Chương 1 (3) Nội trong ba giờ nữa-Juliet xinh tươi sẽ tỉnh dậy
Cuối cùng, tiếng chuông từ nhà thờ vọng qua quảng trường lay tôi tỉnh giấc. Hai phút sau, giám đốc Rossini gõ cửa, như thể ông biết tôi không thể ngủ được trong tiếng ồn ào huyên náo.
-Xin lỗi! – không đợi mời, ông kéo lê một va li to tướng vào phòng tôi và đặt lên cái giá để trống. – Cái này dành cho cô từ tối qua.
-Gượm đã! – Tôi lao ra cửa và quấn chiếc áo choàng tắm quanh người, chặt hết mức có thể. – Đấy không phải vali của tôi.
-TÔI biết. – Ông rút chiếc khăn mùi soa trong túi áo ngực và lau mồ hôi trên trán. – Vali này của Contesssa Salimbeni. Bà ấy để lại một bức thư ngắn cho cô đây.
Tôi cầm bức thư.
Một contesssa chính xác là gì?
- Thông thường, -giám đốc Rossini nghiêm trang nói, - tôi không đưa hành lý. Nhưng vì đây là của Contesssa Salimbeni….
- Bà ấy cho tôi mượn quần áo ư? – Tôi chăm chú nhìn bức thư viết tay của Eva Maria, hồ nghi. – Cả giầy nữa?
- Cho đến khi nào hành lý của cô tới. Hiện nó ở Frittoli.
Với nét chữ tuyệt đẹp, Eva Maria lường trước có thể quần áo của bà không hẳn vừa với tôi. Nhưng bà kết luận, như thế này còn hơn là trần truồng mà chạy quanh.
Lúc kiểm tra hết thứ này đến thứ khác trong vali, tôi lấy làm mừng vì Janice không thể nhìn thầy tôi. Ngôi nhà tuổi thơ của chúng tôi không đủ lớn cho cả hai chị em cùng theo đuổi thời trang, và thế là tôi – Umberto thất vọng nhiều hơn tôi – phải dấn thân vào một sự nghiệp có đủ thứ “ nhưng”. Trong trường, Janice nhận được những lời ca ngợi của bạn bè, những người mà cuộc sống của họ được quảng cáo rầm rộ bằng tên tuổi một nhà thiết kế thì tôi nhận được sự ngưỡng mộ của các bạn gái đi nhờ xe đến cửa hàng từ thiện, những người không dám mơ mua được thứ tôi mua hoặc đủ can đảm phối chúng với nhau. Không phải vì tôi ghét quần áo đẹp, mà chỉ vì tôi không muốn Janice khoái chí xuất hiện với vẻ thương xót cho bộ dạng của tôi. Dù tôi có cố gắng chăm chút bản thân ra sao, nó cũng luôn vượt hẳn tôi.
Khi chúng tôi ra trường, tôi đã có hình ảnh riêng của mình: một cây bồ công anh trong luống hoa xã hội. Khá đáng yêu, nhưng vẫn là một cây cỏ. Khi bà Rose đặt tấm ảnh lễ tốt nghiệp của chúng tôi lên cây đại dương cầm, bà mình cười buồn bã và nhận xét rằng trong tất cả những lớp tôi đã học qua hình như kết quả tốt nghiệp xuất sắc nhất của tôi là những gì trái ngược hẳn với Janice.
Nói một cách khác, kiểu dáng thời trang của Eva Maria chắc chắn không phải là phong cách của tôi. Nhưng tôi còn có lựa chọn nào nữa đây. Sau cuộc nói chuyện với Umberto đêm hôm trước tôi quyết bỏ đôi dép tông hiện dùng và chú ý đến dáng vẻ bên ngoài cho đẹp đẽ hơn. Hơn nữa việc tôi cần nhất lúc này là làm sao để Francesso Maconi cố vấn tài chính của mẹ tôi, không nghĩ tôi là kẻ không đáng tin cậy.
Thế là tôi thử hết bộ này đến bộ khác của Eva Maria, xoay đi xoay lại trước giương, cho đến lúc tìm ra một bộ ít diêm dúa nhất – một chiếc váy màu nâu đậm và chiếc áo khoác đỏ như màu xe cứu hỏa, điểm những chấm tròn to màu đen, khiến tôi trông như vừa chui ra từ chiếc Jaguar với bốn món đồ hòa hợp tuyệt vời và một chú chó nhỏ xíu tên là Bijou. Quan trọng hơn cả, nó khiến tôi trông như đã ăn sống nuốt tươi các của gia bảo được giấu kín bao đời – và các cố vấn tài chính – cho bữa sáng.
May mắn là có một đôi giầy hợp bộ.
Giám đốc Rossini giải thích muốn đến lâu đài Tolomei, tôi phải chọn hoặc là ngược lên phố Paradiso hoặc xuôi xuống phố Sapienza. Trên thực tế, cả hai đường này đều dễ tắc nghẽn giao thông như phần lớn các phố trong khu thương mại của Siena, nhưng đường Sapienza có thể gặp chút rắc rối, và nói chung, đường Paradiso chắc chắn an toàn hơn.
Lúc đi xuống phố Sapienza, tôi thấy mặt tiền các ngôi nhà cổ đóng kín mít, và chẳng mấy chốc, tôi đã mắc kẹt trong một mê cung của những thế kỷ quá khứ, hòa quyện với nếp sống trước kia. Trên đầu tôi, một dải trời xanh biếc bị nhiều biểu ngữ bắt chéo, màu sắc táo bạo sinh động lạ lùng giữa màu gạch Trung cổ, ngoại trừ một chiếc quần Jeans lạc lõng phơi ở một cửa sổ, gần như không có gì biến nơi này thành hiện đại.
Thế giới phát triển khắp nơi, nhưng Siena không cần biết điều đó. Giám đốc Rossini đã bảo tôi rằng, với cư dân Siena, thời hoàng kim là giai đoạn cuối Trung cổ, và tôi có thể thấy ông nói đúng. Thành phố ương ngạnh bám chặt lấy bản chất Trung cổ, bất chấp sức lôi cuốn của sự tiến bộ. Đây còn rất ít vết tích của thời kỳ Phục hưng, nhưng tựu trung, viên giám đốc khách sạn cười khẩy Siena quá khôn ngoan nên không bị sự quyến rũ của các tay chơi lịch sử cám dỗ, những kẻ được gọi là bậc thầy, biến các ngôi nhà thành cái bánh nhiều lớp.
Kết quả là, thứ diễm lệ nhất của Siena chính là sự nguyên vẹn của nó, dù hiện giờ, trong một thế giới không còn được chăm sóc, nó vẫn là Siena Vetuss Civitas Virginis, hay theo tiếng nước tôi, là Siena cổ kính, thành phố của Đức Mẹ Đồng Trinh. Chỉ với lý do đó, giám đốc Rossini xòe tất cả các ngón tay lên quầy đá hoa xanh biếc mà kết luận rằng, đây là nơi duy nhất đáng sống trên hành tinh này.
- Vậy, ông đã từng sống ở nơi nào khác chưa? – Tôi hỏi ông ngây thơ.
- Tôi đã ở Rome hai ngày, - ông đáp, vẻ chững chạc. – Ai cần nhìn thấy nhiều hơn chứ? Khi cô cắn phải một miếng táo thối, cô có ăn tiếp không?
Đắm mình trong những con hẻm lặng lẽ, cuối cùng tôi gặp một đường phố ồn ào dành cho người đi bộ. Theo nhận định của tôi, đây là Corso, và giám đốc Rossini đã giải thích là dãy phố nổi tiếng nhất vì có nhiều nhà băng cổ, thường phục vụ người nước ngoài dạo chơi trên con đường hành hương cổ kính, xuyên thẳng qua thành phố. Trải qua nhiều thế kỷ hàng triệu người đã đến Siena, nhiều thứ đồ châu báu và tiền nước ngoài đã đổi chủ. Nói khác đi, dòng du khách đều đặn thời hiện đại chỉ là sự tiếp nối truyền thống cổ xưa và giúp thành phố sinh lời.
Giám đốc Rossini kể gia tộc Tolomei của tôi đã trở nên giàu có ra sao, và đối thủ của họ, gia tộc Salimbeni còn giàu hơn. Họ là thương nhân và chủ ngân hàng, các lâu đài vững chãi của họ nằm bên sườn của chính con đường này – đường chính của Siena, - có những tòa tháp cao ngất cứ ngày càng xây cao lên, cao lên mãi cho đến lúc cuối cùng, tất cả đều sụp đổ.
Lúc đi qua lâu đài Salimbeni, tôi tìm kiếm dấu vết của tòa tháp cổ nhưng vô ích. Nó vẫn là một tòa nhà rất ấn tượng với cửa trước đồ sộ, nhưng không còn sừng sững như trước đây, Ở nơi nào đó trong tòa nhà kia, tôi nghĩ lúc lật cao cổ áo, bước vội qua, Allessandro con trai đỡ đầu của Eva Maria có phòng làm việc riêng. Hy vọng rằng anh ta không – ngay lúc này thôi – lùng sục danh sách tội phạm để tìm ra bí mật đen tối sau cái tên Julie Jacobs
Xuôi xuống dưới – nhưng không quá xa – là lâu đài Tolomei, nơi cư ngụ cổ xưa của tổ tiên tôi. Ngước nhìn mặt tiền Trung cổ tráng lệ, tôi bỗng cảm thấy rất tự hào, vì được là họ hàng với những người có thời đã sống trong tòa nhà đặc biệt. Trong chừng mực có thể nhìn thấy, tòa nhà không thay đổi quá nhiều từ thế kỷ XIV; chỉ có một điều duy nhất được thừa nhận là dòng họ Tolomei hùng mạnh đã dọn đi và một nhà băng hiện đại dọn đến, theo các quảng cáo tiếp thị treo trên các cửa sổ vững chãi, những lời hứa hẹn đầy màu sắc bị các chấn song sắt quá.
Bên trong tòa nhà cũng trang nghiêm không kém bên ngoài. Một nhân viên an ninh đi tới giữ của lúc tôi bước vào, lịch sự trong chừng mực khẩu súng trường nửa tự động trên tay anh ta cho phép, nhưng tôi mải nhìn quanh nên chẳng kịp để ý đến bộ đồng phục của anh ta. Sáu cây cột khổng lồ bằng gạch đỏ chống trần nhà cao, cao vượt hẳn so với con người, và mặc dù có những quầy ghế và nhiều người đi lại trên sàn đá rộng mênh mông, song tất cả chỉ chiếm ít chỗ đến mức những chiếc đầu sư tử trắng nhô ra từ các bức tường cổ kính hình như hoàn toàn không hay biết đến sự hiện diện của con người.
- Sì? – Người thu ngân nhìn tôi qua gọng kính rất mốt, mảnh, dường như không thể nhìn thấy một lát hiện thực mỏng dính.
Tôi hơi nhô người ra một chút, vì muốn kín tiếng.
- Tôi có thể nói chuyện với signor Francesco Maconi được không?
Người thu ngân nhìn xoáy vào tôi qua cặp kính, nhưng có vẻ không tin vào thứ cô ta nhìn thấy.
- Ở đây không có signor Francesco, - cô ta nói, giọng nặng trịch.
- Không có Francesco Maconi ư?
Lúc này, cô thu ngân thấy cần bỏ hẳn kính ra, gập cẩn thận trên quầy và nhìn tôi với nụ cười bề trên, hệt như lúc người ta làm trước khi chọc kim tiêm vào cổ bạn vậy:
- Không.
- Nhưng tôi biết ông ấy thường làm việc ở đây…- tôi không biết nên nói gì thêm thì đồng nghiệp của cô ta ở ngăn bên cạnh ngả người sang góp chuyện, thì thầm gì đó bằng tiếng Ý. Lúc đầu, người thu ngân không thân thiện của tôi gạt người kia bằng cái xua tay giận dữ, nhưng lát sau, cô ta bắt đầu xem xét lại.
- Xin lỗi, - cuối cùng, cô ta nói nhô về phía trước để tôi chú ý, - nhưng ý cô muốn nói đến chủ tịch Maconi?
Tôi choáng váng vì kích động:
- Ông ấy làm việc ở đây hai chục năm trước phải không?
Cô ta tỏ ra kinh hoàng:
- Chủ tịch Maconi luôn ở đây!
- Vậy tôi có thể nói chuyện với ông ấy được không ạ? –Tôi mỉm cười ngọt ngào, dù cô ta không xứng với nó. – Ông ấy là bạn cũ của mẹ tôi, bà Diane Tolomei, Tôi là Giulietta Tolomei.
Cả hai người phụ nữ nhìn tôi trừng trừng, như thể tôi là hồn ma hiện lên trước mắt họ. không nói thêm một lời, người thu ngân lúc đầu xua tôi, giờ lóng ngóng đeo lại kính, gọi một cú điện thoại và nói vắn tắt bằng tiếng Ý, vẻ khúm núm, lép vế. Khi nói xong, cô ta cũng kính đặt ống nghe và quay sang tôi với một thứ na ná như nụ cười:
- Ông ấy sẽ gặp cô lúc ba giờ, ngay sau bữa trưa.
Tôi ăn bữa đầu tiên kể từ lúc đến Siena tại một cửa hàng pizza tấp nập tên là Cavallino Bianco. Trong lúc ngồi đó, ra vẻ đọc quyển từ điển tiếng Ý vừa mua, tôi bắt đầu hiểu rằng chỉ với bộ quần áo mượn và vài câu để sử dụng là có thể trao đổi thẳng với những người dân địa phương. Những người phụ nữ quanh tôi sở hữu một thứ tôi không bao giờ có, một khả năng tôi không thể làm theo, nhưng ắt hẳn là nhân tố chủ yếu trong tâm trạng khó nắm bắt và hạnh phúc, tôi ngờ vực lén nhìn nụ cười và những cử chỉ hồ hởi lúc họ trêu đùa anh bồi bàn Giulio điển trai.
Đi dạo, cảm thấy tươi tỉnh và hoạt bát hơn bao giờ hết, tôi đứng uống một tách espresso trong một quán ở quảng trường Posierla và hỏi thăm cô nhân viên đẫy đà trông máy pha cà phê về cửa hàng bán quần áo rẻ tiền trong vùng. Xét cho cùng, thật may mắn, vali của Eva Maria không có đồ lót. Phớt lờ các khách hàng khác, cô nhân viên hoài nghi nhìn lướt qua tôi và nói:
-Cô muốn mua mọi thứ mới à? Tóc mới, quần áo mới ư?
-À…
- Đừng lo, anh họ tôi là thợ làm tóc cừ nhất Sienam có khi nhất thế giới, Anh ấy sẽ làm cho tóc cô thật đẹp. Đi nào!
Sau khi nhất quyết nắm tay tôi và tự xưng là Malena, cô ta dẫn tôi đi gặp ông anh họ Luigi ngay lập tức, dù quán cà phê đang lúc đông khách và khách hàng bực tức quát theo lúc chúng tôi đi. Cô ta chỉ chún vai và cười, thừa biết họ sẽ lại xun xoe khi cô ta trở lại, có khi còn nịnh bợ hơn trước, còn bây giờ cứ để họ nếm mùi cuộc sống thiếu cô.
Lúc chúng tôi vào hiệu uốn tóc, Luigi đang quét vun tóc trên sàn. Anh ta không già hơn tôi, nhưng có cái nhìn thấu suốt của Michelangelo. Tuy nhiên, khi nhìn xoáy vào tôi, anh ta không có ấn tượng gì.
-Chào anh thân mến, - Malena nói và mổ vào hai bên má anh ta – đây là Giulietta. Cô ấy cần cải tổ cả đầu.
-Thực ra chỉ ở đuôi tóc tôi, - tôi xen vào, - Độ mười phân.
Một cuộc tranh luận chủ yếu bằng tiếng Ý nổ ra – mà tôi thấy nhẹ người vì không hiểu – Malena mới thuyết phục được Luigi nhận trường hợp thiểu não của tôi. Nhưng khi bắt tay vào việc, anh ta tiếp nhận công việc khó khăn rất nghiêm túc, Malena vừa rời cửa hiệu, anh liền bảo tôi ngồi xuống ghế, ngắm nhìn tôi trong gương, xoay tôi để kiểm tra mọi góc độ. Rồi anh ta giật sợi cao su khỏi bím tóc tôi và ném thẳng vào thùng rác với vẻ ghê tởm.
-Thôi được... Cuối cùng, Luigi nói và giũ tung tóc tôi, rồi lại nhìn vào gương lần nữa, giọng nói có vẻ đỡ chỉ trích hơn lúc trước. – không quá tệ chứ?
Hai giờ sau, khi trở lại lâu đài Tolomei, tôi càng lún sâu vào cảnh nợ nần, song thật bõ với từng xu bỏ ra. Bộ đỏ-đen của Eva Maria gấp gọn ở đáy túi mua hàng, rất hợp với đôi giày đè lên trên, còn tôi đang mặc một trong năm bộ mới mà Luigi và ông chú Paplo của anh ta ưng thuận, tình cờ ông có một cửa hàng quần áo ở ngay góc phố. Chú Paolo không biết một từ tiếng Anh, nhưng lại rất thạo thời trang, ông đã giảm 30% cho toàn bộ số hàng, với điều kiện tôi sẽ không bao giờ mặc bộ quần áo như con bọ rùa kia nữa.
Ban đầu tôi phản đối, giải thích rằng vali của tôi sẽ đến bất cứ lúc nào, nhưng rốt cuộc, sự cám dỗ quá lớn. Nhỡ vali của tôi đang đợi khi tôi trở về khách sạn thì sao? Dù sao cũng chẳng có thứ gì tôi có thể mặc ở Siena, có lẽ ngoài đôi giầy Umberto tặng tôi dịp Giáng sinh, và tôi chưa xỏ chân lần nào.
Lúc ra khỏi cửa hàng, tôi liếc nhìn mình trong từng tủ kính bày hàng mỗi khi đi qua. Tại sao tôi không làm việc này từ trước nhỉ? Từ hồi trung học, cứ khoảng hai năm, tôi lại tự cắt tóc (chỉ cắt phần đuôi thôi) bằng cái kéo làm bếp. Chỉ mất khoảng dăm phút, và nói thật, tôi nghĩ, ai bảo là khác nào? Giờ thì tôi thấy sự khác biệt rõ ràng. Không biết bằng cách nào Luigi đã làm mớ tóc cũ kỹ, tẻ nhạt của tôi trở nên sống động, tươi tốt với vẻ thoải mái mới mẻ, chảy dài trong làn gió nhẹ khi tôi bước đi, và đóng khung bộ mặt tôi như thể bộ mặt này xứng đáng để lên khung.
Hồi còn nhỏ, bà Rose đưa tôi đến hiệu cắt tóc trong làng mỗi khi bà làm đầu. Nhưng bà đủ khôn ngoan để không bao giờ đưa cả Janice và tôi đi cùng một lúc. Chỉ một lần duy nhất chúng tôi ngồi trên ghế ở hiệu cắt tóc, cạnh nhau, và đưa mặt vào sát nhau, cùng nhìn vào tấm gương lớn. Ông thợ già đã giơ bộ tóc buộc đuôi ngựa của chúng tôi lên và bảo:
-Nhìn xem! Cô này có bộ lông gấu, còn cô kia có mớ tóc của công chúa.
Bà Rose không đáp lại. Bà chỉ ngồi đó, lặng lẽ đợi ông ta nói xong. Bà trả tiền rồi cảm ơn ông ta thật nhanh và rõ ràng. Rồi bà lôi tuột chúng tôi ra cửa, như thể chính chúng tôi cư xử thiếu đàng hoàng, chứ không phải ông thợ cắt tóc. Từ ngày đó, Janice không bao giờ bỏ lỡ dịp khen ngợi mớ tóc đẹp như lông gấu của tôi.
Hồi ức đó khiến tôi suýt bật khóc. Tôi đang ở đây, mặc quần áo đẹp trong lúc bà bác Rose của tôi ở một nơi để không còn hiểu rằng cuối cùng, tôi đã thoát khỏi cái kén của mình. Nhìn thấy tôi như thế này – dù chỉ một lần thôi, - hẳn bà vui lắm nhưng tôi dám quả quyết rằng Janice sẽ chẳng bao giờ thích.
Chủ tịch Maconi là người phong nhã ở độ tuổi sáu mươi, ông mặc bộ comple và thắt cà vạt màu dịu, mái tóc dài chải từ một bên đầu, vắt qua đỉnh sang bên kia, điệu nghệ đến ngỡ ngàng. Ông giữ dáng điệu trang trọng cứng nhắc, nhưng trong cái nhìn của ông có vẻ ấm áp chân tình đến mức có thể xóa hết vẻ buồn cười ngay lập tức.
-Cô là cô Tolomei? – ông bước vội đến, nồng nhiệt bắt tay tôi như thể chúng tôi là bạn cũ. – Thật là một niềm vui bất ngờ.
Lúc cùng đi lên gác, chủ tịch Maconi xin lỗi vì những bức tường gồ ghề và sàn nhà cong queo bằng thứ tiếng Anh hoàn hảo. Ông giải thích và mỉm cười, ngay cả nhà thiết kế nội thất hiện đại nhất cũng không chông đỡ nổi một tòa nhà đã tám trăm năm tuổi.
Sau một ngày trục trặc không ngừng vì ngôn ngữ tôi nhẹ cả người vì cuối cùng cũng gặp được một người diễn đạt trôi chảy và chính xác ngôn ngữ của mình. Một chút âm sắc Anh cho thấy chủ tịch Maconi đã từng sống ở Anh một thời gian – có lẽ ông học ở đó – và trước hết, có thể giải thích lý do vì sao mẹ tôi lại chọn ông làm cố vấn tài chính cho bà.
Văn phòng của ông ở tầng thượng, và từ những cửa sổ có chấn song, ông có một phong cảnh hoàn hảo của nhà thờ San Cristoforo và vài tòa nhà đẹp mắt khác trong vùng. Tuy vậy, lúc bước tới, tôi suýt vấp phải một cái xô nhựa để giữa tấm thảm Ba Tư rộng, và sau khi biết chắc tôi vô sự, chủ tịch Maconi rất cẩn thận đặt cái xô vào đúng chỗ cũ, trước khi tôi đá nó đi.
-Có một chỗ bị dột trên mái nhà, - ông giải thích, ngước nhìn trần nhà bằng vữa nứt nẻ, - nhưng chúng tôi không thể tìm ra. Rất lạ là ngay cả khi trời không mưa, nước vẫn rỏ xuống. _ Ông nhún vai và ra hiệu mời tôi ngồi xuống một trong những chiếc ghế bằng gỗ gụ chạm khắc tinh xảo trước bàn mình. Ông chủ tịch cũ hay nói tòa nhà đang khóc. À mà ông ấy quen biết cha cô đấy.
Ngồi sau bàn, chủ tịch Maconi dựa vào lưng ghế da, ngả người hết mức và chống các đầu ngón tay vào nhau.
-Cô Tolomei, tôi có thể giúp gì cô đây?
Không hiểu sao, câu hỏi ấy khiến tôi kinh ngạc. Trước hết, tôi mải chú tâm vào việc đến đây mà ít nghĩ đến bước tiếp theo. Cho đến lúc này, tôi tin rằng Francesco Maconi sống hoàn toàn thoải mái trong trí tưởng tượng của tôi, biết rõ rằng tôi đến đây vì kho báu của mẹ tôi, ông ta đã nóng lòng đợi, đợi suốt nhiều năm ròng để cuối cùng, trao nó cho người kế thừa hợp pháp.
Song, ông Francesco Maconi thực sự không phải là con người sẵn lòng giúp đỡ đó. Tôi bắt đầu giải thích vì sao tôi đến đây, ông ta im lặng lắng nghe, chốc chốc lại gật đầu. Cuối cùng, khi tôi kể xong, ông ta trầm ngâm nhìn tôi, mặt ông không lộ ra một kết luận nào.
-Vì thế tôi đang tự hỏi, - tôi nói tiếp, nhận ra mình đã quên bẵng phần quan trọng nhất– liệu ông có thể dẫn tôi tới két an toàn của mẹ tôi không?
Tôi rút chìa khóa trong xắc ra và để lên bàn, nhưng chủ tịch Maconi chỉ liếc nhìn. Sau một lát im lặng lúng túng, ông đứng dậy và đến bên cửa sổ, tay chắp sau lưng, ông cau mày nhìn ra các mái nhà của Siena.
-Mẹ cô là một người phụ nữ khôn ngoan, - cuối cùng ông nói. –Khi Chúa Trời đưa người thông thái lên Thiên đường, Người để lại trí khôn của họ cho chúng ta. Linh hồn họ sống mãi, lặng lẽ bay lượn quanh chúng ta như những con cú, có thể nhìn thấy trong bóng đêm, trong khi cô và tôi chỉ thấy bóng tối. – Ông dừng lại, lay thử một tấm kính lớn sắp long ra. – Trong một số mặt, cú là biểu tượng đúng nhất cho toàn thể Siena, không chỉ khu vực của chúng ta.
-Vì…toàn thể dân chúng ở Siena đều thông thái sao? – Tôi gợi ý, không biết chắc ông sẽ đi đâu.
-Vì loài cú đã xuất hiện từ thời cổ xưa. Với người Hy Lạp, cú là nữ thần Athena. Một trinh nữ, nhưng cũng là một chiến binh. Người La Mã gọi bà là nữ thần Minerva. Trong các thời đại La Mã ở Siena có một ngôi đền thờ nữ thần này. Chính vì thế ngày từ thời cổ đại, trong trái tim chúng ta luôn tồn tại tình yêu Đức Mẹ Đồng Trinh Maria trước khi Chúa ra đời. Với chúng ta, bà luôn ở đây.
-Thưa chủ tịch Maconi…
-Cô Tolomei. – Cuối cùng, ông quay mặt về phía tôi. – TÔI đang cố hình dung mẹ cô muốn tôi làm gì. Cô đòi tôi cho cô một thứ đã gây ra cho bà rất nhiều đau thương. Liệu bà có thực muốn tôi đưa nó cho cô không? – Ông gượng cười. – Nhưng đây không phải là quyết định của tôi nhỉ? Bà đã để lại nó lại đây, không phá hủy nó, vì thế chắc bà muốn tôi trao nó cho cô, hoặc người nào đó. Vấn đề là: Liệu cô chắc là muốn có nó hay không?
Tiếp theo lời ông, cả hai chúng tôi đều nghe thấy trong im lặng, âm thanh của giọt nước rơi vào cái xô nhựa trong một ngày đẹp nắng, rất rõ ràng.
Sau khi gọi người giữ chiếc chìa khóa thứ hai, một signor Virgilio ủ rũ, chủ tịch Maconi dẫn tôi xuống một cầu thang riêng biệt – một cầu thang cổ xoắn trôn ốc bằng đá, chắc phải có từ thời tòa nhà bắt đầu được xây dựng, dẫn vào những hang sâu nhất của nhà băng. Lần đầu tiên tôi được biết một thế giới khác, trọn vẹn bên dưới Siena, thế giới của hàng động và bóng tối, tương phản gay gắt với thế giới của ánh sáng bên trên.
- Chào mừng đến Bottini, - chủ tịch Maconi nói lúc chúng tôi đi qua một hang động giống như một đường phố nhỏ. - Đây là cống dẫn nước ngầm cổ xưa, xây từ một ngàn năm trước, dẫn nước vào thành phố Siena. Toàn bộ cống xây bằng sa thạch và với các dụng cụ thô sơ hồi đó, những tay thợ lành nghề ở Siena đã đào một hệ thống đường hầm mênh mông, dẫn nước sạch đến các vòi phun nước công cộng và vào cả một số tầng hầm của nhà riêng. Lẽ tất nhiênhiện giờ nó không còn được dùng nữa.
-Nhưng người ta xuống đây bằng cách nào? – Tôi hỏi, sờ vào bức tường sa thạch ram ráp.
-Ồ, không! – Chủ tịch Maconi bật cười vì sự ngây thơ của tôi. –Đây là một nơi nguy hiểm. Cô rất dễ bị lạc. Không ai biết được mọi thứ về Botiini. Có nhiều câu chuyện, nhiều câu chuyện về những đường hầm bí mật từ đây tới kia, nhưng chúng tôi không muốn người ta cứ chạy quanh đây để tìm hiểu về những câu chuyện đó. Cô thấy đấy, sa thạch rất xốp. Nó đang bở tơi. Và toàn thành phố Siena đang ở ngay bên trên.
Tôi rụt tay lại.
-Nhưng bức tường này đã được…gia cố?
Trông chủ tịch Maconi hơi ngượng ngùng:
-Không.
-Nhưng đây là một nhà băng. Nếu như thế thì … nguy hiểm quá.
-Trước kia, - ông đáp, nhếch lông mày lên, không tán thành, - có người cố đột nhập. Chỉ một lần thôi. Họ đào một đường hầm. Mất nhiều tháng ròng.
- Họ có thành công không?
Chủ tịch Maconi chỉ một camera an ninh gắn trên cao, trong một góc tối tăm.
- Khi chuông báo động tắt, họ trốn thoát qua đường hầm, nhưng ít ra họ không lấy trộm được gì cả.
- Họ là ai? – Tôi hỏi. – Rồi các ông có tìm ra không?
Ông nhún vai:
-những tên găngxtơ ở Napoli. Chúng không bao giờ dám trở lại.
Cuối cùng, chúng tôi tới một khung cửa vòm, chủ tịch Maconi và signor Virglilio phải vất vả lắm mới mở được cánh của đồ sộ với chiếc chìa khóa thẻ.
- Cô thấy chưa? – Chủ tịch Maconi tự hào vì đặc điểm này. – Ngay cả chủ tịch cũng không thể mở cửa vòm này một mình. Như người ta thường nói, sức mạnh tuyệt đối hủy hoại tuyệt đối.
Bên trong hầm, các két an toàn gắn kín trên tường từ sàn đến trần. Hầu hết là nhỏ, nhưng có một số to như ngăn gửi hành lý ở sân bay. Két của mẹ tôi té ra ở vào khoảng giữa, và ngay khi chủ tịch Maconi chỉ vào đó, rồi giúp tôi tra chìa khóa, ông và signo Virgilio lịch sự ra khỏi phòng. Lúc sau, nghe thấy tiếng quẹt diêm, tôi biết rằng họ đang tranh thủ hút thuốc ở hành lang bên ngoài. Từ khi đọc thư của bà Rose lần đầu, tôi đã ấp ủ nhiều ý tưởng về kho báu của mẹ tôi, và cố hết sức không quá mong đợi để khỏi thất vọng. Nhưng trong những lúc không kiềm chế nổi trí tưởng tượng, tôi tưởng như mình sẽ tìm thấy một hộp vàng lộng lẫy, khoá kín đầy hứa hẹn, chẳng khác gì những hòm châu báu mà bọn cướp biển đào được trên các hòn đảo hoang.
Mẹ tôi để lại cho tôi một thứ đúng y như thế, Đó là một cái hộp bằng gỗ, trang trí bằng vàng, không khóa hẳn, các móc cài đã han gỉ, ngăn tôi không thể làm gì hơn là chỉ lắc nhẹ thử xem bên trong có gì. Nó có kích thước bằng cái lò nướng nhỏ, nhưng nhẹ lạ lùng, và ngay lập tức tôi loại trừ khả năng bên trong đựng vàng hoặc châu báu. Nhưng, của cải tồn tại dưới nhiều dạng và chất khác nhau, còn tôi chắc chắn không phải là người thèm khát ăn ngấu nghiến những tờ tiền có ba con số.
Lúc chúng tôi chào tạm biệt nhau, chủ tịch Maconi nhất quyết gọi taxi cho tôi.. Nhưng tôi nói với ông là không cần cái hộp nhét vào túi mua hàng của tôi rất vừa, vả lại, khách sạn Chiusarelli cách đây không xa lắm.
-Tôi muốn cô cẩn thận khi đi bộ với thứ đó, - ông nói.- Mẹ cô là người luôn thận trọng.
-Nhưng có ai biết tôi ở đây đâu? Và biết là tôi mang cái này?
Ông nhún vai:
-Bọn Salimbeni…
Tôi nhìn ông chằm chằm, không biết ông có thực sự quan trọng hóa vấn đề không.
-Xin ông đừng nói mối thù truyền kiếp xưa cũ của hai dòng họ vẫn còn!
Chủ tịch Maconi ngoảnh đi bứt rứt vì chủ đề này:
-Một Salimbeni sẽ luôn luôn là một Salimbeni.
Rời khỏi lâu đài Tolomei, tôi tự nhắc lại câu đó vài lần, tự hỏi nó chính xác nghĩa là gì. Cuối cùng, tôi quyết định rằng chẳng nên mong chờ gì hơn ở nơi này; dựa vào những câu chuyện của Eva Maria về sự kình địch gay gắt của các khu vực trong Plio hiện đại, mối cừu hận của các dòng họ cổ xưa từ thời Trung cổ đến nay vẫn còn rất mạnh mẽ, dẫu vũ khí đã thay đổi.
Lưu tâm đến di sản Tolomei của mình, tôi giữ dáng vẻ hiên ngang lúc đi qua lâu đài Salimbeni lần thứ hai trong ngày hôm ấy, chỉ để Allessandro biết rằng – nếu anh ta tình cờ nhìn ra cửa sổ vào đúng lúc đó – có một sheriff mới trong thành phố.
Lúc tôi liếc nhìn lại phía sau xem liệu chỉ có một mình tôi không, tôi nhận ra một người đàn ông đang đi sau tôi. Không hiểu sao, trông gã không hợp cảnh; đường phố đầy những du khách vui vẻ, những bà mẹ đẩy xe nôi, những người vận đồ công sở, nói chuyện rất to tiếng vào điện thoại di động với những người vô hình nào đó. Trái lại, người này mặc bộ thường phục bẩn thỉu, đeo cặp kính râm tráng gương, nhưng không che giấu được thực tế là gã đang nhìn chằm chằm vào cái túi của tôi.
Hay tôi tự tưởng tượng ra chuyện này? Những lời của chỉ tịch Maconi lúc chia tay đã làm tôi mất bình tĩnh chăng? Tôi dừng lại trước một tủ kính bày hàng, rát mong người đó sẽ đi qua và tiếp tục đường của hắn. Nhưng không. Tôi vừa đứng yên, gã cũng dừng lại, giả vờ nhìn vào tờ áp phích trên tường. Lần đầu tiên, tôi cảm thấy những cái nhói đau của sự sợ hãi, như Janice thường gọi, và thở sâu vài hơi, tôi điểm qua các lựa chọn. Nhưng thực ra chỉ có một việc duy nhất để làm. Nếu tôi vẫn đi, gã sẽ có nhiều cơ hội lén đến gần và giằng lấy cái túi khỏi tay tôi, hoặc tệ hơn, gã sẽ đi theo để xem tôi nghỉ ở đâu, rồi sau đó đến thăm tôi.
Tôi ngập ngừng bước vào một cửa hàng, rồi vừa vào hẳn bên trong, tôi chạy ngay đến chỗ lễ tân và hỏi liệu tôi có thể ra khỏi đây bằng cửa hậu không. Chỉ ngước lên khỏi tờ tạp chí xe máy, anh ta chỉ vào một cánh cửa ở đầu kia căn phòng.
Mười giây sau, tôi đã lao ra một ngõ phố hẹp, gần một dãy xe Vespa đỗ sát nhau. Tôi không biết mình đang ở đâu, nhưng điều đó không quan trọng. Quan trọng là tôi vẫn còn nguyên mấy cái túi.
Khi chiếc taxi thả tôi ở sau khách sạn Chiusarelli, tôi sung sướng trả tiền cho chuyến đi. Nhưng khi tôi biếu người lái xe tiền trà thuốc quá nhiều, anh ta lắc đầu phải đối và trả lại gần hết.
-Cô Tolomei! – giám đốc Rossini tiến thẳng đén chỗ tôi với vẻ hoảng hốt, ngay lúc tôi vừa bước vào tiền sảnh. – Cô ở đâu đấy? Đại úy Santini vừa ở đây. Mặc quân phục! Có chuyện gì thế?
- Ồ!-Tôi cố mỉm cười. – Có lẽ anh ấy đến mời tôi đi uống cà phê chăng?
Giám đốc Rossini nhìn tôi trừng trừng, lông mày ông rướn lên thành hình vòng cung, tỏ vẻ không tán thành:
- Tôi không nghĩ đại úy đến đây với mục đích trần tục, cô Tolomei ạ. Tôi rất mong cô gọi cho anh ấy. Đây, - ông ta đưa cho tôi tấm danh thiếp như thể đó là chiếc bánh thánh. – Đây là số điện thoại của anh ấy viết ở mặt sau, cô thấy chưa? Tôi mong rằng, - giám đốc Rossini cao giọng lúc tôi đi qua ông để xuống đại sảnh, - cô sẽ gọi cho anh ấy ngay bây giờ!
Mất tới một giờ - và vài chuyến qua lại bàn lễ tân của khách sạn tôi mới mở được cái hộp. sau khi thử mọi thứ dụng cụ tôi có, như chìa khóa khách sạn, bàn chải răng, ống nghe điện thoại, tôi chạy xuống mượn nào nhíp, nào bấm móng tay, rồi kìm, và cuối cùng là tua-vit, thừa biết rằng mỗi lần nhìn thấy tôi, giám đốc Rossini trông càng ít thân thiện hơn.
Mẹo cuối cùng chưa mở hẳn được cái móc cài han gỉ nhưng tôi phải mất một lúc mới nới lỏng được ổ khóa, vì cái tua-vít quá nhỏ. Nhưng tôi chắc giám đốc Rossini sẽ nổi khùng nếu tôi xuất hiện ở bàn tiếp tân của ông thêm lần nữa.
Với những cố gắng này, hy vọng và mong đợi của tôi về những thứ chứa trong hộp mỗi lúc một dữ dội hơn, và khi có thể mở được nắp, tôi chỉ còn biết thở nhẹ để đề phòng. Thấy hộp nhẹ như thế, tôi tin rằng trong hộp là một thứ mỏng manh và rất giá trị, nhưng khi nhìn vào bên trong, tôi nhận ra mình đã lầm.
Trong hộp chẳng có thứ gì mỏng manh, chính xác là chẳng có gì ngoài giấy má. Những tờ giấy tẻ nhạt. không tiền, không cổ phiếu hoặc di chúc hay bất kỳ thứ gì khác thuộc chứng khoán, ngoài những bức thư trong phong bì và nhiều tờ văn bản đánh máy được ghim lại hoặc cuộn tròn và buộc dây cao su đã mục. Những đồ vật có tính thực tế duy nhất trong hộp là một cuốn sổ tay với nhiều dòng nguệch ngoạc, một cuốn Romeo và Juliet bìa mềm, rẻ tiền của Shakespeare, một sợi dây chuyền bạc có mặt là cây thánh giá cũ.
Tôi kiểm tra cây thánh giá một lúc, tự nhủ nó đã quá cũ và liệu có giá trị gì không. Nhưng tôi ngờ lắm. Dẫu nó là đồ cổ, song chỉ làm bằng bạc và nhìn chẳng có gì đặc biệt.
Cuốn Romeo và Juliet bìa mềm cũng thế. Tôi giở qua vài lần, xem có thứ gì giá trị, nhưng nó chỉ làm tôi sửng sốt vì đó là thứ ít hứa hẹn nhất, không có lấy một dòng ghi chú bằng bút chì bên lề.
Mặt khác cuốn sổ tay có vài bức vẽ thú vị - với chút ít thiện chí- chỉ rõ những gì phải làm để săn tìm kho báu. Hay có khi chỉ là những phác họa trong các chuyến thăm bảo tàng và các công viên có tượng. Cụ thể là một pho tượng đã lọt vào mắt mẹ tôi – nếu cuốn sổ và những bức vẽ này đúng là của bà – và tôi hiểu vì sao.
Tranh vẽ một nam và một nữ; người đàn ông đang quỳ gối, ôm người phụ nữ trong tay mắt cô ta không mở, tôi đoán cô đang ngủ hoặc đã chết. Trong sổ có ít nhất khoảng hai chục bức vẽ khác nhau về pho tượng này, nhiều bức nhấn mạnh các chi tiết như nét mặt và nói thật chẳng bức nào khiến tôi hiểu hơn vì sao mẹ tôi lại bị nó ám ảnh đến thế.
Ở đáy hộp để mười sáu bức thư riêng. Năm bức của bà Rose, van nài mẹ tôi từ bỏ “những ý định khờ dại” và trở về nhà; bốn bức khác cũng của bà Rose nhưng gửi sau đó, và mẹ tôi không bao giờ mở ra. Những thư còn lại bằng tiếng Ý, của những người tôi không hề biết.
Lúc này, chẳng còn gì trong hộp ngoài các văn bản đánh máy. Một số bản gấp nếp và phai màu, những bản khác mới hơn và cứng hơn, phần lớn bằng tiếng Anh, ngoài ra có một bản viết bằng tiếng Ý. Không bản nào có vẻ là bản gốc, - trừ bản tiếng Ý – tất cả đều là bản dịch và chắc hẳn được đánh máy trong khoảng một trăm năm gần đây.
Khi đọc kỹ cả mớ đó, dần dần tôi hiểu rằng thực ra vẫn có lý lẽ riêng trong vẻ điên rồ bề ngoài, và khi nhận thức được điều đó, tôi vội trải các văn bản này lên giường theo thứ tự niên đại:
Nhật ký của Danh họa Ambrogio (1340)
Những bức thư của Giulietta gửi Giannozza(1340)
Lời thú nhận của tu sĩ Lorenzo (1340)
Lời nguyền trên tường (1370)
Ba mươi ba truyện của Masuccio Salernitano (1476)
Romeo và Juliet của Luigi da Porto (1530)
Romeo và Juliete của Matteo Bandello (1554)
Romeus và Juliet của Arthu Brooke (1562)
Romeo và Juliet của William Shakespeare (1597)
Cây phả hệ của Giulietta và Giannozza
Tuy nhiên, khi đã bày mọi thứ ra trước mắt, tôi càng có cảm giác đây là một bộ sưu tập. Bốn văn bản đầu – tất cả đều từ thế kỷ 14 – đều khó hiểu và đứt đoạn, trong khi những bản sau rõ ràng hơn. Nhưng quan trọng nhất, tất cả các bản sau đều có một điểm chung: tất thảy là các bản phóng tác truyện Romeo và Juliet, đỉnh cao là bản phần lớn mọi người đều biết: Thảm kịch tuyệt vời và bi thương nhất của Romeo và Juliet của Shakespeare.
Dù tôi luôn tự coi mình có chút chuyên môn về vở kịch này, tôi vẫn rất kinh ngạc khi phát hiện ra rằng thực ra, Shakespeare không phải là người sáng tác ra câu chuyện, mà ông chỉ dựa theo các nhà văn đi trước. Dẫu có như vậy, Shakespeare vẫn là một thiên tài chữ nghĩa, nếu như ông không cho toàn bộ câu chuyện chạy qua cỗ máy thơ năm âm tiết của mình chưa chắc nó đã được biết đến rộng rãi như thế. Tuy vậy, - theo quan niệm khiêm tốn của tôi – có vẻ như nó đã là câu chuyện hay về một lời nguyền khi lần đầu tiên xuất hiện trên bàn ông. Và bản phóng tác đầu tiên rất thú vị - bản của Masucio Salernitano năm 1476 – vì câu chuyện không bắt đầu ở Verona, mà ở ngay đây, ở Siena.
Phát kiến văn chương này khiến tôi rối trí vì, nói thật lòng, tôi không giấu nổi nỗi thất vọng riêng, khá lớn. Trong hộp của mẹ tôi chẳng có gì giá trị về tiền bạc, và tất cả chỗ giấy tờ tôi đã xem, cũng chẳng có mảy may gợi ý nào về các thứ quý giá của gia đình được chôn giấu ở đâu đó.
Lẽ ra, tôi nên xấu hổ vì suy nghĩ như thế; lẽ ra, tôi nên cảm kích hơn vì cuối cùng, tôi đang giữ trong tay một kỷ vật của mẹ tôi.
Nhưng tôi qua bối rối nên khó mà giữ được lý trí. Tại sao bà bác Rose lại tin rằng có một thứ vô cùng giá trị đang bị đe dọa, xứng đáng cả một chuyến đi đến nơi mà bà vẫn coi là nguy hiểm nhất, là đất nước Italy này? Tại sao mẹ tôi lại cất cái hộp đựng toàn giấy tờ này trong nhà băng? Lúc này tôi thấy mình ngớ ngẩn, nhất là khi nghĩ đến người đàn ông mặc thường phục. Đương nhiên, anh ta không đi theo tôi. Hẳn đấy cũng là một điều tưởng tượng trong mọi thứ tưởng tượng phong phí của tôi mà thôi.
Tôi bắt đầu đọc lướt qua hai bản đầu, không nhiệt tình lắm. Đó là Lời thú nhận của tu sĩ Lorenzo và Những bức thư của Giulietta gửi Giannozza, cả hai đều làbộ sưu tập những câu rời rạc như “ Em thề với Đức Mẹ Đồng Trinh rằng, em đã hành động theo ý muốn của Thượng Đế” và “nằm trong quan tài suốt dọc đường đến Siena, để đề phòng bọn cướp Salimbeni”
Nhật ký của danh họa Ambrogio dễ đọc hơn, nhưng khi bắt đầu đọc qua, tôi gần như ước giá mình đừng đọc. Dù danh họa này là ai, ông ta đã bị thổ tả trầm trọng theo đúng nghĩa và viết cả một cuốn nhật ký về mọi chuyện tầm phảo xảy ra với ông ta – và, cứ theo bề ngoài mà xét, thì với các bạn của ông ta nữa – trong năm 1340. Tôi có thể nói rằng, nó chẳng dính dáng gì đến tôi hoặc đến bất cứ thứ gì trong chiếc hộp của mẹ tôi.
Đúng lúc đó, mắt tôi chợt nhìn thấy một cái tên giữa văn bản của nhà danh họa.
Giulietta Tolomei
Tôi cuống cuồng xem kỹ trang này dưới ngọn đèn cạnh giường. Nhưng không, tôi không nhầm; sau những mơ màng ban đầu, vất vả mãi mới miêu tả được một mỹ nhân hoàn hảo, danh họa Ambrogio lắm lời này viết hết trang này đến trang khác về một thiếu nữ tình cờ có cái tên giống hệt tôi. Trùng hợp ư?
Ngả người trên giường, tôi bắt đầu đọc từ đầu cuốn nhật ký, thỉnh thoảng tham khảo chéo những đoạn rời rạc khác. Cuộc hành trình trở lại Siena vào năm 1340, và quan hệ họ hàng của tôi với người phụ nữ có tên giống hệt tôi đã bắt đầu như thế.