi đi trước Woola để có thể tập trung cả bốn con mắt vào mối đe dọa có thể bất ngờ xuất hiện trước mặt, và thật tốt khi chúng tôi đã được cảnh báo trước.

Ở đáy của một dãy nấc thang hẹp, cái hành lang quẹo gắt ngược lại rồi lại ngoặt thêm lần nữa trở về hướng ban đầu, khiến ngay tại điểm đó nó hình thành một chữ S hoàn hảo, nhánh trên của chữ S này đột ngột dẫn vào một gian phòng rộng, được chiếu sáng lờ mờ, và sàn phòng bị phủ kín hoàn toàn bởi lũ rắn độc và những loài bò sát kinh tởm.

Cố gắng băng qua căn phòng đó cũng có nghĩa là tìm tới cái chết ngay tức khắc, và trong khoảnh khắc tôi hầu như hoàn toàn ngã lòng. Rồi tôi chợt nghĩ ra rằng Thurid, Matai Shang và số còn lại hẳn đã đi ngang qua đó, vì thế phải có một con đường.

Nếu như không có sự tình cờ may mắn mà nhờ đó tôi nghe lõm được dù chỉ một phần nhỏ câu chuyện của hai gã tu sĩ, hẳn chúng tôi đã dẫm lên cái đống lúc nhúc chết người đó một hai bước, và chỉ một bước thôi cũng đủ để chúng tôi tiêu tùng cuốc xẻng.

Đây là những loài bò sát duy nhất mà tôi từng trông thấy ở Barsoom, nhưng tôi nhận biết chúng do sự giống nhau giữa chúng với những di tích hóa thạch của những loài được cho là đã tuyệt chủng mà tôi từng nhìn thấy trong các viện bảo tàng của Helium. Ở đó, họ tập trung nhiều giống loại bò sát thời tiền sử đã biết, cũng như nhiều loài chưa được phát hiện.

Chưa bao giờ trước đó tôi nhìn thấy cả một bầy đàn nhung nhúc những con quái vật kinh tởm hơn thế. Một nỗ lực mô tả chúng cho những người trên trái đất sẽ là vô ích, vì chất liệu là thứ duy nhất trên người chúng giống như bất kỳ sinh vật nào của quá khứ hay hiện tại mà bạn quen thuộc - ngay cả nọc độc của chúng cũng là một loại chất độc siêu phàm mà nếu đem ra so sánh, nó có thể khiến cho một con rắn hổ mang bành trở nên hoàn toàn vô hại như một con giun đất.

Khi phát hiện ra chúng tôi, cả một đám lúc nhúc vội vã bò tới gần lối vào nơi chúng tôi đang đứng, nhưng một hàng bóng đèn radium gắn dọc theo ngưỡng của của căn phòng khiến chúng đột ngột dừng lại - rõ ràng chúng không dám băng qua đường ánh sáng đó.

Tôi hoàn toàn chắc chắn rằng chúng sẽ không mạo hiểm ra khỏi căn phòng đó, dù tôi không đoán ra cái gì đã ngăn cản chúng. Thực tế đơn giản rằng chúng tôi không gặp một con bò sát nào trong cái hành lang mà chúng tôi vừa đi qua là một sự bảo đảm đầy đủ cho việc chúng không bò lang thang ở đó.

Tôi kéo Woola ra khỏi con đường nguy hiểm, rồi bắt đầu một cuộc khảo sát vô cùng cẩn thận căn phòng chứa những con bò sát từ nơi tôi đang đứng. Khi mắt tôi bắt đầu quen với ánh sáng nhờ nhờ bên trong, tôi dần dần nhận ra một hành lang ở đầu kia của căn phòng, từ đó mở ra nhiều lối thoát.

Tới gần ngưỡng cửa hết mức mà tôi dám, tôi đưa mắt dõi theo cái hành lang đó, phát hiện ra rằng nó đi vòng quanh căn phòng theo như những gì tôi có thể thấy. Sau đó tôi ngẩng nhìn lên, dọc theo rìa cao hơn của lối vào mà chúng tôi đã đi theo, và ở đó, tôi vui mừng nhìn thấy lối vào của một cái hành lang cách đầu tôi chưa tới ba tấc rưỡi. Tôi nhảy lên đó ngay lập tức và gọi Woola đi theo tôi.

Ở đây không có con bò sát nào cả - con đường trống trơn cho tới đầu đối diện của căn phòng ghê tởm - và giây lát sau tôi và Woola nhảy xuống cái hành lang bên ngoài một cách an toàn.

Không đầy mười phút sau, chúng tôi bước vào một căn phòng hình tròn lát đá hoa trắng. Những bức tường khảm những chữ tượng hình của người da đen bằng vàng.

Từ mái vòm cao của căn phòng rộng lớn này, một cây cột khổng lồ chạy dài xuống tới nền, và trong lúc quan sát tôi thấy nó chậm chạp xoay tròn.

Tôi đã tới đáy của ngôi đền Mặt Trời!

Ở đâu đó trên đầu tôi là Dejah Thoris, Phaidor, con gái của Matai Shang và Thuvia xứ Ptarth. Nhưng giờ đây khi tôi đã tìm ra yếu huyệt duy nhất của cái nhà tù vững chắc này, việc làm sao tới được chỗ họ vẫn còn là một câu đố đầy thử thách.

Tôi chậm rãi đi vòng quanh cái cuống khổng lồ, tìm kiếm một phương tiện để đi vào. Khi đi được một phần đường tôi tìm thấy một cây đèn pin radium nhỏ xíu, và khi xem xét nó với sự tò mò vì sự có mặt của nó ở nơi hầu như không thể xâm nhập và chưa từng được biết này, tôi tình cờ nhận ra dấu hiệu ngôi nhà của Thurid làm bằng ngọc cẩn trên cái vỏ kim loại.

Tôi đang ở trên con đường đúng, tôi nghĩ, trong lúc đút món đồ trang sức đó vào cái túi da cài trên sợi dây đai. Rồi tôi tiếp tục tìm kiếm lối vào, mà tôi biết phải ở đâu đó quanh đây. Tôi không phải tìm kiếm lâu, vì hầu như ngay sau đó tôi bắt gặp một cánh cửa nhỏ được ghép một cách khéo léo vào đế của cái cuống đến độ một kẻ quan sát ít chuyên chú hay thận trọng hơn có thể đi ngang qua nó mà không nhận thấy.

Đó là cánh cửa sẽ dẫn tôi đi vào căn ngục, nhưng đâu là phương tiện để mở nó ra? Không thể nhìn thấy một cái nút hay ổ khóa nào. Tôi rà đi rà lại từng in-sơ vuông trên bề mặt của nó, nhưng kết quả khả quan nhất mà tôi tìm ra là một cái lỗ đinh ghim bé xíu ở phía trên bên phải điểm giữa của cánh cửa - một cái lỗ mà dường như chỉ là một tai nạn của nhà sản xuất hay sự thiếu hoàn hảo của chất liệu.

Tôi cố nhìn qua cái lỗ tí hon này, nhưng tôi không thể nói nó chỉ sâu chưa tới một in-sơ hay hoàn toàn xuyên qua cánh cửa - ít nhất tôi cũng không thấy ánh sáng nào ở mé bên kia. Tiếp đến tôi áp tai vào đó và lắng nghe, nhưng một lần nữa các nỗ lực của tôi mang lại những kết quả không đáng kể.

Trong thời gian tôi tiến hành những thử nghiệm này, Woola đứng bên cạnh tôi, nhìn chăm chú vào cánh cửa và khi ánh mắt của tôi hướng sang nó, tôi chợt nảy ra ý nghĩ kiểm tra độ chính xác của giả thuyết của tôi, rằng cánh cửa này là phương tiện mà Thurid, hoàng tử da đen và Matai Shang, Cha già của các Thánh sĩ đã dùng để thâm nhập vào ngôi đền.

Tôi quay đi, gọi nó đi theo. Nó ngần ngừ một chút, rồi phóng theo tôi, sủa ăng ẳng và ngoạm vào dây đai để kéo tôi lại. Tuy nhiên tôi vẫn đi tiếp, xa khỏi cánh cửa chừng vài bước trước khi nhượng bộ nó, để có thể xem chính xác là nó sẽ làm gì. Rồi tôi cho phép nó dẫn tôi tới nơi nó muốn.

Nó lôi tôi trở lại cánh cửa, một lần nữa trở lại vị trí đối diện với mặt đá trống trơn khi nãy, nhìn thẳng vào bề mặt đá sáng lấp lánh. Trong suốt một giờ tôi cố suy nghĩ để giải quyết bí mật của sự kết hợp sẽ mở ra con đường trước mặt tôi.

Tôi cẩn thận nhớ lại mọi tình huống trong cuộc theo đuổi Thurid, và kết luận của tôi cũng trùng hợp với niềm tin ban đầu, rằng Thurid đã đi theo lối này, không có sự trợ giúp nào khác ngoài kiến thức, và hắn đã đi qua cánh cửa đang ngăn trở bước tiến của tôi, không có sự giúp sức từ bên trong. Nhưng hắn làm điều đó như thế nào?

Tôi nhớ lại sự cố ở căn phòng bí ẩn trong các vách đá vàng hồi tôi giải thoát cho Thuvia xứ Ptarth khỏi ngục tù của bọn tu sĩ. Sau đó nàng đã dùng một chiếc chìa khóa mỏng manh giống như một cây kim từ chùm chìa khóa của tên tu sĩ để mở cánh cửa dẫn tới căn phòng bí mật nơi Tars Tarkas đang chiến đấu với bầy sư tử. Một chiếc chìa khóa tí hon như vậy đã mở toang được cái ổ khóa rắc rối của cánh cửa đó.

Tôi vội vã trút các thứ đựng trong cái túi da lên mặt đất. Nếu tôi có thể tìm được một mẩu thép mỏng, tôi có thể chế nó thành một chiếc chìa khóa để xâm nhập vào nhà tù của ngôi đền.

Trong lúc tôi đang tìm kiếm trong mớ đồ tạp nham luôn được tìm thấy trong túi da của một chiến binh sao Hỏa, bàn tay tôi đặt lên cái đèn pin radium có hình trang trí của gã hoàng tử da đen.

Khi tôi toan bỏ vật đó sang một bên như một thứ vô giá trị trong tình huống hiện tại, tôi chợt nhìn thấy vài mẫu tự lạ lùng được vạch ngoằn ngoèo trên mặt vàng mềm của cái vỏ.

Sự tò mò xui giục tôi giải mã chúng, nhưng những gì tôi đọc không mang tới một ý nghĩa nào ngay lập tức. Có ba tập hợp ký tự, tập hợp này nằm bên dưới tập hợp kia như sau:

3 - 50T

1- 1X

9 - 25T

Sự tò mò của tôi chỉ diễn ra trong thoáng chốc, sau đó tôi bỏ lại cái đèn pin vào túi da, nhưng mấy ngón tay của tôi chưa kịp buông nó ra thì tôi chợt nhớ lại câu chuyện giữa Lakor và đồng bọn của hắn, khi gã trẻ hơn trích lại những lời của Thurif và chế giễu chúng: “Và anh nghĩ gì về chuyện ánh sáng ngớ ngẩn này? ‘Để cho ánh sáng tỏa ra với cường độ ba đơn vị radium trong suốt năm mươi tal (giây).” - chà, và trên cây đuốc có dòng ký tự 3 - 50 T; và “trong suốt một xát (giờ) để cho nó rọi sáng với cường độ một đơn vị radium - đó là dòng ký tự thứ hai; và “chín đơn vị trong hai mươi lăm tal.”

Công thức đã hoàn tất; nhưng nó có nghĩa là gì?

Tôi nghĩ là tôi biết. Thế là tôi lại lôi cái đèn pin ra khỏi túi da, cẩn thận kiểm tra mặt đá hoa quanh cái lỗ đinh ghim trên cánh cửa. Tôi suýt la lên mừng rỡ khi phát hiện ra những mẩu nhỏ li ti hầu như không thể thấy của các nguyên tử các bon hóa phóng ra từ những cây đèn pin Hỏa tinh.

Đó là chứng cứ cho thấy rằng trong suốt nhiều thế kỷ những cây đèn pin đã được dùng để mở cái lỗ đinh ghim này, và chỉ có một câu trả lời đơn giản cho mục đích của nó: cơ cấu của cái khóa này được điều động bằng những tia ánh sáng. Và tôi, John Carter, hoàng tử xứ Helium, đang nắm giữ trong tay công thức đó, do chính tay của kẻ thù của tôi vạch lên cây đèn pin này.

Trong một chiếc vòng đeo tay hình trụ quanh cổ tay tôi là cái đồng hồ bấm giờ sao Hỏa - một dụng cụ tinh tế ghi lại những giây, giờ và ngày theo thời gian sao Hỏa, các con số hiện lên bên dưới một lớp thủy dinh dày giống như cung cách của một cái đồng hồ đo đường trên trái đất.

Tôi cẩn thận tính giờ, hướng cây đèn pin vào cái lỗ nhỏ trên của, điều chỉnh cường độ của ánh sáng với ngón tay cái ấn lên cái nút bên hông lớp vỏ.

Tôi rọi ba đơn vị ánh sáng vào cái lỗ trong năm mươi giây, rồi một đơn vị trong một giờ, và chín đơn vị trong hai mươi lăm giây. Hai mươi lăm giây cuối cùng đó là hai mươi lăm giây lâu nhất trong cuộc đời tôi. Cái ổ khóa có chuyển động khi kết thúc quãng thời gian tưởng chừng như vô tận đó không?

Hai mươi ba! Hai mươi bốn! Hai mươi lăm!

Tôi tắt ánh sáng. Đợi trong bảy giây - không có tác dụng rõ rệt nào ở cơ cấu của ổ khóa. Có thể nào giả thuyết của tôi đã sai hoàn toàn?

Khoan đã! Phải chăng sự căng thẳng nôn nóng đã tạo ra ảo tưởng, hay cánh cửa đã thật sự chuyển động? Mặt đá rắn chậm chạp chìm vào bức tường, không một tiếng động - không có ảo tưởng nào ở đây cả.

Nó lùi dần khoảng mười bộ cho tới khi nó để lộ ở mé bên phải một lối đi hẹp dẫn tới một hành lang hẹp và tối song song với bức tường bên ngoài. Hầu như ngay khi lối vào mở ra, Woola và tôi đã phóng qua đó. Sau đó cánh cửa lặng lẽ trượt về vị trí cũ.

Đi dọc hành lang được một quãng, tôi nhìn thấy ánh phản chiếu mơ hồ của một ánh sáng, và chúng tôi tiến về phía đó. Ở điểm nơi ánh sáng tỏa ra có một chỗ ngoặt khá gắt, cách đó không xa là một căn phòng sáng rực ánh đèn.

Tại đây chúng tôi phát hiện ra một con đường xoắn ốc đi lên từ giữa căn phòng hình tròn.

Tôi biết ngay rằng chúng tôi đã tới trung tâm của nền ngôi đền Mặt Trời - con đường xoắn ốc chạy lên qua những bức tường bên trong của những căn ngục. Đâu đó bên trên tôi là Dejah Thoris, trừ phi Thurid và Matai Shang đã bắt nàng đi.

Khi chúng tôi toan đi lên cầu thang, Woola đột nhiên biểu lộ một sự khích động điên cuồng. Nó nhảy tới nhảy lui, táp vào chân và dây đai của tôi, cho tới khi tôi nghĩ rằng nó đã nổi điên. Cuối cùng, khi tôi đẩy nó ra và toan bước lên thì nó ngoạm lấy thanh kiếm của tôi và kéo tôi lùi lại.

Mặc cho tôi la mắng hay đấm nó, nó vẫn không nhả thanh kiếm ra, và tôi hoàn toàn chịu thua sức mạnh của nó, trừ phi tôi dùng bàn tay trái đâm con dao vào nó, nhưng dù nó có điên hay chăng, tôi cũng không lòng dạ nào cắm lưỡi dao sắc vào con vật trung thành.

Nó lôi tôi xuống căn phòng, băng ngang qua đó tới phía đối diện, ở nơi chúng tôi đã đi vào. Tại đây có một cửa khác dẫn tới một hành lang chạy thẳng xuống một con dốc. Không chút ngần ngừ, Woola lôi tôi đi dọc theo con đường đá này.

Sau đó nó dừng lại, buông tôi ra, đứng giữa tôi và con đường vừa tới, ngẩng nhìn lên mặt tôi như muốn hỏi tôi có chịu tự nguyện theo nó không hay nó vẫn phải dùng sức mạnh lôi tôi.

Rầu rĩ nhìn những dấu răng của nó trên cánh tay trần của tôi, tôi quyết định làm theo ý muốn của nó. Nói cho cùng, bản năng kỳ lạ của nó có thể đáng tin cậy hơn sự xét đoán lầm lạc của tôi.

Và cũng đúng là tôi đã buộc phải đi theo nó. Nhưng chỉ cách một quãng ngắn từ căn phòng hình tròn, chúng tôi chợt đi tới một mê cung sáng rực của những hành lang có vách bằng thủy tinh.

Thoạt tiên, tôi nghĩ đó là một căn phòng rộng, có những bức vách trong suốt của những hành lang quanh quẹo, nhưng sau khi suýt va đầu mấy lần bằng cách cố đi qua những bức tường thủy tinh rắn, tôi đi đứng cẩn thận hơn.

Chúng tôi mới đi được vài thước Anh theo cái hành lang dẫn vào cái mê cung kỳ lạ này thì Woola gầm lên một tiếng kinh khủng, đồng thời nó lao vào tấm vách trong veo bên trái chúng tôi.

Tiếng gầm đáng sợ đó vẫn còn vang dội qua những căn phòng dưới lòng đất thì tôi nhìn thấy điều đã khiến cho con vật trung thành gầm lên.

Xa xa, hơi mờ qua nhiều lớp thủy tinh dày, như trong một màn sương mù khiến họ có vẻ không thật và ma quái, tôi nhận ra hình dáng của tám người - ba phụ nữ và năm đàn ông.

Cùng lúc đó, rõ ràng là giật mình vì tiếng gầm dữ tợn của Woola, họ dừng lại và nhìn quanh, rồi đột ngột, một trong số họ, một người phụ nữ, chợt giơ tay về phía tôi, và ngay cả ở khoảng cách lớn đó tôi vẫn có thể thấy đôi môi của nàng chuyển động - đó là Dejah Thoris, công chúa mãi mãi xinh đẹp và trẻ trung của xứ Helium.

Đi cùng với nàng là Thuvia xứ Ptarth, Phaidor, con gái của Matai Shang, Thurid, vị Cha già của các Thánh sư và ba tên tu sĩ cấp thấp hơn đi cùng với họ.

Thurid vung nắm đấm về phía tôi, và hai tên tu sĩ nắm chặt cánh tay của Dejah Thoris và Thuvia, thúc hối họ đi tiếp. Giây lát sau họ biến mất vào một hành lang đá ở phía ngoài cái mê cung thủy tinh.

Người ta bảo rằng tình yêu vốn mù lòa; nhưng tình yêu của Dejah Thoris - lớn đến nỗi dù tôi đang ở dưới lớp cải trang tu sĩ và sau cả một mê cung thủy tinh mù mịt như sương mà nàng vẫn nhận biết tôi - thì thật sự không mù quáng chút nào.