- 2 -
Nhưng mùa đông vẫn luôn quay lại. Những trận bão tuyết ào đến, nhiệt độ tụt xuống -30°, -40°; những người còn ở lại trại săn bắn đều là những người nói tiếng Eskimo và làm những công việc của riêng người Eskimo. Họ cạo sạch các tấm da thú, khâu vá lại ủng, đóng thuyền bè và chạm khắc ngà hải mã. Đêm xuống, cha cô và những người khác cùng ca hát, nhảy múa; tất cả những bài hát, điệu nhảy của họ đều nói về biển cả, về đất đai và những sinh vật cư trú ở đó.
Có một năm, hình như vào tháng chín vì khi đó các dãy lều bạt đều đã được hạ xuống và khu trại đã khá vắng vẻ, cha Kapugen về nhà với một tấm da hải cẩu. Đó là da một con hải cẩu đã được người nuôi nhưng có rất ít khoang đốm nên tương đối quý hiếm.
- Bố phải may cho con cái áo khoác mới. - Ông nói. - Con càng ngày càng lớn thêm. Vì mẹ không có ở đây để hỗ trợ bố con mình nên bố sẽ làm thay phần việc của mẹ con. Bây giờ hãy xem bố và học theo nhé.
Tấm da có màu vàng lấp lánh như kim loại và đẹp đến mức cả những chiếc áo parka bằng nhung của bọn nhóc ở Mekoryuk cũng không bì được. Miyax âu yếm vuốt ve nó trong khi cha ướm chiếc áo khoác cũ của cô lên đó và cắt thành một chiếc mới rộng rãi hơn. Ông vừa làm vừa khe khẽ hát còn cô nghĩ thêm lời hát về con hải cẩu giờ đang trở thành cái áo khoác. Đột nhiên, có tiếng ầm ì của động cơ xuồng máy từ xa vọng lại kéo hai cha con về với thực tại. Tiếng động cơ mỗi lúc một to rồi tắt lịm trên bãi biển. Có tiếng chân bước lạo xạo, không khí lạnh ùa vào cửa và bà Martha, cô của cha Kapugen, hiện ra. Bà ấy gầy gò, mặt lấm lem tàn nhang. Vừa nhìn thấy bà ấy, Miyax đã thấy không ưa nhưng cô rất muốn nói chuyện với bà ấy vì bà Martha chỉ nói với mình cha Kapugen.
Bà ấy nói gì đó rất nhanh bằng tiếng Anh mà Miyax chỉ hiểu lõm bõm và tỏ ra cáu kỉnh, nóng nảy. Bà Martha dứ dứ ngón tay vào mặt cha Kapugen và thỉnh thoảng liếc nhìn Miyax. Hai người to tiếng tranh cãi gì đó rồi bà Martha lôi từ trong ví ra một tập giấy và chìa cho cha Kapugen xem.
- Không! - Ông hét lên.
- Chúng ta cùng chờ xem! - Bà Martha rít lên, quay ngoắt lại và bỏ đi tới chỗ đậu xuồng có một người da trắng đang đợi.
Cha Kapugen theo sau bà ấy và đứng lại bên cạnh xuồng nói chuyện với người đàn ông một lúc khá lâu.
Sáng hôm sau, Miyax choàng tỉnh khi cha Kapugen nâng bổng cô lên và ông ghì cô vào lòng. Ông dịu dàng gạt mấy sợi tóc vương xuống mắt cô và thủ thỉ với cô rằng cô sẽ đến sống với bà cô Martha.
- Có một điều luật quy định rằng con phải được đi học… mà bố cũng thấy nên như vậy. Con đã chín tuổi rồi. Còn bố lại phải ra trận. Nhà nước đang có chiến tranh.
Miyax ôm choàng lấy cổ ông nhưng không phản đối. Với cô, bất cứ điều gì ông đã quyết định đều hoàn toàn đúng đắn. Tuy nhiên, cô vẫn thút thít khóc.
- Nghe kỹ này con. - Ông nói. - Nếu có chuyện gì xảy đến với bố hoặc nếu con sống không được thoải mái thì khi mười ba tuổi, con có thể đi khỏi nhà bà Martha và lấy Daniel, con trai Naka. Chú Naka sắp dọn đến Barrow trên bờ Bắc Băng Dương. Bố sẽ thu xếp với chú ấy. Chú ấy cũng như bố, một người Eskimo truyền thống biết yêu các tập tục của dân tộc mình. Chú ấy sẽ đồng ý thôi.
Miyax chăm chú lắng nghe, sau đó ông đặt cô xuống và nhanh chóng thu xếp đồ đạc cho vào cái túi của cô rồi choàng lên người cô một tấm vải dầu để phòng khí lạnh của biển và dắt cô ra xuồng. Cô ngồi xuống cạnh bà Martha, mắt không rời cha Kapugen. Động cơ rung lên, cha Kapugen nhìn cô cho tới khi xuồng rời bến, sau đó ông quay đi và vội vã rảo bước. Xuồng làm cồn lên một đợt sóng mạnh rồi lao vun vút theo luồng nước đang ngầu bọt, bóng cha cô nhòa dần.
Vậy là Miyax trở thành Julie. Cô được ở riêng một cái buồng gần cửa ngôi nhà nhỏ của bà Martha và đi học ngay thời kỳ trời đang tối kéo dài. Cô rất thích học những từ tiếng Anh in trong sách và cứ thế một tháng êm ả trôi qua.
Một buổi sáng sớm khi ngoài trời còn lạnh cóng và các vũng nước quanh nhà đều đông cứng, có một người đàn ông đứng tuổi từ trại hải cẩu tìm đến. Ông ấy nói nhỏ gì đó với bà Martha rồi lại kéo mũ trùm kín mặt và đi ngay. Bà Martha đến bên giường Miyax.
- Bố mày ấy, - bà ấy nói, - đã đi săn hải cẩu bằng chiếc thuyền kayak lố bịch của nó rồi. Đến hôm nay vừa tròn một tháng. Nó sẽ không về nữa đâu. Chỉ có những tấm ván thuyền của nó dạt vào bờ kia kìa.
Bà Martha khua guốc lộp cộp tới bên bếp lửa và quay lưng lại. Julie chạy nhào khỏi nhà dù trời vẫn còn tối om. Cô lao vun vút qua các cửa hàng, qua ngôi nhà chứa da tuần lộc, qua nhà thờ. Cô chạy một mạch tới tận bờ biển. Ở đó, cô thu lu trong các thùng dầu rỗng và nhìn ra khơi xa.
Gió gào thét trên biển, làm vỡ òa những con sóng và bắn tung tóe những mảnh băng vụn lấp lánh như kim cương báo hiệu bão tố sắp nổ ra.
- Kapugen, bố ơi! - Cô gọi.
Không có ai trả lời. Cha Kapugen đã đi rồi. Mặt đất trống trải và hoang vu quá.
Dần dần Julie cũng nguôi ngoai nỗi nhớ cha và hòa đồng với những người ở Mekoryuk. Bao nhiêu năm cùng cha Kapugen sống tách biệt ở trại hải cẩu thật êm đẹp nhưng giờ đây cô nhận thấy mình đã có một cuộc sống khác thường. Những cô gái bằng tuổi cô đều nói và viết được tiếng Anh, họ thuộc lòng tên tuổi các vị tổng thống, các nhà du hành và các siêu sao màn bạc và ca nhạc, những người sống phía dưới phần đỉnh của thế giới. Người Âu từng cho rằng Trái đất này bằng phẳng nhưng người Eskimo biết rõ nó hình cầu. Chỉ cần nhìn vào mối tương quan giữa Trái đất, Mặt trời và Mặt trăng là hiểu điều đó ngay.
Một hôm, đang đi lang thang trong thị trấn phủ trắng tuyết để về nhà, cô tình cờ gặp mấy cô bạn cùng lớp. Judith và Rose. Giày của họ rít lên trong giá lạnh còn tiếng của họ nghe thật xa xăm vì nhiệt độ đã tụt xuống rất thấp dưới mức 0. Judith mời cô về nhà mình chơi và cả ba cùng nép sát vào nhau đi tới bên lò sưởi đốt dầu. Judith và Rose chuyện phiếm với nhau còn Julie đưa mắt nhìn quanh nhà và lần đầu tiên cô nhìn thấy một cái bếp lò đun ga, một cái đi văng, mấy bức tranh lồng khung treo trên tường, những tấm rèm bằng vải bông có in hoa. Sau đó, Judith dẫn cô vào phòng riêng, cô chú ý ngay tới cái giường liền tủ, cái bàn và một cây đèn đọc sách. Trên mặt bàn có một sợi dây chuyền mảnh đeo hình một con chó, một cái mũ và một cái thuyền. Cô rất vui khi nhìn thấy thứ này - một thứ thật thân quen.
- Một cái I’noGo tied thật đẹp! - Julie thốt lên.
- Một cái gì cơ? - Judith hỏi. Julie nhắc lại bằng tiếng Eskimo cái từ dùng để gọi vật cất giữ linh hồn.
Judith cười khẩy và nói:
- Đó chỉ là một sợi dây chuyền thôi.
Rose cười khinh khích rồi cả hai đứa cùng phá lên cười vẻ giễu cợt. Julie cảm thấy máu dồn hết lên mặt khi cô nhận thấy - lần đầu tiên nhưng chưa phải là lần cuối - thái độ kỳ lạ của những kẻ vốn là người Eskimo nhưng đã bị Mỹ hóa. Cô còn nhiều điều cần phải học ngoài việc đọc qua sách báo. Đêm đó, cô ném cái I’noGo tied của mình đi.
Đối với cô, môn tiếng Anh và Toán khá dễ và đến cuối năm cô đã đọc thông viết thạo. Hè năm đó, cô xin vào trụ sở hội truyền giáo kế bên nhà thờ làm công việc quét dọn bàn và đón tiếp các vị khách từ các tiểu bang phía dưới đến đây để tiếp xúc với những người Eskimo đích thực. Khi không còn việc gì cần làm, cô tranh thủ nghiền ngẫm cuốn Từ điển Bách khoa.
Năm sau, Julie làm việc ở bệnh viện vào những dịp cuối tuần. Sau giờ học chính, cô đến phòng dạy nữ công gia chánh tập cắt váy áo và dùng máy khâu điện để may đồ. Cô cắt ngắn bớt tóc rồi dùng các ống cuộn uốn quăn các lọn tóc lại.
Một ngày chủ nhật nọ, cô đang rảo bước về nhà sau khi kết thúc công việc ở bệnh viện thì có một chiếc xe jeep thắng sát cạnh cô và một người da trắng cất tiếng gọi cô. Ông ta tì tay trên vô lăng, miệng nở một nụ cười thân thiện.
- Chú là Pollock. Ở đây, trên hòn đảo này, chú có một cửa hàng thuộc tập đoàn Tuần Lộc, - ông ấy lên tiếng. - Chú có một đứa con gái trạc tuổi cháu. Việc cuối cùng nó nhờ chú trước khi chú rời San Francisco là tìm cho nó một thiếu nữ sống tại thị trấn Mekoryuk trên đảo Nunivak và hỏi xem cô ấy có muốn trao đổi thư từ không. Nghĩa là làm bạn qua thư với nó ấy mà.
Julie không cần việc giải thích chuyện đó. Ở trụ sở hội truyền giáo có rất nhiều thư của những đứa trẻ muốn được trao đổi thư từ từ các bang khác gửi đến. Trước kia, cô chưa hề tham gia trò chơi này nhưng giờ thì cô rất sẵn lòng.
- Cháu rất thích việc đó, - cô trả lời.
- Con gái chú tên là Amy, - ông ấy nói và móc ví lấy ra một lá thư. - Nó nói với chú đưa bức thư này cho cô gái xinh xắn nhất mà chú gặp, người đó là cháu đấy vì cháu có cặp mắt sáng long lanh và đôi má hồng hào.
Cô mỉm cười và thong thả nhận lấy lá thư rồi nhanh chóng đi tới thư viện của hội truyền giáo mở đọc. Cô bị cuốn hút vào những dòng chữ đọc được:
Xin chào người bạn mới của tôi,
Tôi là Amy Pollock, mắt xanh lơ, tóc màu hạt dẻ. Tháng tới tôi sẽ tròn mười hai tuổi và tôi ao ước sẽ cao được một mét rưỡi. Tôi còn thiếu một chút nữa thôi. Tôi mặc váy áo cỡ số 9 và đi giày cỡ số 6, mẹ tôi cứ bảo chân thế là thô kệch. Nói một cách thành thực, tôi rất khoái đôi chân to bản của mình. Nhờ chúng, tôi chạy nhảy dễ dàng trên những ngọn đồi dốc tuột của San Francisco và đạp nước như một con nhái khi bơi. Tôi đang học lớp 8 và phải học tiếng Pháp. Tôi căm ghét môn này nhưng lại rất thích được học tiếng Eskimo. Bố tôi thường tới Alaska nên cũng dạy tôi biết mấy từ. Những từ đó thật hay, nghe kêu như chuông nhưng tôi không tài nào đánh vần được. Bạn đánh vần được không? Từ “ban ngày” đánh vần như thế nào? “Quaq” có phải không?
Tôi học khiêu vũ nữa, môn này tôi rất mê, tôi cũng rất thích chơi bóng chuyền với bọn nhóc sống cùng trên quả đồi nhà tôi. Khi nào lớn lên tôi sẽ làm một vũ sư nhưng đó là một công việc khó khăn. Một vũ sư ở Nhà hát opera San Francisco nói vậy. Vì thế có lẽ tôi sẽ làm giáo viên phổ thông như cô của tôi và sẽ có cả một mùa hè rảnh rỗi.
Tháng trước, ở trường, chúng tôi được nhìn thấy hòn đảo của bạn qua màn hình vô tuyến. Nó đẹp quá, có những cánh chim chao liệng trên cao, những đóa hoa nở rộ trên các triền đồi, đến mức tôi lập tức muốn viết thư cho một ai sống ở đó, một cô gái như tôi đây.
Đây là bức ảnh chụp ngôi nhà của tôi. Tôi đang đứng một chân trên tường đấy. Nhớ viết thư ngay cho tôi nhé.
Bạn mới của bạn
Amy
T.B: Khi nào bạn mới tới sống với gia đình tôi tại San Francisco này?
Julie gấp lá thư lại và lẩm bẩm với mình “Ban ngày” đánh vần là A.M.Y đấy thôi.