Chương 1 (2) Rút vũ khí của mi ra đi-Hai thằng nhà Montague đến kia kìa
Tôi nhớ bà bác Rose đã làm mọi việc để ra sức ngăn cản Janice và tôi đến Italy
-Bà bảo các cháu bao nhiêu lần rồi, - bà thường nói, - đấy không phải là nơi dành cho các cô gái ngoan ngoãn.
Sau này, nhận thấy phải thay đổi chiến lược, mỗi khi có người khơi lại chuyện đó, bà đều lắc đầu và ôm chặt lấy ngực, dường như cứ nghĩ đến Italy là bà mấp mé đến cửa Thần Chết.
-Hãy tin lời bà, - bà thở khò khè, - Italy chỉ là nỗi thất vọng lớn, và đàn ông Italy là những con lợn!
Tôi không bằng lòng với định kiến kôngo sao giải thích nổi của bà vì chống lại đất nước tôi đã ra đời, nhưng sau trải nghiệm ở Rome, tôi ít nhiều đồng ý với bà: Italy quả là nỗi thất vọng, và dân Italy – ít nhất là loại mặc quân phục – khiến những con lợn trông còn tử tế hơn.
Bất cứ khi nào chúng tôi hỏi về cha mẹ cũng vậy, bà Rose đều cắt lời chúng tôi bằng cách kể lể theo kiểu:
-Bà bảo các cháu bao nhiêu lần rồi, - bà cằn nhằn, bực bội vì bị xen ngang giữa lúc đọc báo, bà đeo găng bằng vải bông rất khít để giữ cho bà tay không dây mực in,- cha mẹ các cháu mất trong một vụ tai nạn ô tô ở Tuscany khi các cháu mới lên ba.
May mắn cho Janice và tôi, - hoặc câu chuyện cứ thế tiếp tục, - bà bác Rose và ông bác Jim tội nghiệp – cầu Chúa phù hộ cho linh hồn ông bác quá cố - đã kịp nhận nuôi chúng tôi ngay sau tấn thảm kịch, đó là vận may của chúng tôi vì họ chưa bao giờ có con. Chị em tôi phải biết ơn vì đã không bị tống vào một trại mồ côi nào đó, phải ăn mì sợi hàng ngày. Nhìn chúng tôi xem! Chúng tôi đang sống trong một cơ ngơi ở Virginia, ít nhất chúng tôi cũng nên đền đáp bằng cách ngừng hỏi những câu làm bà Rose không biết trả lời ra sao. Bà cần ai đó mang thêm cốc whisky pha bạc hà nữa, các khớp xương của bà đang nhức nhối dữ dội vì bị chúng tôi quấy rầy triền miên.
Ngồi trong chuyến bay đến châu Âu, nhìn ra màn đêm Đại Tây Dương và hồi tưởng lại những cuộc xung đột đã qua, tôi sửng sốt thấy mình bỗng nhớ lại mọi thứ về bà Rose, không chỉ là những mảnh ký ức tốt lành.Hạnh phúc biết bao nếu tôi được ở bên bà thêm một giờ, dẫu bà nói huyên thuyên không ngừng nghỉ. Giờ đây khi bà đã đi xa, khó mà tin được rằng có lúc bà đã khiến tôi phải sập mạnh cửa và giậm chân thình thịch trên gác, khó mà công nhận rằng tôi đã phí phạm nhiều giờ khắc quý báu để im lặng bướng bỉnh, nhốt mình trong phòng riêng.
Tôi bực bội lau giọt nước mắt lăn xuống má bằng cái khăn giấy hàng không mỏng tang và tự nhủ rằng ân hận chỉ lãng phí thời gian. Vâng, lẽ ra tôi nên viết nhiều thư hơn cho bà, nên gọi điện thường xuyên hơn cho bà, nói rằng tôi yêu bà nhưng giờ đây tất cả đã quá muộn. Tôi không thể xóa bỏ lỗi lầm trong quá khứ.
Đỉnh cao đau buồn của tôi còn là một cảm giác khác gặm nhấm xương sống tôi. Một điềm báo chăng? Không hẳn vậy. Điềm báo hàm ý có chuyện gở; còn tôi vẫn chưa biết liệu sẽ xảy ra chuyện gì. Có thể toàn bộ chuyến đi này sẽ kết thúc trong thất vọng. Nhưng tôi cũng biết người duy nhất tôi có thể đổ lỗi một cách công bằng cho tình trạng dồn nén này, chính là tôi.
Tôi đã lớn lên trong niềm tin sẽ được thừa kế nửa tài sản của bà Rose, cho nên tôi chẳng phải cố gắng gì. Trong lúc các cô gái khác trạc tuổi tôi đã leo lên cây sào sự nghiệp trơn tuột với những móng tay cắt sửa cẩn thận, thì tôi chỉ làm những việc tôi thích – như dạy kịch ở các trại Shakespeare vì biết rằng sớm hay muộn, khoản thừa kế của bà Rose sẽ trang trải món nợ trong thẻ tín dụng của tôi. Kết quả là, giờ đây tôi ngã ngửa, bởi chỉ được thừa kế duy nhất một thứ của gia truyền khó nắm bắt ở mảnh đất xa xôi, do mẹ tôi để lại, người mẹ mà tôi hầu như không còn nhớ.
Từ khi bỏ trường đại học, tôi chẳng ở nơi nào cố định, có thể ngủ trên ván trượt với các bạn trong phong trào phản chiến và dọn đi bất cứ khi nào có một hợp đồng dạy kịch Shakespeare. Không hiểu sao, các vở kịch của ông cứ dính chặt trong đầu tôi, và dù cố gắng đến đâu, tôi vẫn chẳng bao giờ có thể chán vở Romeo và Juliet.
Thỉnh thoảng tôi dạy người lớn, nhưng tôi thích dạy bọn trẻ hơn, có lẽ vì biết chắc là chúng mến tôi. Trước hết là, chúng luôn nhắc đến người lớn như thể tôi khoong phải là một trong những người đó. Điều đó làm tôi vui vì các em tiếp nhận tôi như người bạn cùng trang lứa, dẫu tôi biết trên thực tế đó chưa chắc là một lời khen. Nó chỉ có nghĩa là chúng cảm thấy tôi sẽ không bao giờ thực sự trưởng thành, dù đã hai mươi lăm tuổi, tôi vẫn bị bắt gặp trong cảnh chật vật mới nói được rõ ý – hoặc thường xuyên hơn, là che giấu – sự cuồng nhiệt đầy chất thơ trong tâm hồn mình.
Nó chẳng giúp gì cho con đường sự nghiệp của tôi, vì tôi hoàn toàn không hình dung ra được tương lai của mình. Khi người ta hỏi tôi thích gì trong đời, tôi không biết nên trả lời ra sao, và khi cố hình dung bản thân mình trong dăm năm nữa, tôi chỉ nhìn thấy một hố sâu to tướng, đen ngòm. Trong những khoảnh khắc buồn bã, tôi giải thích rằng viễn cảnh tối tăm này là dấu hiệu cho thấy tôi sẽ chết trẻ, và kết luận rằng sở dĩ tôi không thể mường tượng ra tương lai của mình vì tôi sẽ không có tương lai. Mẹ tôi chết trẻ, bà ngoại tôi – em gái của bà bác Rose cũng thế. Không hiểu sao, số phận cứ đè nặng lên tình cảnh của chúng tôi, và bất cứ khi nào tôi dự tính làm một thứ dài hơi, như công việc hay dựng nhà thì đến phút cuối cùng, tôi luôn bỏ cuộc vì cứ bị ám ảnh bởi ý nghĩ là tôi sẽ không còn sống để thấy việc đó hoàn thành.
Mỗi lần tôi về nhà vào dịp Giáng sinh hay nghỉ hè, bà Rose lại ra sức năn nỉ tôi ở lại với bà thay vì tiếp tục sống không mục đích.
-Cháu biết không, Julie, - bà nói trong lúc nhặt lá khô ở một cây cảnh trồng trong nhà hoặc trang hoàng cây thông giáng sinh, mỗi lần treo một thiên thần, - cháu có thể trở về đây một thời gian và suy nghĩ xem cháu thích làm gì.
Nhưng dẫu bị cám dỗ, tôi biết mình không thể làm được thế. Janice vẫn đang ở một mình, kiếm tiền bằng nghề mối lái và cho thuê căn hộ hai phòng ngủ nhìn xuống một cái hồ giả, nếu tôi chuyển về nhà có nghĩa là công nhận nó thắng.
Tất nhiên bây giờ mọi sự đã thay đổi. Dọn về ở với bà bác Rose không còn là một lựa chọn. Cái vũ trụ mà tôi biết giờ thuộc về Janice, và tôi rời đi chỉ vẻn vẹn với những thứ đựng trong cái phong bì bằng giấy tơ chuối. Lúc ngồi trên máy bay, đọc lại thư của bà Rose và nhấp thứ rượu vang chua trong cốc nhựa, tôi chợt thấy giờ đây mình hoàn toàn lẻ loi, bà bác yêu quý của tôi đã ra đi, chỉ còn Umberto ở lại trên cõi đời này.
Lớn lên, tôi chưa bao giờ biết cách kết bạn. Trái lại, Janice đã rất chịu khó chen chúc trong các xe buýt hai tầng chật chội nhất và đắt đỏ nhất. Bất cứ khi nào nó đi chơi ban đêm với đám bạn ồn ào, vui vẻ, bà Rose lại bồn chồn, quanh quẩn bên tôi, giả vờ tìm kính lúp hoặc cái bút chì chuyên dụng giải ô chữ. Cuối cùng, bà ngồi xuống cạnh tôi trên sofa, ra vẻ chú ý đến cuốn sách tôi đang đọc. Nhưng tôi biết bà không quan tâm.
-Cháu biết không Julie, - bà nói và phủ bụi trên bộ pyjamas của tôi, - bà có thể tự tìm niềm vui cho mình. Nếu cháu muốn ra ngoài với bạn bè…Lời gợi ý này lởn vởn trong không khí một lát, cho đến lúc tôi nghĩ ra câu trả lời hợp lý. Thực ra, tôi ở nhà không phải vì thương bà Rose, mà vì tôi không thích đi chơi. Mỗi khi bị kéo tới quán rượu nào đó, tôi thường bị những kẻ đầu đất và những cái cổ gầy nhẳng vây quanh, hình như tất cả tưởng rằng chúng tôi đang sống trong thế giới cổ tích và trước khi trời sáng, tôi phải chọn một ngươi trong bọn họ.
Hồi ức về bà Rose đang ngồi cạnh tôi và nhẹ nhàng khuyên bảo tôi phải biết vui sống làm tim tôi đau nhói, Ủ rũ nhìn ra khoảng không bên ngoài qua ô của máy bay nhỏ xinh, bóng loáng, tôi tự hỏi liệu toàn bộ chuyến đi này có phải là sự trừng phạt cho cung cách tôi đã đối xử với bà. Có khi Chúa sẽ tạo ra một vụ rơi máy bay để dạy dỗ tôi. Hay có khi Người cho phép tôi đến Siena, rồi lúc đó tôi mới biết rằng có kẻ nào đó đã cuỗm sạch kho báu của gia đình.
Thực ra, càng nghĩ đến việc này, tôi càng nghi ngờ lý do thật sự bà bác Rose chưa bao giờ nhắc đến khi còn sống và tôi thấy mọi chuyện thật vô lý. Có lẽ lúc cuối đời, bà đã lẫn cẫn và kho báu giả định chẳng qua chỉ là chuyện mơ tưởng. Dù vậy, cưỡng lại một sự kỳ quặc, Siena vẫn vương vấn một giá trị thực sự sau khi chúng tôi rời bỏ từ hơn hai chục năm trước, và liệu những cơ hội có còn ở đó không? Nghĩ đến dân số đông đúc của châu Âu và sự khéo léo của nhân loại nói chung, tôi rất ngạc nhiên nếu còn lại một mẩu pho mát thừa trong cái trung tâm rối rắm tôi đã từng đến trước kia.
Ý nghĩ duy nhất làm tôi vui lên với chuyến bay dài không ngủ là mỗi cốc đồ uống nhỏ do các tiếp viên hàng không tươi tắn mang đến là mỗi lúc tôi càng thêm xa Janice hơn. Nó đang ở đấy, nhảy múa quanh nhà vì tất cả tài sản là của nó và cười nhạo sự kém may mắn của tôi. Nó không hề biết tôi đi Italy, không biết bà bác Rose tội nghiệp, già nua đã cử tôi săn đuổi con ngỗng vàng, chí ít tôi có thể thấy vui vì việc đó. Nếu chuyến đi của tôi thất bại và tôi không tìm tra được kho báu ý nghĩa đó, thì tôi cũng không phải nghe nó nói huyên thuyên.
Chúng tôi hạ cánh ở Frankfurt trong một thứ ánh sáng tựa như ánh nắng, tôi đi dép tông bước xuống máy bay, mắt sung vù, và một miếng táo bọc đường vẫn mắc trong cổ. Còn hơn hai giờ nữa chuyến bay đến Florence mới cất cánh, vừa tới cổng, tôi đã duỗi dài người trên mấy cái ghế và nhắm mắt lại, gối đầu lên cái túi xách trang trí dây rợ, quá mệt nên chẳng còn quan tâm đến ý kiến của người khác.
Trong lúc nửa tỉnh nửa mê, tôi cảm thấy một bàn tay vuốt cánh tay mình.
-Ahi, ahi, - một giọng nói pha trộn giữa cà phê và thuốc lá, - mi scusi!
Tôi mở mắt và thấy một phụ nữ ngồi cạnh tôi, đang phủi những vụn bánh khỏi tay áo tôi. Trong lúc tôi chợp mắt, cổng sân bay đã đầy người, họ liếc nhìn tôi như nhìn một kẻ vô gia cư, vừa khinh miệt, vừa thương cảm.
-Bà đừng ngại, - tôi nói và ngồi dậy, - dù sao tôi cũng nhếch nhác rôi.
-Này! – Bà ta đưa mời tôi nửa cái bánh sừng bò, có lẽ như để đền bù, - chắc cô đói lắm.
Tôi nhìn bà, ngạc nhiên vì cử chỉ ân cần đó.
-Cảm ơn bà.
Gọi bà là một phụ nữ tao nhã sẽ là thô thiển đi nhiều so với thực tế. Mọi thứ trên người bà tương xứng đến hoàn hảo, không chỉ màu son môi, màu sơn móng tay, mà cả những con ong xinh xắn bằng vàng đính trên đôi giầy, xắc tay, hay trên cái mũ tuyệt đẹp, ngự sinh động trên đỉnh mái tóc nhuộm rất khéo. Tôi chắc rằng người phụ nữ này có mọi lý do để khíến bà hài lòng – nụ cười của bà vui tươi hơn là cố hữu. Chắc chắn bà giàu có – hoặc ít ra là lấy chồng giàu sang, - trông bà có vẻ không phải lo lắng gì trên đời, ngoài việc che giấu một tâm hồn dày dạn cùng ngoại hình được chăm chút cẩn thận.
- Cô đến Florence à? – Bà hỏi, giọng ân cần, âm sắc rất cuốn hút. – Đến xem những thứ gọi là tác phẩm nghệ thuật ư?
-Thực ra, tôi đến Siena, - tôi nói, miệng đầy bánh. –Tôi sinh ra ở đấy. Nhưng tôi chưa trở lại đó lần nào.
-Tuyệt quá! – Bà kêu lên. – Nhưng thật lạ lùng! Tại sao lại không về?
- Đấy là một câu chuyện dài.
- Kể cho tôi đi. Cô phải kể tất cả cho tôi nhé. – Thấy tôi lưỡng lự, bà liền đưa tay lên che miệng. – Tôi xin lỗi. Tôi tò mò quá. Tôi là Eva Maria Salimbeni.
-Tôi là Julie… GIULIETTA TOLOMEI.
Bà ta suýt ngã khỏi ghế.
-Tolomei ư? Họ cô là Tolomei? Không, tôi không thể tin nổi! Có lẽ nào! Gượm đã….cô ngồi ghế nào? Ghế trên náy bay ấy. Cho tôi xem nào…-Bà nhìn vé máy bay của tôi rồi giật ngay khỏi tay tôi. Cô cứ ở đây nhé! Đợi tôi một lát!
Tôi quan sát bà sải bước đến quầy, và tự hỏi liệu đấy có phải là một ngày bình thường trong đời Eva Maria Salimbeni không. Tôi hình dung bà đang cố đổi chỗ để chúng tôi ngồi cạnh nhau suốt chuyến bay, và qua nụ cười lúc bà quay lại, tôi đoán bà đã thành công.
E voila! – Bà đưa tôi tấm vé mới, và vừa nhìn, tôi đã phải cố nén tiếng cười khúc khích vì hài lòng. Lẽ tất nhiên, vì muốn tiếp tục câu chuyện của chúng tôi, tôi đã được nâng lên ghế hạng nhất. Khi chúng tôi ở trên không, chẳng mấy chốc Eva Maria đã moi được câu chuyện của tôi. Nhưng điều duy nhất tôi không tiết lộ là nhận dạng kép của mình và kho báu giả định của mẹ tôi.
-Thế, - cuối cùng bà nói, nghiêng đầu sang một bên, - cô đến Siena để… xem Palio ư?
-Gì kia?
Câu hỏi của tôi khiến bà kinh ngạc.
-Palio! Cuộc đua ngựa. Siena nổi tiếng vì cuộc đua ngựa Palio. Quản gia của bà bác cô – cái ông Alberto khôn ngoan ấy – chưa bao giờ kể cho cô nghe về nó sao?
-Umberto, - tôi sửa lại cho bà. –Vâng, tôi đoán là có. Nhưng tôi không biết rằng đấy vẫn là nơi hấp dẫn. Mỗi khi ông ấy kể về nó, giống như một thứ ở thời Trung cổ, với các hiệp sĩ trong bộ áo giáp sáng ngời và đủ thứ khác.
-Lịch sử của Palio, - Eva Maria gật đầu, - phải kể từ…-bà phải tìm chọn một từ tiếng Anh cho đúng – thời Trung cổ ít người biết đến. Ngày nay, cuộc đua diễn ra ở Camp trước Tòa Thị chính, kỵ sĩ là các dô kề chuyên nghiệp. Nhưng thời xưa, người ta tin rằng kỵ sỹ là các nhà quý tộc cưỡi chiến mã, họ cưỡi ngựa suốt quãng đường từ vùng quê vào thành phố, rồi điểm cuối là trước Thánh đường Siena.
-Nghe ấn tượng quá, - tôi noi, vẫn bối rối trước lòng tốt dạt dào của bà. Nhưng có lẽ bà chỉ thấy mình có trách nhiệm chỉ dẫn cho người lạ về Siena mà thôi.
-Ôi!- Eva Maria tròn mắt. – Đấy là sự kiện ấn tượng nhất trong sinh hoạt của chúng tôi. Nhiều tháng ròng, dân chúng Siena chẳng nói gì khác ngoài ngựa, các đối thủ và các sự kiện xảy ra với kỵ sỹ này, nọ, - Bà lắc đầu trìu mến. Chúng tôi gọi nó là dolce pazzia..sự điên rồ lành mạnh. Khi cô cảm nhận được điều đó, cô sẽ không bao giờ muốn rời bỏ.
-Umberto thường nói rằng, không thể giải thích gì về Siena, - tôi nói và chợt ước giá ông đi cùng tôi, lắng nghe người phụ nữ đầy mê hoặc này. – Phải ở đấy và nghe thấy tiếng trống mới hiểu nổi.
Eva Maria mỉm cười duyên dáng như một nữ hoàng nhận lời tụng ca.
-Ông ấy nói đúng. Cô phải cảm nhận nó, - bà giờ tay và chạm vào ngực tôi - ở đây này.
Với bất cứ người nào khác, cử chỉ này dường như rất phóng túng, không thích hợp, nhưng Eva Maria là người có thể làm được điều đó.
Trong lúc cô tiếp viên rót cho chúng tôi cốc champage nữa, người bạn mới của tôi kể thêm về Siena, “để cô không gặp phải rắc rối”, bà nháy mắt.
Du khách thường hay gặp rất nhiều phiền toái. Họ không biết rằng Siena không chỉ là Siena, mà có mười bảy khu vực khác nhau trong phạm vi thành phố - hay còn gọi là contrada, - tất thảy đều có lãnh địa riêng, quan tòa riêng và gia huy riêng. – Eva Maria chạm cốc với tôi, vẻ bí ẩn. – Nếu cô thấy ngờ vực, hãy luôn ngước nhìn vào các góc nhà. Những dấu hiệu bằng sứ nho nhỏ sẽ cho cô biết cô đang ở khu vực nào. Hiện giờ, gia tộc Tolomei của cô thuộc khu Owl (Cú) và các bạn đồng minh của cô là Eagle (Đại bàng) và Porcupine (Nhím)và…tôi quên những khu khác rồi. Với người dân Sienam các khu vực này là mối quan tâm chính trên đời; họ là bạn, là cộng đồng, là đồng minh và cũng là đối thủ. Từng ngày trong năm.
-Vậy contrada của tôi là Owl, - tôi nói, thích thú vì thỉnh thoảng Umberto gọi tôi là con cú cau có mỗi khi tôi ủ rũ. – Còn contrada của bà là gì?
Lần đầu tiên kẻ từ khi chúng tôi bắt đầu trò chuyện, Eva Maria ngoảnh đi, đau đớn vì câu hỏi của tôi.
-Tôi không có gì hết, - bà nói cho xong. – Gia đình tôi bị trục xuất khỏi Siena từ nhiều trăm năm trước.
*
Trước khi máy bay hạ cánh ở Florence khá lâu, Eva Maria đã nhất quyết đòi đưa tôi đến Siena. Bà giải thích Siena thuận đường đến nhà bà ở Val d’Orcia, và không có gì là phiền toái hết. Tôi nói với bà rằng tôi không hề ngại đi xe buýt, nhưng rõ ràng bà là người không đặt niềm tin vào các phương tiện giao thông công cộng.
-Lạy Chúa Thánh Thần! – Bà kêu lên khi tôi đã xiêu lòng vì đề nghị của bà, -tại sao cô lại muốn đợi một chiếc xe buýt không bao giờ xuất hiện trong khi cô có thể đi cùng tôi và thấy rất thoải mái trong ô tô mới của con trai đỡ đầu của tôi? –Thấy tôi hầu như đã bằng lòng, bà mỉm cười quyến rũ và càng ra sức thuyết phục.
-Giulietta, tôi sẽ thất vọng nếu chúng ta không kéo dài cuộc trò chuyện dễ chịu này thêm chút nữa.
Thế là chúng tôi khoác tay nhau len qua các hành khách, trong khi nhân viên hải quan chỉ liếc nhìn hộ chiếu của tôi, thì anh ta lại xem hộ chiếu của Eva Maria đến hai lần. Sau đó lúc tôi đang điền thông tin vào tờ đơn màu sắc sặc sỡ báo mất hành lý, Eva Maira đứng cạnh, gõ đôi giày Gucci xuống sàn cho đến khi người phụ trách hành lý thề sẽ đích thân tìm lại hai cái va li của tôi từ bất cứ nơi nào trên đời và- bất kể thời gian nào,- sẽ đưa thẳng tới khách sạn Chiusarelli ở Siena, địa chỉ mà Eva Maria ghi bằng thỏi son môi và nhét vào túi áo anh ta.
-Cô thấy chưa GIULIETTA, Bà giảng giải lúc chúng tôi cùng ra khỏi sân bay, không mang theo gì ngoài sự ồn ào rất nhỏ của bà, - đây mới là năm mươi phần trăm người ta nhìn thấy, còn năm mươi phần trăm là thứ người ta tưởng là thấy, Đây!- Bà xúc động vẫy một chiếc ô tô đen không có khách đỗ trong làn đường dành cho xe cứu hỏa. – Nó kia kìa! Xe đẹp đấy chứ?- Bà huých tôi và nháy mắt. – Kiểu mới đấy.
-Thế ạ? –Tôi lễ phép nói. Ô tô chưa bao giờ là niềm say mê của tôi, trước hết vì chúng thường đi cùng với một anh chàng. Chắc chắn rằng Janice có thể kể cho tôi nghe chính xác tên, kiểu dáng của chiếc ô tô kia trong danh sách những thứ khiến nó yêu chủ nhân của một chiếc xe đỗ tại địa điểm rất kịch bên bờ biển Amlfi. Chẳng cần phải nói, danh sách các việc cần làm của nó khác hẳn của tôi.
Không quá mếch lòng vì sự thiếu nhiệt tình của tôi Eva Maria kéo tôi đến gần hơn và thì thầm vào tai tôi:
-Đừng nói gì nhé, tôi muốn cho nó ngạc nhiên! Nhìn xem… nó điển trai chưa kìa? – Bà cười khúc khích mãn nguyện và kéo tôi tới chỗ người đàn ông đang xuống xe. – Chào Sandro!
Người đó đi vòng qua xe để đến chào chúng tôi:
-Chào mẹ đỡ đầu! – Anh ta hôn lên hai má Eva Maria và hình như không chú ý đến bàn tay ngưỡng mộ của bà đang lùa vào mái tóc đen nhánh của anh. – Chào mừng mẹ đã về
Eva Maria nói đúng. Trong ánh mắt người con trai đỡ đầu của bà không chỉ có vẻ bình thản ác độc, anh ta còn diện rất choáng, và mặc dù tôi hầu như không sành sỏi về sức hấp dẫn với đàn bà, tôi vẫn ngờ rằng anh ta không bao giờ thiếu các nạn nhân tự nguyện.
-Allessandro, mẹ muốn con gặp một người. – Eva Maria không nén được sự phấn khích của mình. – Đây là cô bạn mới của mẹ. Mẹ đã gặp cô ấy trên máy bay. Cô ấy tên là Giulietta Tolomei. Con có tin được không?
Alessandro quay sang nhìn tôi bằng cặp mắt xanh biếc màu hương thảo khô, tôi tin chắc cặp mắt ấy sẽ khiến cho Janice mặc đồ lót vừa uốn éo điệu rumba khắp nhà, vừa ngân nga vào chiếc micro nhỏ xíu.
-Xin chào! – Tôi nói, tự hỏi anh ta có sắp hôn tôi không.
Nhưng anh ta không làm vậy, Allessandro nhìn bím tóc, cái quần sooc rộng lùng thùng và đôi dép lê của tôi rồi mới nặn ra một nụ cười và nói gì đó bằng tiếng Ý mà tôi không hiểu.
-Tôi xin lỗi, - tôi nói, - Nhưng tôi không …
Ngay khi hiểu rằng ngoài vẻ lôi thôi lếch thếch, tôi còn không biết tiếng Ý, con trai đỡ đầu của bà Eva Maria mất hẳn hứng thú với tôi. Lẽ ra nên dịch câu vừa nói, anh ta chỉ hỏi:
- Không có hành lý à?
-Nhiều ấy chứ. Nhưng hình như tất cả đều chuyển đến Verona.
Lát sau, tôi ngồi cạnh Eva Maria ở ghế sau, chiếc xe lao vun vút qua nhiều khung cảnh tráng lệ của Florence. Chẳng mấy chốc, tôi tin rằng sự im lặng ủ ê của Allessandro chẳng qua vì kém tiếng Anh, nhưng sao tôi phải quan tâm kia chứ? Tôi cảm thấy một sự sôi nổi mới mẻ bùng nổ trong lòng. Tôi đang ở đây, trở lại đất nước đã tống cổ tôi hai lần, thâm nhập thành công vào tầng lớp đầy kiên cố, Tôi mong được gọi ngay cho Umberto và kể mọi chuyện với ông.
- GIULIETTA, - cuối cùng, Eva Maria ngồi dựa lưng thoải mái và nói, - tôi sẽ cẩn trọng và không kể… với quá nhiều người cô là ai.
-Tôi ư? – Tôi suýt bật cười – Nhưng tôi chẳng là ai hết!
-không là ai ư? Cô là một Tolomei!
-Bà đã bảo tôi rằng dòng họ Tolomei sống từ xa xưa lắm rồi.
Eva Maria gí ngón tay trỏ vào mũi tôi:
-Đừng đánh giá thấp sức mạnh của các sự kiện xảy ra từ rất lâu rồi. Đó là một sai lầm bi thảm của con người hiện đại. Tôi khuyên cô, vì cô là người từ Tân Thế giời về: Hãy lắng nghe nhiều hơn và nói ít hơn. Đây là nơi cô đã ra đời. Hay tin tôi Giulietta, ở đây sẽ có nhiều người biết cô là ai.
Liếc nhìn vào kính chiếu hậu, tôi thấy Allessandro đang nhìn tôi, mắt nheo lại. Dù có biết tiếng Anh hay không, rõ ràng không như bà mẹ, anh ta không thích con người tôi, nhưng vì quá nguyên tác nên không nói ra những suy nghĩ của mình. Anh ta chịu đựng sự có mặt của tôi trong xem miễn là tôi không vượt qua ranh giới của sự nhún nhường và biết ơn.
-Gia tộc Tolomei của cô, -Eva Maria nói tiếp, quên bẵng những linh cảm xấu, - là một trong các gia tộc giàu có nhất và quyền lực nhất trong toàn bộ lịch sử của Siena. Họ có nhà băng riêng, và luôn gây hấn với gia tộc Salimbeni, để chứng tỏ dòng họ nào có thế lực hơn trong thành phố. Thời Trung cổ, mối thù truyền kiếp của họ trầm trọng đến mức dòng họ này thiêu rụi các ngôi nhà và giết chết mọi đứa trẻ ngay trên giường của dòng họ kia.
- Họ là kẻ thù ư? – Tôi hỏi, ngây người.
- Phải! Kẻ thù độc địa nhất! cô có tin vào số phận không? Eva Maria đặt tay lên tay tôi và xiết chặt. – Tôi thì tin. Hai dòng họ ta, Tolomei và Salimbeni có mối hận thù cổ xưa, đẫm máu… Nếu chúng ta ở vào thời Trung cổ, chúng ta sẽ cắt cổ nhau. Giống như dòng họ Capulets và Montague trong Romeo và Juliet vậy. – Bà nhìn tôi đầy ẩn ý. –Tại chợ phiên Siena, cả hai dòng họ đều đánh giá như nhau, ở đó chúng tôi bố trí một cảnh, cô có biết là vở kịch gì không? – Khi tôi chỉ gật đầu vì bị áp đảo quá chừng, không nói nổi, bà vỗ nhẹ tay tôi, đoán chắc. – Cô đừng lo, tôi tin rằng cô và tôi, với tình bạn mới của chúng ta, cuối cùng sẽ chôn vùi được mối cừu hận sâu xa của hai dòng họ. Chính vì thế, - bà đột ngột trở lại chỗ, - Sandro! Mẹ nhờ cậy con bảo đảm an toàn cho Giulietta ở Siena, Con có nghe mẹ nói không?
-Cô Tolomei, - Allessandro vừa trả lời vừa nhìn đường phía trước, - sẽ không bao giờ an toàn ở bất cứ nơi đâu. Từ bất cứ người nào.
-Chuyện trò kiểu gì thế? – Bà Eva Maria mắng. – Cô ấy là một Tolomei, bổn phận của chúng ta là bảo vệ cô ấy.
Allessandro liếc nhìn tôi trong gương, và tôi có cảm tưởng rằng anh ta có thể nhìn thấu tôi, sâu sắc hơn tôi nhìn anh ta.
-Biết đâu cô ấy không muốn nhận sự che chở chủa chúng ta. – Qua cách anh ta nói, tôi biết rằng đây là một thử thách, và cũng hiểu rằng anh ta rất giỏi thứ ngôn ngữ của tôi dù âm sắc có chút khác biệt. Có nghĩa là anh ta có nhiều lý do để nói năng gióng một với tôi..
-Tôi rất cảm kích vì chuyến đi này, - tôi nói và cố nở nụ cười đáng yêu nhất. – Nhưng tôi chắc Siena rất an toàn.
Anh ta chỉ khẽ gật đầu nhận lời khen.
-Cái gì đưa cô tới đấy thế? Công việc hay ý muốn?
-Tôi cho là do ý muốn.
Eva Maria vỗ tay hào hứng:
-Thế thì chúng tôi bảo đảm rằng cô sẽ không thất vọng! Allessandro biết mọi điều bí ẩn của Siena. Phải không, con yêu? Nó sẽ chỉ cho cô những chỗ đẹp tuyệt vời mà một mình cô sẽ không bao giờ tìm ra. Ôi, cô sẽ vui lắm!
Tôi há miệng, nhưng không biết nói gì. Thế là tôi đành ngậm miệng lại. Allessandro cau mày, chứng tỏ việc dẫn tôi đi khắp Siena sẽ khiến cho anh ta chán ngán suốt một tuần lễ.
- Sandor!- Bà Eva Maria nói tiếp, giọng trở nên đanh, sắc. – Con phải làm cho Giulietta vui, hiểu chưa
- Con có thể hình dung không còn gì hạnh phúc hơn, Allessandro trả lời và bật đài trên xe.
-Thấy chưa? Eva Maria bẹo gò má ửng hồng của tôi. – Shakespeare biết làm gì kia chứ? Giờ đây chúng ta là bạn bè.
Bên ngoài, vạn vật như một vườn nho, bầu trời lơ lửng trên quang cảnh giống như một mũi đất xanh biếc được che chở. Đây là nơi tôi ra đời, chợt tôi cảm thấy mình như một kẻ xa lạ, một kẻ đột nhập lẻn qua cửa sau, tìm kiếm và cố giành lấy thứ chẳng bao giờ thuộc về mình.
Nhẹ cả người khi cuối cùng, chúng tôi đỗ lại trước cửa khách sạn Chiusarelli. Suốt quãng đường, Eva Maria ân cần kể cho tôi nghe điều này điều nọ về Siena nhưng bạn chỉ có thể giữ một cuộc trò chuyện lịch sự đến thế là cùng,sau một đêm mất ngủ và toàn bộ hành lý bị cuỗm sạch một mẻ.
Mọi thứ của nả của tôi đều nằm trong hai va li đó. Về cơ bản, tôi đã gói ghém tất cả tuổi thơ ngay sau tang lễ của bà bác Rose, và rời đi bằng taxi vào khoảng nửa đêm cùng tiếng cười đắc thắng của Janice vẫn ngân vang trong đầu. Toàn bộ quần áo, sách vở, đủ thứ vặt vãnh ngớ ngẩn, nhưng bây giờ chúng đang ở Verona còn tôi ở đây, mắc kẹt ở Siena chỉ vẻn vẹn có bàn chải răng, nửa thanh granola và một cái tai nghe.
Sau khi đỗ xe bên lề đường trước khách sạn và mở cửa xe cho tôi, Allessandro đưa tôi vào tiền sảnh, đầy ý thức trách nhiệm. Rõ ràng anh ta không muốn thế, còn tôi cũng không đánh giá cao cử chỉ ấy, nhưng Eva Maria từ băng ghế sau theo dõi cả hai chúng tôi, và lúc này tôi hiểu bà là một phụ nữ quen có mọi thứ theo kiểu của bà.
- Mời cô, - Allessandro nói và giữ cửa. – Tôi sẽ đi cùng cô.
Chẳng còn gì làm ngoài việc bước vào khách sạn Chiusarelli. Tòa nhà chào đón tôi với vẻ thanh bình mát mẻ, trần cao được các cột đá hoa chống đỡ, và từ một nơi nào đó bên dưới, vẳng đến tiếng hát với tiếng nồi xoong loảng xoảng.
-Bon giorno!- Một người dàn ông oai vệ mặc comple nhô lên sau quầy lễ tân, cái thẻ ghi tên bằng đồng cho tôi biết ông ta là Giám đốc Rossini.
-Xin chào mừng! – Ông ta ngừng lại khi nhìn thấy Allessandro. Chào đại úy.
Tôi đặt bàn tay lên lớp đá hoa xanh, hy vọng có nụ cười quyến rũ.
-Xin chào. Tôi là Giulietta Tolomei. Tôi đã đặt chỗ trước. Xin lỗi ông một chút, - tôi quay sang Allessandro.- Vâng, thế là xong. Tôi đã ở đây an toàn.
-Tôi rất tiếc, thưa cô, - ông Rossini nói, - nhưng tôi không thấy trong danh sách đặt trước có tên cô.
-Ồ, tôi chắc là… có vấn đề gì chăng?
-Đây alf Palio! – Ông ta giơ tay lên, giận dữ. – Một khách sạn hoàn hảo!. Nhưng…- ông ta gõ lên màn hình máy tính, - ở đây tôi thấy số thẻ tín dụng mang tên Juluie Jacobs. Đặt chỗ trước trong một tuần. Hôm nay từ Mỹ tới. Có thể là cô chăng?
Tôi liếc nhìn Allessandro. Anh ta đáp lại cái nhìn chằm chằm của tôi bằng vẻ hoàn toàn dửng dưng.
-Vâng đúng là tôi, - tôi nói.
Giám đốc Rossini sửng sốt:
-Cô là Julie Jacobs? Và là Giulietta Tolomei?
-À …vâng.
-Nhưng…-Giám đốc Rossini bước sang bên một chút để nhìn Allessandro rõ hơn, lông mày ông ta diễn tả một dấu hỏi lịch sự. – Có vấn đề gì chăng?
- Không có gì đâu, - Allessandro đáp, nhìn cả hai chúng tôi với vẻ vô cảm cố ý. – Cô Jacobs. Muốn lưu lại Siena.
Trong chớp mắt, con trai đỡ đầu của Eva Maria đã đi mất, còn lại tôi với giám đốc Rossini và sự im lặng khó chịu. Chỉ đến khi tôi điền xong tờ khai đặt trước mặt, ông giám đốc khách sạn mới gượng cười.
-Vậy…cô là bạn của đại úy Santini?
Tôi ngoái nhìn lại:
-Ý ông là, người vừa ở đây ư? Không, chúng tôi không phải là bạn. Họ anh ta là Santini sao?
Hiển nhiên là giám đốc Rossini thấy tôi kém hiểu biết.
-Danh tính của anh ấy là Đại úy Santini. Anh ta là…nói thế nào nhỉ? Là chỉ huy an ninh của Mote dei Paschi. Ở lâu đài Salimbeni.
Chắc là trông tôi bàng hoàng lắm, vì giám đốc Rossini vội vã an ủi:
- Cô đừng lo, chúng tôi không có tội phạm ở Siena đâu. Đây là một thành phố rất yên bình. Trước kia, ở đây đã từng có một kẻ tội phạm, ông ta cười tủm một mình lúc bấm chuông gọi người trực tầng, - nhưng chúng tôi đã chăm sóc hắn cẩn thận rồi!
Suốt nhiều giờ qua, tôi chỉ mong đến lúc được lăn ra giường. Nhưng lúc này, khi cuối cùng có thể làm thế, thay vì nằm nghỉ, tôi đi tới đi lui trong phòng khách sạn ngẫm nghĩ đến khả năng Allessandro Santini sẽ lục tìm tên tôi và lật tẩy quá khứ ảm đạm của tôi. Bây giờ, điều cuối cùng tôi cần là có người ở Siena lục hồ sơ cũ của Julie Jacobs, phát hiện ra hành động liều mạng của tôi ở Rome và đặt dấu chấm hết không đúng lúc cho cuộc săn tìm kho báu.
Sau đó, tôi gọi cho Umberto để báo tin đã đến nơi an toàn, chắc hẳn ông đã cảm nhận được sự lo ngại trong giọng tôi, vì ngay lập tức ông đoán biết có chuyện trục trặc.
- Ồ, không có gì ạ, - tôi nói, - Chỉ có một gã Armani cứng nhắc phát hiện ra cháu có hai tên thôi.
- Nhưng anh ta là người Ý, - Umberto trả lời nhanh nhạy. Anh ta không quan tâm dù cô có phá luật chút ít, miễn là cô đi đôi giầy đẹp. Cô đang đi giầy đẹp đấy chứ? Cô có đi đôi giầy tôi tặng cô không?... Công chúa? – Tôi nhìn xuống đôi dép tông. – Tôi chắc là mình có thể nâng cốc chúc mừng.
Đêm hôm đó khi lê vào giường, tôi chìm ngay vào một giấc mơ mấy tháng nay không trở lại, nhưng nó là một phần đời tôi từ thuở ấu thơ. Trong cơn mơ tôi đi khắp nơi trong một tòa lâu đài nguy nga lộng lẫy, sàn khảm hoa và trần thánh đường có nhiều cây cột khổng lồ chống đỡ. Rồi tôi đẩy hết cánh cửa mạ vàng này đến cánh cửa khác và ngạc nhiên vì tịnh không một bóng người. Chỉ có một thứ anh sáng duy nhất lọt qua các ô cửa hẹp gắn kính màu ở cao tít trên đầu tôi tạo ra các tia sáng này, chiếu sáng chút ít vào các góc tối quanh tôi.
Lúc đi qua các căn phòng rộng mênh mông ấy, tôi cảm thấy mình giống như một đứa trẻ lạc trong rừng, tôi thất vọng vì cảm thấy sự hiện diện của nhiều người khác nữa, nhưng họ lại không bao giờ xuất hiện trước mặt tôi. Khi đứng yên, tôi có thể nghe thấy họ thì thầm và chuyển động như những bóng ma, nhưng nếu họ là những người thực sự siêu trần, họ cũng đang bị mắc kẹt như tôi, và đang tìm lối thoát.
Cho đến khi đọc vở kịch ở trung học, tôi mới vỡ lẽ rằng lời những ma quỷ vô hình đang thầm thì là nhiều đoạn trong vở kịch Romeo và Juliet của Shakespeare, không phải cách các diễn viên đọc thuộc lòng trên sân khấu, mà là những lời lầm bầm với sức mạnh tiềm tàng, như một câu thần chú. Hoặc một lời nguyền.