← Quay lại trang sách

Chương II - 1 - CÔ BÉ MIYAX

GIÓ RÍT, BẦU TRỜI TRỐNG TRẢI, MẶT ĐẤT HOANG LIÊU. Miyax đã có lần phải nếm cảnh cô đơn vì bị bỏ rơi như thế này.

Cô không còn nhớ mấy về mẹ mình vì Miyax chưa đầy bốn tuổi thì mẹ qua đời nhưng cô lại nhớ như in ngày hôm đó. Gió gào thét man dại, cuộn lên những đợt sóng với vô số băng vụn ném vào bờ. Cha Kapugen nắm tay cô dắt đi. Khi cô vấp té, ông nhấc bổng cô đặt lên vai mình và từ trên cao, Miyax nhìn thấy hàng ngàn cánh chim đang chao liệng phía biển khơi. Tiếng chim ó biển thật thống thiết còn bọn tu hú nghe như khóc như than. Những con hải âu cổ rụt vốn vui nhộn nay cũng ủ rũ sà xuống thấp, cha Kapugen nói với cô rằng chúng dường như đang chia sẻ với ông nỗi đau mất mát.

Cô hiểu điều đó nhưng cô không buồn. Cô rất vui mỗi khi được đi đâu đó với riêng cha Kapugen. Thi thoảng lắm ông mới có dịp trèo lên các vách đá kiếm trứng chim cho cô ăn, thi thoảng ông ôm cô vào lòng rồi tựa mình vào một phiến đá. Cô thiếp đi chốc lát nhờ hơi ấm từ chiếc áo parka da hải cẩu to sụ của ông. Rồi lại đi. Cô không biết là bao xa.

Sau này, bà cô Martha của cha Kapugen nói với cô rằng ngày mẹ cô qua đời, cha cô đã mất trí. Ông giữ rịt Miyax bên mình và rời khỏi căn nhà xinh xắn ở Mekoryuk. Ông bỏ lại cả công việc quan trọng của mình là làm chủ một đàn tuần lộc, bỏ lại tất cả tài sản ông có.

- Bố mày đưa mày tới trại hải cẩu đấy. - Bà Martha nói với cô. - Bố mày có bao giờ làm được việc gì hay ho từ sau ngày hôm đó đâu.

Đối với Miyax, những năm tháng sống ở trại hải cẩu thật tuyệt. Trong tâm trí cô, quang cảnh và các sự kiện ở đó là những gam màu rực rỡ. Không xa bờ biển là căn nhà nhỏ của cha Kapugen được dựng lên từ các loại gỗ trôi dạt. Bên ngoài, nó được sơn màu xám pha hồng. Bên trong sơn màu vàng chanh. Trên vách treo rất nhiều ngà hải mã, các loại trống, những ngọn lao và những con dao chuyên dụng của đàn ông. Chiếc thuyền kayak dựng cạnh cửa rực rỡ như thể người ta đem vầng trăng dát mỏng lên nó còn hai bên mạn thuyền lại ánh lên màu đen nhánh. Gam màu vàng thẫm và nâu nhạt là những người đàn ông đứng tuổi ngồi quanh lò lửa trong trại của cha Kapugen trò chuyện với ông suốt ngày đêm.

Đại dương toàn màu xanh lục và trắng, lại được viền quanh bằng lông thú vì cô nhìn thấy đại dương thấp thoáng qua mũ trùm của cha Kapugen khi ông ủ cô trong áo parka để cõng ra bờ biển. Qua mép mũ trùm, cô nhìn thấy những đôi mắt hiền lành của đám hải cẩu tụ tập trên mặt băng. Tấm lưng cha căng lên khi ông nâng tay lên siết cò súng. Sau đó mặt băng loang đỏ.

Nghi lễ Đại tiệc Bong Bóng mới thật nhiều màu sắc - đen có, lam có, đỏ tía có, đỏ màu lửa có; cánh tay cha Kapugen quàng quanh cổ cô rực màu hồng và đó là sắc màu cô nhớ nhất về buổi Đại tiệc. Một bà thầy cúng già vẫn được mọi người gọi là “bà còng” đang nhảy múa. Khuôn mặt bà được vẽ vằn vện bằng bồ hóng đen. Bà vừa cúi chào kết thúc điệu nhảy thì một con ma dữ tợn từ góc tối nhào ra, mặt đeo một chiếc mặt nạ to tướng, phát ra tiếng leng keng khiến Miyax chết khiếp. Một lần, thu hết can đảm, cô liếc nhanh ra sau mặt nạ và nhận ra người đang nhảy đó chẳng phải là ma quỷ gì cả mà chính là Naka, một cộng sự đắc lực của cha Kapugen. Cô khẽ gọi tên ông, ông cười, tháo mặt nạ và ngồi xuống cạnh cha cô. Họ tán chuyện, những người khác cũng góp lời. Sau hôm đó, cha Kapugen lấy những chiếc bong bóng của hải cẩu đem thổi căng lên rồi cùng mấy người đứng tuổi mang lên mặt băng. Ra đó, họ đem thả cả xuống biển trong khi Miyax chăm chú đứng xem và nghe họ hát. Khi quay về trại, bà còng nói với cô rằng những người đàn ông đem trả cho hải cẩu những chiếc bong bóng.

- Bong bóng chứa linh hồn của loài vật. - Bà giảng giải. - Lúc này linh hồn đó có thể nhập vào thân xác của những con hải cẩu mới chào đời và bảo vệ chúng an toàn cho tới khi chúng ta săn bắt chúng.

Đêm đó, bà còng mặc toàn đồ tím, lấy một mảnh da hải cẩu và mỡ cá voi buộc chặt vào thắt lưng Miyax.

- Đây là một cái I’noGo tied, - bà bảo, - một cái bùa xinh xắn dành cho con.

Ký ức dội về toàn một màu vàng chập chờn - đó là những người đàn ông đang say sưa vỗ trống xung quanh lò lửa của cha Kapugen. Cô nhìn thấy họ qua một màn tinh thể nước ly ty hình thành từ hơi thở của cô phà vào không khí lạnh giá ban đêm trong nhà.

Naka và cha Kapugen quỳ phủ phục, người lắc lư nhè nhẹ nhưng rất nhanh nhẹn. Khi Naka đưa đầu chạm nhẹ vào cằm cha Kapugen, cha cô bèn quỳ thẳng lên. Ông hất đầu ra sau rồi lắc người bằng hai gót chân. Naka ngồi dậy và họ cùng nhau hát những bài ca của loài sói. Khi điệu nhảy kết thúc, những người đàn ông hò reo ầm ầm và đập trống thùng thùng.

- Các người là những con sói, các người đúng là những con sói. - Họ hú hét.

Sau đó, cha Kapugen kể cho cô nghe về những con sói ông đã từng biết trong đại lục từ khi ông còn học trung học ở Nome. Ông và người bạn vui tính của mình khi đi săn thú hoang mấy tháng liền đã gọi đàn sói, dùng ngôn ngữ của chúng để hỏi xem nên đi săn ở đâu. Khi họ thành công, họ trở về Nome với những chiếc xe trượt chất đầy tuần lộc.

- Loài sói rất thân thiện. Chúng yêu thương nhau và nếu con học được cách trò chuyện với chúng, chúng cũng sẽ yêu thương con.

Ông nói với cô rằng tất cả các loài chim và thú đều có ngôn ngữ và nếu bạn lắng nghe, quan sát chúng, bạn có thể biết được về kẻ thù của chúng, về thức ăn của chúng để đâu hay khi nào những trận bão lớn sẽ kéo về.

Mảng ký ức màu bạc là hôm đầu tiên mặt trời nhô lên khỏi đường chân trời trong cả vụ đông. Hôm đó, cô ở trên bãi biển, gần bên cha Kapugen, giúp ông kéo một tấm lưới khổng lồ. Trong lưới có một con cá voi trắng đẹp tuyệt. Ngoài hình ảnh về con cá voi, cô còn như nghe thấy tiếng những người đàn ông reo mừng trước món quà của biển cả.

Con cá voi như một quả núi cao che hết tầm nhìn của cô khiến cô không sao nhìn được những dãy núi phía xa, chỉ thấy những đám mây xám xịt. Bàn tay tê cóng, to bản và rắn rỏi của cha Kapugen dường như cũng quá nhỏ bé khi chạm vào thân mình khổng lồ của con cá voi.

Cách đó không xa, bà còng đang nhảy múa và làm động tác thu lượm những gì đó vô hình trong không khí. Miyax sợ chết khiếp nhưng cha Kapugen giải thích cho cô hiểu rằng bà đang bắt linh hồn con cá voi bỏ vào cái bùa I’noGo tied của mình.

- Bà sẽ trả nó về với biển cả và những con cá voi. - Ông nói.

Những lần được cùng cha ra lãnh nguyên thật vui nhộn. Ông chào hỏi cả bầu trời xanh và hát vang những lời tán dương các bụi cây ngọn cỏ. Trong những chuyến đi này, họ thường được ăn những quả cây chín ngon như thịt cá hồi rồi nằm lăn dưới nắng ngắm nhìn chim chóc. Thỉnh thoảng, cha Kapugen chúm miệng bắt chước những điệu hót của chim tu hú khiến các chú chim sà xuống biển vì ngỡ rằng có một thành viên trong đàn của mình bị lạc trong các bụi cỏ. Cha Kapugen cười phá lên khi thấy đàn chim nhận ra ông và hốt hoảng bay vọt lên.

Trong ký ức của cô, những lần đi câu cá với cha là gam màu da đồng xỉn, hai cha con thường lội ra cửa sông nơi người ta xây các kè đá rồi dồn cá vào các tấm lưới đã căng sẵn. Cha Kapugen dùng lao đâm hoặc dùng tay mò cá và ném cho những người chờ sẵn trên các thuyền gỗ. Thỉnh thoảng ông thả những con cá tuyết và cá bơn lưỡi ngựa to nhất vào thuyền kayak của mình; mỗi lần bắt được một con như thế ông lại reo ầm lên khoái trá và huơ huơ nó trên đầu. Con cá bắt nắng ánh lên lấp lánh.

Đối với Miyax, mùa hè ở trại hải cẩu không đẹp bằng dịp mùa thu và mùa đông vì suốt dịp hè, rất nhiều gia đình từ Mekoryuk kéo đến Cảng Nash để săn bắt và câu cá nên cha Kapugen bận rộn suốt. Khi thì ông phải giúp người ta đặt lưới, khi thì ông dùng thuyền kayak bơi ra ngoài khơi dò tìm những đàn hải cẩu.

Những lúc như vậy, Miyax phải ở lại bãi biển với những đứa trẻ khác. Cô đá cầu hoặc chơi bóng cỏ với chúng; cô sưng vù cả hai tay vì gỡ nhím biển bám trên các tảng đá để moi lớp thịt ngọt lịm của chúng ăn. Cô cũng thường đi đào ngao sò nằm chìm dưới cát để phần cha Kapugen về đập ăn và chép miệng một cách ngon lành.

Những người Eskimo từ Mekoryuk tới thường nói tiếng Anh. Họ gọi cha cô là Charlie Edwwards và gọi Miyax là Julie vì người nào cũng phải có hai tên, một bằng tiếng Anh và một bằng tiếng Eskimo. Mẹ cô cũng đã từng gọi cô là Julie nhưng cô không hề để ý đến cái tên trong mùa hè của mình cho đến một hôm cha Kapugen gọi cô bằng cái tên đó. Cô dậm chân vùng vằng và bảo ông rằng tên cô là Miyax.

- Con là một người Eskimo chứ không phải người da trắng! - Cô phụng phịu và ông tung bổng cô lên không rồi ôm ghì lấy cô.

- Phải, con là người Eskimo, - ông nói, - và đừng bao giờ quên điều đó. Chúng ta sống được trong những hoàn cảnh không ai có thể sống vì chúng ta thực sự hiểu Trái đất này.