Chương XVI THỐNG SOÁI HỎA TINH
Con tàu mà Dejah Thoris và tôi đang đứng trên boong sau mười hai năm dài cách biệt đã tỏ ra hoàn toàn vô dụng. Những bồn chứa tia đẩy của nó đã bị rò rỉ nặng. Động cơ của nó không nổ được. Chúng tôi trở nên bất lực giữa không trung bên trên lớp băng vùng cực.
Nó đã trôi qua cái vực chứa đựng thi thể của Matai Shang, Thurid và Phaidor, và lúc này đang lơ lửng bên trên một ngọn đồi thấp. Tôi mở mấy cái van xả tia đẩy để cho phép nó dần dần hạ xuống mặt đất. Khi nó chạm đất, Dejah Thoris và tôi bước ra khỏi boong tàu. Tay trong tay, chúng tôi quay trở lại, băng qua vùng đất băng giá về phía thành phố Kadabra.
Chúng tôi đi qua cái đường hầm mà tôi đã đuổi theo họ lúc trước, bước chậm rãi, vì chúng tôi có nhiều điều phải nói với nhau.
Nàng kể cho tôi nghe về những tháng cuối cùng kinh khủng trước đó, khi cánh cửa căn ngục trong ngôi đền Mặt Trời chậm chạp khép lại giữa chúng tôi. Về việc Phaidor đã lao vào nàng với lưỡi dao giơ cao và về tiếng rú của Thuvia khi nàng ta nhận ra ý định xấu xa của nữ thần của các tu sĩ.
Chính tiếng kêu đó đã ngân lên trong tai tôi suốt những tháng dài mệt mỏi bị bỏ lại trong mối ngờ vực khốn khổ về số phận của vợ tôi; vì tôi không biết rằng Thuvia đã hất con dao văng khỏi tay con gái của Matai Shang trước khi nó chạm vào Dejah Thoris hay chính bản thân nàng ta.
Nàng cũng kể cho tôi nghe về thời gian vô tận đáng sợ trong tù. Về sự căm ghét và ác độc của Phaidor, và tình yêu dịu dàng của Thuvia, về việc ngay cả khi ở trong tình trạng tuyệt vọng nhất, cả hai cô gái da đỏ vẫn bám chặt vào một hy vọng và niềm tin chung - rằng John Carter sẽ tìm ra một cách để giải cứu họ.
Lúc này chúng tôi đã tới căn phòng của Solan. Tôi tiến tới mà không hề cảnh giác, vì tôi chắc rằng cho tới giờ này cả thành phố và cung điện đều nằm trong tay các bạn của tôi.
Và thế là tôi mạnh dạn đi vào căn phòng, lọt vào giữa mười hai tên hoàng thân quý tộc của Salensus Oll. Chúng đang trên đường đi ra thế giới bên ngoài theo những hành lang mà chúng tôi vừa mới đi ngang.
Khi trông thấy chúng tôi, chúng dừng lại, và một nụ cười xấu xa nở rộng trên mặt tên chỉ huy. “Tác giả mọi rủi ro của chúng ta đây rồi!” hắn la lên, chỉ vào tôi. “Ít ra chúng ta cũng thỏa lòng với việc trả thù được phần nào khi chúng ta bỏ lại sau lưng hai cái xác bị tùng xẻo của hoàng tử và công chúa xứ Helium.
“Khi bọn chúng tìm thấy họ,” hắn nói tiếp, búng ngón cái về phía cung điện bên trên, “chúng sẽ nhận ra rằng sự trả thù của người da vàng khiến chúng gặp vô vàn rắc rối. Chuẩn bị chết đi, John Carter, nhưng sự kết thúc của ngươi có lẽ phải cay đắng hơn khi biết rằng ta có thể thay đổi ý định về việc ban cho công chúa của người một cái chết đáng thương - có lẽ chúng ta sẽ giữ nàng ta lại để làm đồ chơi cho các nhà quý tộc của chúng ta.”
Tôi đứng sát cạnh bức tường phủ đầy thiết bị, Dejah Thoris bên cạnh. Nàng ngẩng lên nhìn tôi dò hỏi khi bọn chiến binh tiến tới gần chúng tôi với kiếm tuốt trần. Kiếm của tôi vẫn còn nằm trong bao kiếm đeo bên hông, và trên môi tôi nở một nụ cười.
Bọn quý tộc nhìn tôi kinh ngạc, rồi khi thấy tôi không đưa tay rút kiếm, chúng ngần ngừ, e sợ một âm mưu nào đó; nhưng tên chỉ huy thúc giục chúng tiến lên. Khi chúng đã tới hầu như trong tầm kiếm của tôi, tôi giơ tay lên và đặt nó lên bề mặt sáng loáng của một cái cần gạt lớn. Vẫn cười gằn, tôi nhìn thẳng vào mặt lũ kẻ thù.
Chúng đồng loạt dừng phắt lại, ném một cái nhìn sợ hãi vào tôi và vào nhau.
“Dừng lại!” tên chỉ huy la lên. “Ngươi không mơ nổi ngươi đang làm gì đâu!”
“Ngươi nói đúng,” tôi đáp. “John Carter không mơ. Anh ta chỉ biết - biết rằng nếu một tên trong bọn ngươi bước thêm một bước tới gần Dejah Thoris, công chúa xứ Helium, ta sẽ kéo cái cần gạt này, nàng và ta sẽ chết cùng nhau, nhưng chúng ta sẽ không chết một mình.”
Bọn quý tộc lùi lại, thì thào với nhau một lúc. Cuối cùng tên chỉ huy quay sang tôi.
“Cứ đi đường của ngươi, John Carter, và chúng ta sẽ đi đường của chúng ta.”
“Bọn tù nhân không đi theo đường của chúng,” tôi đáp, “và các ngươi là tù nhân, tù nhân của hoàng tử xứ Helium.”
Trước khi chúng có thể trả lời, một cánh cửa ở mé đối diện của căn phòng mở ra và hai mươi chiến binh da vàng ập vào phòng. Trong khoảnh khắc, bọn quý tộc có vẻ nhẹ nhõm, rồi khi mắt chúng đặt vào người chỉ huy của toán người mới, mặt chúng tái đi, vì đó là Talu, vị hoàng tử nổi loạn thành Marentina, và chúng biết chúng không thể trông mong sự trợ giúp hay thương hại nào từ anh.
“Hay lắm, John Carter,” anh kêu lên. “Anh đã quay sức mạnh của chúng sang chống lại chúng. Thật may cho Okar khi anh có mặt ở đây để ngăn chúng tẩu thoát, vì bọn này là những tên hung ác nhất ở miền bắc, và tên này - anh chỉ vào gã chỉ huy - có thể sẽ tự phong làm Vua của các vị vua thế cho Salensus Oll đã chết. Khi đó thật sự chúng ta sẽ có một kẻ cầm quyền còn hung ác hơn cả tên bạo chúa đáng ghét đã gục xuống trước lưỡi kiếm của anh.”
Lúc này bọn quý tộc Okar bó tay quy hàng, vì chúng sẽ đối mặt với cái chết hiển nhiên nếu chống cự. Thế là với sự hộ tống của các chiến binh của Talu, chúng tôi lên đường đi tới căn phòng hội nghị lớn của Salensus Oll khi trước. Tại đây có một đám đông chiến binh.
Những người da đỏ đến từ Helium và Ptarth, những người da vàng ở miền bắc, chen vai thích cánh với những người da đen của chủng tộc Con Cả. Họ đã tới dưới sự chỉ huy của anh bạn Xodar của tôi để giúp tìm kiếm tôi và Dejah Thoris. Có cả những chiến binh da xanh dữ tợn từ những đáy biển cạn ở miền nam, và một nhóm tu sĩ da trắng đã từ bỏ tôn giáo của họ và thề nguyền trung thành với Xodar.
Có Tardors Mors và Mors Kajak, và cao lớn, hùng tráng trong những dây đai chiến binh lộng lẫy, là Carthoris, con trai tôi. Ba người này ôm chầm lấy Dejah Thoris khi chúng tôi bước vào phòng, và dù những thói quen sinh hoạt và huấn luyện của hoàng gia không có xu hướng biểu hiện một cách thô lỗ, tôi nghĩ rằng họ sẽ bóp nghẹt nàng với những cái ôm thật chặt.
Và còn có Tars Tarkas, vua xứ Thark, và Kantos Kan, người bạn lâu ngày của tôi, và nhảy chồm chồm, cắn vào dây đai của của tôi với tình yêu chan chứa là Woola già thân yêu của tôi, đang phát rồ vì vui sướng.
Một tiếng reo hò kéo dài và lớn nổ ra khi họ nhìn thấy chúng tôi. Tiếng loảng xoảng của kim loại điếc cả tai khi các cựu chiến binh của mọi miền lãnh thổ Hỏa tinh chạm kiếm của họ vào nhau để thể hiện sự thành công và chiến thắng. Nhưng khi tôi bước ngang qua những quý tộc và chiến binh, phó vương và vua đang chào mừng, tim tôi vẫn còn nặng trĩu, vì thiếu mất hai gương mặt mà tôi rất thiết tha được nhìn thấy ở đó - Thuvan Dihn và Thuvia xứ Ptarth không hiện diện trong căn phòng lớn.
Tôi hỏi thăm những người của mỗi nước về họ, và cuối cùng từ một trong những tù binh da vàng, tôi biết rằng họ đã bị một sĩ quan trong cung điện bắt giữ khi họ tìm cách tới Căn ngục Ê Hề trong lúc tôi còn bị cầm tù ở đó.
Tôi không cần hỏi để biết điều gì đã xui khiến họ tới đó - vị vua can đảm và người con gái trung thành của ông. Kẻ báo tin cho tôi nói rằng hiện giờ họ đang nằm ở một trong số căn ngục tối của cung điện, chờ đợi một quyết định của tên bạo chúa miền bắc về mạng sống của họ.
Lát sau, nhiều nhóm lùng sục khắp tòa nhà cổ để tìm kiếm họ, và cốc hạnh phúc của tôi tràn đầy khi tôi nhìn thấy họ được một đội cận vệ đang hò reo hộ tống vào phòng.
Hành động đầu tiên của Thuvia là chạy tới cạnh Dejah Thoris, và tôi không cần có chứng cứ nào về tình yêu của hai người này dành cho nhau ngoài sự chân thành trong lúc họ ôm chặt nhau.
Đang nhìn xuống căn phòng đông nghẹt này là cái ngai vàng im lặng và trống rỗng của xứ Okar.
Trong tất cả những cảnh tượng lạ lùng mà nó từng chứng kiến từ cái thời xa xưa khi một vị vua ngồi lên nó lần đầu, không cảnh tượng nào có thể so sánh với sự việc mà nó đang nhìn xuống lúc này. Và trong lúc suy ngẫm về quá khứ và tương lai của chủng tộc da vàng râu đen bị chôn vùi rất lâu đó, tôi nghĩ tôi nhìn thấy một sự tồn tại xán lạn và hữu ích hơn đối với họ trong đại gia đình các quốc gia anh em hiện đang trải dài từ cực nam cho tới trước cửa nhà của họ.
Hai mươi năm trước tôi đã bị ném vào cái thế giới lạ lùng và tàn bạo này, trần truồng và là một kẻ xa lạ, bàn tay của mọi chủng tộc và quốc gia đã giơ cao trong sự xung đột và chiến tranh tiếp diễn chống lại người của mọi vùng đất và màu da khác. Hôm nay, với sức mạnh trong thanh kiếm của tôi và sự trung thành của các bạn bè tôi dành cho tôi, người da đen và da trắng, người da đỏ và da xanh đang kề vai sát cánh trong hòa bình và tình hữu nghị. Tất cả các quốc gia ở Barsoom chưa trở thành một, nhưng một nỗ lực lớn lao hướng tới mục tiêu đó đã được đặt ra, và giờ đây nếu tôi có thể gắn kết chủng tộc da vàng vào khối đoàn kết của các quốc gia này, tôi sẽ cảm thấy mình hoàn thành được một sự nghiệp lớn lao, và để đền đáp lại cho sao Hỏa ít ra là phần nào đó món nợ biết ơn to lớn vì nó đã ban cho tôi Dejah Thoris.
Trong lúc suy nghĩ, tôi nhìn thấy chỉ có một con đường, và một người duy nhất có thể bảo đảm sự thành công cho các hy vọng của tôi. Và như thường lệ, tôi hành động như luôn luôn hành động - không cân nhắc thiệt hơn hay dò hỏi ý kiến của người khác.
Những kẻ không thích các kế hoạch và cách thức cổ động của tôi luôn luôn giữ nguyên kiếm ở bên hông để bày tỏ sự không ủng hộ; nhưng hiện giờ dường như không có một giọng nói bất đồng nào, khi tôi nắm chặt cánh tay Talu, phóng người lên cạnh cái ngai vàng từng thuộc về Salensus Oll.
“Hỡi các chiến binh ở Barsoom,” tôi la lên, “Kadabra đã thất thủ, và cùng với nó là tên bạo chúa đáng ghét của miền bắc; nhưng sự toàn vẹn của Okar cần được duy trì. Những người da dỏ do các vị vua da đỏ cai trị, các chiến binh da xanh của các vùng biển cổ đại không biết ai khác ngoài một kẻ trị vì da xanh; người da đen ở cực nam tuân theo pháp luật của Xodar; những lợi ích của người da vàng hoặc da đỏ sẽ không được đáp ứng nếu một vị vua da đỏ ngồi trên chiếc ngai vàng của xứ Okar.
“Chỉ có một chiến binh phù hợp nhất với danh hiệu lâu đời và cao quý Vua của các vị vua của miền Bắc. Hỡi dân chúng Okar, hãy giơ kiếm của các bạn lên để chào mừng kẻ trị vì mới - Talu, hoàng tử nổi loạn ở thành Marentina!”
Thế là một tiếng hét lớn hân hoan cất lên từ những con người tự do của thành Marentina lẫn những tù nhân Kadabra, vì tất cả đều nghĩ rằng những người da đỏ sẽ giữ lại thứ mà họ chiếm được bằng vũ lực, đó cũng là cách thức thông thường ở Barsoom, và do đó họ sẽ bị cai trị bởi một vị vua xa lạ.
Những chiến binh chiến thắng đã đi theo Carthoris tham gia vào cuộc biểu hiện cuồng nhiệt, và giữa tiếng hò reo ầm ĩ, Dejah Thoris và tôi đi ngang qua khu vườn rực rỡ của những vị vua trong cái sân của hoàng cung Kadabra.
Theo sát gót chân chúng tôi là Woola, và trên một cái ghế chạm trỗ đẹp đẽ dưới một lùm cây đầy hoa tím, chúng tôi nhìn thấy hai người đã tới trước chúng tôi - Thuvia xứ Ptarth và Carthoris xứ Helium.
Mái đầu đẹp đẽ của chàng trai trẻ khôi ngô đang nghiêng xuống gương mặt xinh đẹp của người bạn gái. Tôi nhìn Dejah Thoris, mỉm cười, và trong lúc kéo sát nàng vào người, tôi thì thầm: “Sao không chứ?”
Thật vậy, sao không chứ? Tuổi tác thì có nghĩa lý gì trong thế giới vĩnh viễn trẻ trung này?
Chúng tôi ở lại Kadabra làm khách của Talu cho tới sau lễ đăng quang chính thức của anh. Sau đó, trên đoàn tàu mà tôi đã may mắn bảo quản được, chúng tôi bay về miền nam, băng qua cái lũy băng; nhưng chỉ sau khi chúng tôi đã chứng kiến việc phá hủy hoàn toàn Kẻ Bảo Vệ Miền Bắc ác nghiệt theo lệnh của Vua của các vị vua mới.
“Từ nay trở đi,” anh nói, khi công việc đã hoàn tất, “các đoàn tàu của người da đỏ và da đen được tự do đến và đi ngang qua lũy băng như trên đất đai của chính họ.
“Những Hang Động Hôi Thối sẽ được dọn sạch, để những người da xanh có thể tìm một lối đi dễ dàng tới vùng đất của người da vàng và việc săn bắn loài khỉ đột thiêng liêng sẽ là thú tiêu khiển cho các nhà quý tộc của chúng ta cho tới khi không còn một con duy nhất nào trong loài sinh vật kinh tởm này đi lang thang trên miền bắc băng giá.”
Chúng tôi chào từ giã những người bạn da vàng với niềm luyến tiếc khi xuất phát tới Ptarth. Chúng tôi ở lại đó làm khách của Thuvan Dihn một tháng; và tôi có thể thấy rằng Carthoris sẽ ở lại đó mãi mãi nếu nó không phải là một hoàng tử xứ Helium.
Chúng tôi bay lượn quanh những cánh rừng lớn xứ Kaol cho tới khi Kulan Tith có lệnh đưa chúng tôi tới tòa tháp sân bay duy nhất của ông, hành khách trên những con tàu đổ bộ suốt cả một ngày và phân nửa đêm. Chúng tôi viếng thăm thành Kaol, thắt chặt những quan hệ mới đã được hình thành giữa Kaol và Helium. Rồi một ngày sẽ được nhớ tới thật lâu nọ, chúng tôi nhìn thấy hai ngọn tháp cao, mảnh khảnh của cặp thành phố sinh đôi xứ Helium.
Dân chúng đã chuẩn bị đón tiếp chúng tôi từ lâu. Bầu trời rực rỡ với những chiếc máy bay được trang trí tươi vui. Mọi mái nhà trong cả hai thành phố đều trải đầy những tấm lụa và thảm thêu đắt giá.
Vàng và châu báu được rải lên mái nhà, đường phố và quảng trường, khiến cả hai thành phố dường như bốc cháy trong những ngọn lửa trái tim của những tảng đá kỳ diệu và những thứ kim loại sáng loáng phản chiếu ánh mặt trời sáng rực, biến nó thành vô số sắc màu rạng rỡ.
Cuối cùng, sau mười hai năm, hoàng tộc xứ Helium đã đoàn tụ trong thành phố hùng cường của họ, vây quanh bởi hàng triệu dân chúng vui sướng như điên trước những cánh cổng hoàng cung. Phụ nữ, trẻ em và những chiến binh mạnh mẽ khóc òa với niềm biết ơn vì số phận đã giữ lại Tardors Mors kính yêu của họ và nàng công chúa tuyệt trần mà cả nước từng tôn làm thần tượng. Bất kỳ người nào trong chuyến viễn chinh nguy nan vô tả và đầy những vinh quang đó cũng nhận được sự hoan hô nhiệt liệt.
Đêm đó, một viên truyền lệnh sứ tới tìm tôi để triệu tập chúng tôi tới đền Thưởng Phạt - “nơi đêm nay sẽ phán xét một người,” thư triệu tập kết luận. Lúc đó, tôi đang ngồi với Dejah Thoris và Carthoris trên mái hoàng cung, nơi mà cách đây lâu lắm rồi chúng tôi đã dựng nên một khu vườn xinh xắn để ba người chúng tôi có thể tìm được chút riêng tư và hạnh phúc êm đềm, lánh xa khỏi sự phù hoa và nghi thức của hoàng cung.
Tôi cố nặn óc để nghĩ xem đó có thể là vụ án quan trọng nào mà cả gia đình hoàng tộc cũng phải rời khỏi cung điện của họ để tới dự đúng vào cái đêm họ quay trở lại Helium sau nhiều năm vắng bóng. Nhưng khi nhà vua đã triệu tập, không ai có thể trì hoãn.
Khi máy bay chạm vào bãi đáp trên nóc đền, chúng tôi trông thấy vô số tàu bay khác đang lũ lượt tới và đi. Trên những đường phố bên dưới, một đám đông đang tràn về những cánh cổng của ngôi đền.
Tôi dần dần hồi nhớ lại sự bất hạnh từng treo lơ lửng trên đầu tôi khi tôi bị Zat Arras xét xử tại ngôi đền này vì tội đã quay về từ thung lũng Dor và biển mất tích Korus.
Lẽ nào cái ý thức nghiêm khắc về công lý vốn chiếm lĩnh tâm hồn những con người ở Hỏa tinh có thể khiến cho họ quên đi điều tốt lành lớn lao đã nảy sinh từ sự dị giáo của tôi? Lẽ nào họ có thể làm ngơ một sự thật rằng tôi, và chỉ mình tôi, chính là kẻ đã giải cứu Carthoris, Dejah Thoris, Mors Kajak và Tardos Mors?
Tôi không tài nào tin được điều đó, thế nhưng việc tôi bị triệu tập tới đền Thưởng Phạt ngay sau khi Tardos Mors trở lại ngôi vua của ông là vì mục đích gì?
Sự ngạc nhiên đầu tiên khi tôi bước vào đền và tiến tới gần ngai Công Lý là khi nhận ra những người ngồi đó với tư cách phán quan. Có Kulan Tith, vua xứ Kaol, người mà chúng tôi mới vừa rời khỏi hoàng cung của ông ta được vài hôm; có Thuvan Dihn, vua xứ Ptarth - ông ta làm thế nào mà tới được Helium cùng một lượt với chúng tôi nhỉ?
Có Tars Tarkas, vua xứ Thark, và Xodar, vua của người da đen; có Talu, Vua của các vị vua miền Bắc, người tôi có thể thề rằng vẫn còn ở trong cái thành phố lồng kính với băng tuyết bao bọc xung quanh ở mé ngoài lũy băng phía bắc; và trong số họ là Tardos Mors và Mors Kajak, cùng với các vua và phó vương đẳng cấp thấp hơn để đủ con số ba mươi mốt vị phán quan sẽ xét xử người anh em của họ.
Quả đúng là một hội đồng phán quan toàn là vua chúa, và một hội đồng như thế, tôi bảo đảm, chưa bao giờ cùng ngồi lại với nhau trong suốt lịch sử lâu đời của Hỏa tinh trước đó.
Khi tôi bước vào, sự im lặng trùm lên đám đông dân chúng đang chen chúc trong khán phòng. Rồi Tardos Mors đứng lên.
“John Carter,” ông nói với giọng trầm ấm, hùng hồn, “hãy lên đứng trên Bệ Sự Thật, vì anh sẽ được xét xử bởi một hội đồng phán quan công minh và vô tư gồm toàn những bằng hữu của anh.”
Với ánh mắt điềm tĩnh và mái đầu ngẩng cao, tôi làm theo yêu cầu của ông. Khi tôi liếc qua vòng tròn những gương mặt mà chỉ một khoảnh khắc trước đó tôi có thể thề rằng bao gồm những người bạn tốt nhất của tôi ở Barsoom, tôi không bắt gặp một tia nhìn thân thiện nào - chỉ là những phán quan nghiêm khắc, kiên quyết, có mặt ở đó để thực hiện bổn phận của họ.
Một viên thư lại đứng lên và đọc từ một quyển sách to cả một danh sách dài những hành vi cao quý mà tôi nghĩ là đã mang tới vinh dự cho tôi trong suốt hai mươi hai năm dài, từ khi tôi bước chân lần đầu trên đáy biển cạn màu hoàng thổ bên cạnh cái lồng ấp trứng của người Thark. Với những quyển khác, anh ta đọc tất cả những gì tôi đã làm trong miền đất nằm giữa dãy núi Otz, nơi những Thánh sĩ và chủng tộc Con Cả từng cai trị.
Cung cách ở Barsoom là trích dẫn hết các đức tính và tội lỗi của một người khi xét xử anh ta. Vì thế tôi không ngạc nhiên gì khi mọi hành vi tốt đẹp của mình, thậm chí cho tới giờ phút hiện tại này, phải được đọc cho các phán quan nghe, cho dù họ đã biết rành rẽ tất cả mọi điều. Khi việc đọc kết thúc, Tardos Mors đứng lên.
“Hỡi những phán quan công minh nhất,” ông thốt lên, “các vị đã nghe đọc mọi điều được biết về John Carter, hoàng tử xứ Helium - điều tốt cùng điều xấu. Phán xét của các vị là gì?”
Thế rồi Tars Tarkas chậm rãi đứng lên, vươn hết chiều cao sừng sững của mình cho tới khi ông trở thành một pho tượng đồng xanh lù lù bên trên tất cả chúng tôi. Ông ném tới tôi một cái nhìn hiểm ác - chính ông, Tars Tarkas, kẻ từng chiến đấu cùng tôi vô số trận; kẻ tôi mến yêu như một người anh em.
Tôi phát khóc lên được nếu như tôi không nổi điên lên vì cơn thịnh nộ đến độ suýt chút tôi đã tuốt kiếm ra và trừng trị tất cả những người đó ngay tại chỗ.
“Các vị phán quan,” ông nói, “chỉ có một phán quyết duy nhất. John Carter không thể là hoàng tử xứ Helium được nữa,” ông dừng lại, “mà thay vì vậy, hãy tôn anh ta làm Vua của các vị vua, Thống soái của Barsoom!”
Khi ba mươi mốt vị phán quan đứng bật dậy với những thanh kiếm giơ cao để tán thành phán quyết, một cơn bão bùng nổ qua suốt chiều dài, chiều rộng và chiều cao của tòa nhà rộng lớn đó cho tới khi tôi nghĩ mái đền có thể sập xuống vì trận sấm của tiếng hò hét điên cuồng.
Rốt cuộc, giờ đây tôi đã nhìn ra sự khôi hài ác nghiệt của cái phương pháp mà họ áp dụng để trao cho tôi niềm vinh hạnh lớn lao này. Nhưng có thể chứng minh là không có bất kỳ sự chơi khăm nào về tính hiện thực của cái danh hiệu mà họ phong tặng cho tôi dựa vào sự chân thành của những lời chúc mừng mà các phán quan và những nhà quý tộc đã trút lên tôi.
Lúc này năm mươi trong số những nhà quý tộc uy quyền nhất trong các hoàng cung lớn nhất của Hỏa tinh diễu hành dọc theo lối đi Hy Vọng, công kênh trên vai một chiếc kiệu tuyệt đẹp. Và khi mọi người nhìn thấy kẻ ngồi bên trong, những tiếng hò reo trước đó dành cho tôi bị chìm nghỉm bên dưới tiếng tung hô vang dậy như sấm rền xuyên qua tòa dinh thự, vì người mà những nhà quý tộc đang công kênh là Dejah Thoris, nàng công chúa dấu yêu của xứ Helium.
Họ đưa nàng đi thẳng tới ngai Công Lý, và tại đó Tardos Mors bế nàng ra khỏi kiệu, dẫn nàng tới bên cạnh tôi.
“Hãy để cho người phụ nữ xinh đẹp nhất trần gian chia sẻ niềm vinh hạnh của chồng nàng,” ông nói.
Trước mặt tất cả mọi người, tôi kéo vợ tôi sát vào người và hôn lên môi nàng.
HẾT