← Quay lại trang sách

Chương 2 (2) Ngồi xuống nào, ông Capulet-Ông và tôi đã qua cái thời nhảy nhót lâu rồi-

Tôi không thể nhớ đêm hôm ấy mình đã đọc được đến đâu, nhưng cuối cùng, khi tôi gục trên đống giấy, bên ngoài chim chóc bắt đầu hót líu lo. Lúc này tôi đã hiểu mối liên quan giữa nhiều văn bản khác nhau trong chiếc hộp của mẹ tôi; tất cả đều là các bản Romeo và Juliet – mỗi bản theo một kiểu – trước Shakespeare. Thú vị hơn, các bản từ năm 1340 không phải là hư cấu, chúng là những miêu tả xác thực, chứng kiến tận mắt các sự kiện góp phần sáng tác nên câu chuyện nổi tiếng kia.

Dù không xuất đầu lộ điện trong nhật ký, danh họa Ambrogio bí ẩn hình như biết rất rõ những người thật đằng sau các nhân vật bất hạnh nhất trong văn chương. Tôi phải thừa nhận rằng không dòng nào của ông chồng chéo quá nhiều với bi kịch của Shakespeare, nhưng, hơn hai thế kỷ rưỡi đã qua giữa các sự kiện thật với vở kịch của Shakespeare, và câu chuyện chắc hẳn đã qua tay nhiều tác giả khác nữa.

Háo hức san sẻ những hiểu biết của mình với ai đó biết đánh giá, - không phải ai cũng thấy buồn cười khi, qua nhiều thời đại, hàng triệu du khách vẫn lũ lượt kéo đến thành phố để ngắm nhìn cái ban công phần mộ của Juliet mà không hề biết nơi đó là không đúng. – Sáng ra, vừa tắm xong, tôi gọi ngay cho Umberto.

- Xin chúc mừng! – Ông kêu tokhi nghe tôi kể đã dụ thành công chủ tịch Maconi cho tôi lấy chiếc hộp của mẹ tôi.

- Bây giờ chắc cô giàu sụ rồi nhỉ?

- Ờ,- tôi nói, liếc nhìn cả đống hỗn độn trên giường. – Cháu không nghĩ trong hộp kia có châu báu. Giá như có một báu vật.

- Lẽ tất nhiên là có cả một kho báu, - Umberto phản công, - nếu không mẹ cô gửi nó ở nhà băng làm gì? Xem cho cẩn thận nhé.

- Có một thứ…-Tôi ngừng một chút, cố tìm cách nói để không vẻ ngớ ngẩn. – Cháu cho rằng cháu có mối liên quan nào đó với Juliet của Shakespeare.

Tôi cho rằng không thể trách khi Umberto bật cười, nhưng dù sao tôi cũng mếch lòng.

- Cháu biết nghe có vẻ kỳ cục, - tôi nói tiếp, cắt ngang tiếng cười của ông, - nhưng tại sao bọn cháu cùng tên là Giulietta Tolomei?

- Cô định nói tới Juliet Capuilets ư? – Umberto sửa lại. – Tôi không thích làm cô cụt hứng, công chúa ạ, nhưng tôi không chắc nàng có thật trên đời…

- Tất nhiên là không! – Tôi nói lại, mong không bao giờ phải nói đến việc này nữa. – Nhưng hình như câu chuyện lấy cảm hứng từ những người có thật…Ồ, bác đừng để tâm! Cuộc sống ở bên ấy ra sao rồi ạ?

Sau khi tạm nghỉ, tôi bắt đầu giở qua những bức thư bằng tiếng Ý mà mẹ tôi nhận được từ hơn hai chục năm trước. Ở Siena chắc phải có người biết cha mẹ tôi, và có thể giải đáp mọi câu hỏi mà bà Rose một mực gạt đi. Nhưng không biết có người Italy nào sẵn lòng thuật lại những bức thư do bạn bè hoặc gia đình mẹ tôi viết; manh mối duy nhất của tôi là một trong những thư ấy bắt đầu bằng: “Carissima Diana” và tên người gửi là Pia Tolomei.

Mở bản đồ thành phố vừa mua hôm trước cùng quyển từ điển, tôi dành thời gian đi tìm địa chỉ viết nguệch ngoạc ở mặt sau phong bì, cuối cùng xác định được nó là một quảng trường nhỏ xíu, tên là Castelare ở khu thương mại Siena. Nó ở chính giữa khu Cú, lãnh địa của gia đình tôi, cách lâu đài Tolomei không xa, nơi hôm trước tôi đã gặp chủ tịch Maconi.

Nếu tôi may mắn, Pia Tolomei – dù bà là ai đi nữa – nếu vẫn còn sống, sẽ sốt sắng trò chuyện với con gái của Diana Tolomei và đủ minh mẫn để nhớ ra vì sao.

Quảng trường Castellare giống một pháo đài nhỏ trong lòng thành phố, và thật không dễ dàng để tìm ra nó. Sau khi đi bộ qua đó vài lần, rốt cuộc tôi phát hiện ra mình đã xuyên qua một phố hẻm có mái mà lúc đầu ngỡ là lối vào một cái sân riêng. Khi đã ở trong quảng trường, tôi mắc kẹt giữa những tòa nhà cao, lặng lẽ, và khi ngước nhìn các cửa chớp đóng chặt trên tường quanh mình, tôi gần như tưởng tượng ra một lúc nào đó ở thời Trung cổ, người ta đã khép chặt các cánh chớp và từ đó không bao giờ mở ra nữa.

Thực ra, nếu không có hai chiếc Vespa đỗ ở góc, một con mèo mướp có cái cổ đen bóng ngồi chồm chỗm trên ngưỡng cửa, tiếng nhạc phát ra từ một cửa sổ lẻ loi mở rộng, tôi đã ngỡ các tòa nhà bị bỏ quên từ lâu, trở thành nơi trú ngụ của lũ chuột và những bóng ma.

Tôi rút chiếc phong bì tìm thấy trong hộp của mẹ tôi và nhìn lại địa chỉ một lần nữa. Theo bản đồ, tôi đã ở đúng chỗ, nhưng khi đi một vòng, tôi không sao tìm ra cái tên Tolomei trên bất cứ cái chuông nào, cũng không sao tìm ra con số tương ứng với số nhà trên thư. Tôi cho rằng, làm người đưa thư ở một nơi như thế này, sự sáng suốt ắt hẳn là điều kiện tiên quyết.

Không biết làm gì hơn, tôi bèn giật chuông cửa, mỗi cái một tiếng. Khi tôi sắp giật đến cái chuông thứ tư, một người đàn bà mở tung hai cánh chớp bên trên và quát to bằng tiếng Ý.

Đáp lại, tôi giơ bức thư:

- Pia Tolomei

- Tolomei?

- Vâng! Bà có biết bà ấy sống ở đâu không? Bà ấy còn sống ở đây không?

Bà ta chỉ một cánh cửa bên kia quảng trường và nói gì đó, có lẽ ngụ ý: “thử đến đằng kia”.

Chỉ đến lúc này tôi mới nhận ra một cánh cửa có vẻ hiện đại hơn, với tay cầm đên – trắng được chạm trổ tinh tế ở bức tường phía xa, và khi thử vặn, cánh của liền mở ngay. Tôi dừng lại một lát, không rõ phép tắc chính xác khi vào các tư gia ở Siena ra sao. Trong lúc đó,người phụ nữ ở cửa sổ đằng sau cứ giục tôi vào trong – rõ ràng bà ta thấy tôi tối dạ một cách khác thường – và thế là tôi làm theo.

-Xin chào. – Tôi rụt rè bước qua ngưỡng cửa và nhìn chăm chú vào bóng tối mát mẻ. Khi đã quen mắt, tôi thấy mình đứng trong một phòng ngoài có trần rất cao, nhiều tấm thảm thêu, tranh vẽ và đồ cổ trưng bày trong các tủ kính vây quanh. Tôi buông cánh cửa và gọi to:

-Có ai ở nhà không? Bà Tolomei?

Nhưng tôi chỉ nghe thấy tiếng cánh cửa khép lại sau lung như một tiếng thở dài.

Không biết chắc phải làm gì tiếp, tôi bắt đầu xuống hành lang, ngắm các đồ cổ ven đường đi. Trong số đó có một bộ sưu tập các lá cờ dài thẳng đứng in hình ngựa, tháp và phụ nữ, tất cả trông đều giống Đức Mẹ Đồng Trinh Maria. Rất ít thứ rất cổ và phai màu, các món đồ khác đều hiện đại và sặc sỡ; chỉ lúc đến cuối hàng, một ý nghĩ chợt lóe lên trong tôi rằng đây không phải là nhà riêng, mà thuộc loại bảo tang hoặc nhà công cộng.

Cuối cùng, tôi nghe thấy tiếng bước chân không đều và một giọng nói trầm trầm, gọi to một cách nôn nóng:

-Salvatore phải không?

Tôi quay lại, đối diện với chủ nhà, vô tình xuất hiện từ căn phòng bênh cạnh, chống nạng. Ông đã già, chắc khoảng ngoài bảy mươi và vẻ khắc khổ khiến ông trông càng già hơn.

-Salva….? –ông dừng lại ngay lập tức khi nhìn thấy tôi, và nói thêm gì đó, có vẻ không đặc biệt đón mừng.

-Ciao! – Tôi nói, phần nào cảnh giác và giơ bức thư như người ta giơ cây thánh giá trước giới quý tộc Transylvaia. – Tôi đang tìm bà Pia Tolomei. Bà ấy quen biết cha mẹ tôi. – Tôi chỉ vào mình. – Tôi là Giulietta Tolomei. To-lo-mei.

Ông già đến chỗ tôi, nặng nề dựa lên cây nạng và giật mạnh bức thư khỏi tay tôi. Ông ngờ vực nhìn phong bì, lật lên lật xuống vài lần và đọc đi đọc lại địa chỉ cả người nhận lẫn người gửi.

- Vợ tôi đã gửi thư này từ nhiều năm trước, - cuối cùng, ông ta nói bằng thứ tiếng Anh uyển chuyển đến ngạc nhiên, - cho Diana Tolomei. Bà ấy…hừm…là dì tôi. Cô tìm thấy thư này ở đâu?

- Diana là mẹ tôi, - tôi nói, giọng tôi vang lên nghe nhút nhát lạ lùng trong căn phòng rộng lớn.- Tôi là Giulietta, là chị trong hai chị em song sinh. Tôi muốn đến và thăm Siena, xem nơi mẹ tôi đã sống. Ông có …nhớ ra mẹ tôi không?

Ông già không trả lời ngay. Ông nhìn tôi với cặp mắt đầy băn khoăn, rồi giơ tay ra chạm vào má tôi để biết chắc là tôi có thật.

-Bé Giulietta đấy ư? – Cuối cùng, ông nói, - Lại đây! – Ông chộp lấy vai tôi và kéo tôi lại, ôm thật chặt. – Ta là Peppo Tolomei, cha đỡ đầu của cô đây.

Tôi chợt hiểu mình phải làm gì. Bình thường, tôi không phải là người chạy quanh ôm người khác – tôi để việc đó cho Janice – nhưng ông già này làm tôi không để tâm.

-Tôi xin lỗi đã đường đột…- Tôi bát đầu nói rồi ngừng lại, không biết nói gì tiếp.

-Không - không- không- không- không- không! – Peppo gạt phắt đi. – Ta rất mừng vì cô đã đến đây! Đi nào, ta sẽ chỉ cho cô xem bảo tàng! Đây là bảo tàng của lãnh địa Cú…- Ông không biết bắt đầu từ đâu và tập tễnh trên cây nạng, tìm thứ ấn tượng để chỉ cho tôi. Nhưng thấy vẻ mặt của tôi, ông dừng ngay. - Ồ không! Cô không muốn xem bảo tàng! Cô muốn nói chuyện kia! Đúng, chúng ta phải nói chuyện!- Ông giơ tay lên và suýt đụng vào cây nạng vào một pho tượng. – Ta phải được nghe mọi chuyện. Vợ ta – chúng ta phải đi gặp bà ấy. Bà ấy sẽ vui lắm đây. Bà ấy đang ở nhà. Salvatore!.. Ôi chao, hắn ở đâu nhỉ?

Năm phút sau, tôi đã lao vọt ra khỏi quảng trường Castellare, ngồi sau chiếc xe Vespa màu đỏ-đen. PeppoTolomei giúp tôi ngồi lên yên với vẻ lịch sự như cách một nhà ảo thuật giúp cô trợ lý trẻ đáng yêu chui vào cái hòm mà ông ta định cưa làm đôi, và tôi vội nắm chặt lấy cái móc trên xe cho vững, sau đó chúng tôi lao vọt qua phố hẻm có mái, không đụng phải ai.

Peppo nhất quyết đóng cửa bảo tàng ngay lập tức và đưa tôi đi gặp Pia, vợ ông và bất cứ ai tình cờ có mặt ở đó. Tôi rất vui vẻ nhận lời mời vì ngỡ ngôi nhà ông nói tới chắc chỉ ở quanh góc phố. Chỉ đến khi chúng tôi lao như tên lên Corso, qua lâu đài Tolomei, tôi mới nhận ra mình lầm.

- Có xa không ạ? – Tôi hét và bám chặt hết mức có thể.

- Không – không – không! – Peppo đáp, suýt đâm phải một bà xơ đang đẩy một ông già trên xe lăn. – Đừng lo, chúng ta sẽ gọi tất cả mọi người và có một cuộc đoàn tụ gia đình vui vẻ! – Phấn khích vì viễn cảnh đó, ông bắt đầu miêu tả tất cả các thành viên trong gia đình mà tôi sắp gặp, tuy tôi chỉ nghe được loáng thoáng trong gió. Ông kể quá mải miết nên không nhận thấy rằng lúc chúng tôi đi ngang qua lâu đài Salimbeni, ông đã lao thẳng vào những người lính gác, buộc họ phải nhảy sang một bên.

-Kìa! – Tôi kêu lên, không hiểu Peppo có nhận thấy chúng tôi có thể có cuộc đoàn tụ gia đình vui vẻ trong nhà tù không. Nhưng những người lính gác không ngăn chúng tôi lại, chỉ đứng đó quan sát chúng tôi lao qua đường, giống như đàn chó bị xích chặt giương mắt theo dõi một con sóc phủ đầy lông tơ oai vệ băng qua đường. Thật không may, một trong những lính gác đó là Allessandro, con trai đỡ đầu của Eva Maria, và gần như chắc chắn anh ta nhận ra tôi, vì anh tỏ ra kinh ngạc khi thấy tôi ngồi đu đưa hai chân, có lẽ đang tự hỏi đôi dép lê của tôi ra sao rồi.

- Peppo! – Tôi hét lên, giật dây đeo quần của ông anh họ. – Em thực sự không muốn bị bắt đâu!

- Đừng lo – Peppo rẽ vào một góc phố và tăng tốc. – Ta đi quá nhanh để không bị cảnh sát bắt đấy!

Một lúc sau, chúng tôi lao qua cổng một thành phố cổ kính, giống như con chó xù lao qua cái vòng, và bay thẳng vào một công trình nghệ thuật của mùa hè Tuscan rực rỡ. Lúc tôi ngồi đó, ngắm phong cảnh qua vai ông, tôi rất muốn được rót đầy sự quen thuộc trong chuyến trở về quê nhà. Nhưng mọi thứ quanh tôi đều mới lạ, hơi ấm thoang thoảng của cỏ dại và cây gia vị, những cánh đồng cuộn sóng uể oải, ngay cả thứ nước hoa Peppo dùng cũng có phần xa lạ, hấp dẫn một cách ngớ ngẩn.

Nhưng làm sao chúng tôi thực sự nhớ được ba năm đầu đời của mình? Thỉnh thoảng tôi chợt nhớ đến cái ôm ghì một cặp chân trần mà chắc không phải chân bà Rose, cả tôi và Janice đều nhớ một cái bát thủy tinh to đầy những nút chai vang, nhưng không thể nói những thứ ấy thuộc về nơi nào. Đôi khi cố nhớ những kỷ niệm từ hồi lẫm chẫm biết đi, chúng tôi thường bị lộn xộn.

-Em chắc chắn cái bàn đánh cờ lung lay là ở Tuscany, - Janice hay khẳng định. – Mà nó có thể ở đâu được chứ? Bà Rose chẳng bao giờ có cái đó.

-Em giải thích ra sao khi Umberto đã phạt em lúc em đẩy nó? – Tôi phản đối.

Nhưng Janice không thể giải thích được. Rốt cuộc, nó chỉ lẩm bẩm:

-Nhỡ đấy là người khác. Khi mình lên hai, mọi người đàn ông trông đều giống nhau. – Rồi nó khịt mũi. – Quái quỷ, họ vẫn thế mà.

Khi còn niên thiếu, tôi thường mơ đến chuyến trở về Siena và bỗng nhiên nhớ ra mọi thứ thời thơ ấu; rốt cuộc, bây giờ tôi đã ở đây, đang lao ầm ầm trên những con đường hẹp mà chẳng nhận ra thứ gì, tôi bắt đầu tự hỏi, liệu phần lớn cuộc đời sống xa nơi này có làm thui chột phần tinh túy trong tâm hồn tôi không?

Pia và Peppo Tolomei sống ở nông trại trong một thung lung nhỏ, bao quanh là những vườn nho và rừng ôliu. Những quả đồi thoai thoải nhấp nhô từ phía quanh cơ ngơi của họ, sự thoải mái của cảnh ẩn dật thanh bình phần nào bù đắp cho sự thiếu thốn tầm nhìn rộng mở. Ngôi nhà không đẹp theo nghĩa thông thường: tường màu vàng, cỏ dại mọc trong các kẽ nứt, các cánh cửa chớp màu xanh cần sơn lại, mái nhà màu nâu đỏ cũ kỹ, nếu có cơn bão tiếp theo – hay chỉ cần ai đó hắt hơi bên trong – là các viên ngói sẽ rào rào đổ xuống. Song vẫn còn nhiều dây nho bò lan và những chậu cây cảnh đặt ở vị trí chiến lược bổ sung cho tình trạng mục nát làm cho nơi này trở nên hấp dẫn khó cưỡng lại.

Sau khi đỗ xe và vớ lấy cây gậy dựng vào tường, Peppo đưa tôi vào thẳng khu vườn. Đằng sau vườn, trong bóng ngôi nhà, vợ ông, bà Pia ngồi trên chiếc ghế thấp giữa đám cháu chắt, giống như nữ thần thu hoạch trẻ mãi không già, vây quanh là các nữ thần, bà đang dậy chúng tết dây bằng tỏi tươi. Sau nhiều cố gắng, Peppo mới làm cho bà hiểu được tôi là ai, vì sao ông đưa tôi tới đây, và đến khi đã tin vào tai mình, bà Pia liền xỏ chân vào đôi dép lê và đứng dậy, có người dìu đỡ rồi ôm tôi, khuôn mặt đầy nước mắt.

-Giulietta! – Bà kêu lên, ép tôi vào ngực bà và hôn tới tấp lên trán tôi. – Thật là một phép màu!

Niềm vui của bà khi nhìn thấy tôi chân thành đến mức tôi gần như cảm thấy xấu hổ. Sang nay, tôi không có ý định đến Bảo thàng Cú tìm cha mẹ đỡ đầu thất lạc từ lâu, và trước lúc này tôi không hề hay biết tôi từng có cha mẹ đỡ đầu, vậy mà họ vui biết nhường nào khi thấy tôi còn sống và khỏe mạnh. Họ vẫn ở đây cho đến bây giờ, và sự ân cần của họ khiến tôi hiểu rằng tôi chưa bao giờ được thực sự đón mừng ở bất cứ nơi đâu, ngay cả trong nhà tôi. Chí ít thì không phải lúc Janice quanh quất gần đó.

Trong vòng một giờ, ngôi nhà và khu vườn đã đầy người và đồ ăn thức uống. Như thể mọi người đã đợi sẵn ở đâu đó, các món đặc sản cầm sẵn trong tay, chỉ mong có cớ để tổ chức tưng bừng. Một số là người nhà, một số là bạn và hàng xóm, tất cả đều khẳng định biết cha mẹ tôi và chuyện xảy ra với hai đứa con song sinh của họ. không ai nói thẳng ra nhưng tôi cảm thấy hồi đó, bà bác Rose đã lao vào giành lấy Janice và tôi, trái ngược với mong muốn của gia tộc Tolomei – nhờ ông bác Jim, bà có nhiều mối quan hệ ở Bộ Ngoại giao Mỹ - và chúng tôi biến mất không để lại dấu vết, khiến cha mẹ đỡ đầu của chúng tôi là Pia và Peppo rất thất vọng.

-Nhưng mọi chuyện đã là quá khứ, - Peppo nói mãi và vỗ nhẹ vào lưng tôi, - giờ cô đã ở đây, rốt cuộc chúng ta có thể trò chuyện.

Nhưng thật khó mà biết nên bắt đầu từ đâu, đã nhiều năm cần giải thích, nhiều câu hỏi cần trả lời, kể cả lý do vắng mặt bí ẩn của em gái tôi.

-Nó bận quá nên không đi cùng, - tôi nói và quay đi. – Nhưng em chắc nó sẽ sớm đến thăm mọi người.

Còn một việc nữa là rất ít khách nói được tiếng Anh, vì thế mọi câu trả lời và các câu hỏi trước hết phải được người thứ ba hiểu và dịch lại. Mọi người thân mật và đầm ấm đến mức một lát sau, tôi cũng bắt đầu thấy thoải mái và thích thú. Chúng tôi không hiểu nhau chẳng thành vấn đề gì, quan trọng là những nụ cười và những cái gật đầu nói nhiều hơn lời lẽ.

Lúc Pia ra hiên, mang theo tập album ảnh và ngồi xuống, chỉ cho tôi ảnh đám cưới của cha mẹ tôi. Ngay khi bà mở quyển album, những người phụ nữ khác đã xúm xít xung quanh, háo hức cùng xem và giúp giở sang trang.

-Đây! – Pia chỉ vào bức ảnh cưới to – Mẹ em mặc bộ váy ta đã mặc trong đám cưới của ta. Họ thật đẹp đôi, nhỉ?...Còn đây là anh họ Francesso của em…

-Khoan đã! – Tôi cố ngăn bà giở sang trang nhưng vô hiệu. Chắc bà không hiểu rằng trước kia tôi chưa bao giờ nhìn thấy ảnh cha tôi, còn bức ảnh duy nhất lúc trưởng thành của mẹ tôi là ảnh lễ tốt nghiệp trung học, đặt trên cây đàn dương cầm của bà Rose.

Album của Pia khiến tôi rất ngạc nhiên. Tôi không ngạc nhiên nhiều lắm vì dưới tấm áo cưới, rõ ràng mẹ tôi đang có mang, mà vì cha tôi trông già như một trăm tuổi. Chắc chắn cha tôi không thế, nhưng đứng cạnh mẹ tôi – cô gái bỏ trường đại học, có lúm đồng tiền lúc cười – trông ông như ông già Abraham trong minh họa cuốn Kinh Thánh dành cho thiếu nhi.

Tuy vậy, họ có vẻ hạnh phúc và dù không có những bức ảnh họ hôn nhau, trong hầu hết các bức ảnh, mẹ tôi đều bám lấy khuỷu tay cha tôi và nhìn ông với ánh mắt vô cùng ngưỡng mộ. Lát sau, tôi gạt bỏ sửng sốt và quyết định chấp nhận khả năng rằng ở đây, tại nơi rạng rỡ và sung sướng này, các khái niệm về thời gian và tuổi tác có rất ít ý nghĩa đến cuộc sống của con người.

Những người phụ nữ quanh tôi khẳng định suy nghĩ của tôi, hình như không ai thấy cuộc hôn nhân có gì khác thường. Trong chừng mực tôi có thể hiểu, họ vui vẻ dẫn giải – đều bằng tiếng Ý – trước hết về tấm áo cưới, mạng che mặt của mẹ tôi, và quan hệ phức tạp trong phả hệ của từng vị khách trong đám cưới với cha tôi và giữa các vị khách vơi nhau.

Sau những ảnh cưới là vài trang dành cho lễ rửa tội của chúng tôi, nhưng cha mẹ tôi không có trong ảnh. Những bức ảnh cho thấy Pia bế một đứa trẻ không rõ là Janice hay tôi – không thể nói là ai, vì Pia không thể nhớ ra – và Peppo hãnh hiện bế đứa kia. Hình như có hai nghi lễ khác nhau, một ở trong nhà thờ, còn một ở bên ngoài, dưới nắng trời, cạnh bình đựng nước thánh của địa hạt Cú.

-- Hôm đó rất đẹp trời, - Pia nói, mỉm cười buồn bã. – Hai chị em em trở thành hai con cú nhỏ. Thật quá tệ…- Bà không nói hết câu và gấp quyển Album lại rất thận trọng – Chuyện này xảy ra từ rất lâu rồi. Đôi khi ta tự hỏi nếu thời gian thực sự hàn gắn…- Bà bị một tiếng động đột ngột trong nhà cắt ngang, một giọng nôn nóng gọi tên bà. – Tôi đến đây! – Pia đứng dậy, bất chợt Lorenzo lắng. – Chắc hẳn là Nonna của chúng ta.

Bà lão Tolomei mà mọi người gọi là Nonna, sống với một trong số các cháu gái ở khu thương mại Siena, nhưng chiều nay được mời đến nông trại để gặp tôi, một sự sắp xếp rõ ràng không khớp với lịch trình riêng của bà. Bà đứng trong hành lang, một tay bực bội sửa lại chiếc khăn ren đen, còn tay kia đè nặng lên vai cháu gái. Nếu tôi cũng khắc nghiệt như Janice, ngay lập tức tôi sẽ cho rằng bà là hình ảnh hoàn hảo của mụ phù thủy trong truyện cổ tich. Chỉ thiếu con quạ đậu trên vai mà thôi.

Pia ào tới chào mừng bà lão, bà ta miễn cưỡng cho phép chị họ tôi hôn lên hai má và hộ tống vào cái ghế bà đặc biệt ưa thích trong phòng khách. Mất nhiều phút để dỗ dành Nonna, nhiều tấm nêm được mang tới, xếp đặt, chuyển quanh, cốc nước chanh đặc biệt từ nhà bếp bưng vào bị trả lại ngay lập tức, rồi bưng vào lần nữa, lần này có một lát chanh cắm trên miệng cốc.

-Nonna là cô của chúng ta, - Peppo thì thầm vào tai tôi, - là em gái út của cha cô đấy. Đi nào, tôi sẽ giới thiệu cô với bà ấy. – Ông đẩy tôi tới và đứng nghiêm trước mặt bà lão, hăng hái giải thích tình hình với bà ta bằng tiếng Ý, rõ ràng mong nhìn thấy dấu hiệu vui mừng trên mặt bà.

Nhưng Nonna không chịu mỉm cười. Mặc cho Peppo giục giã – thậm chí van nài – bà hãy vui cùng chúng tôi, và bà vẫn không bị thuyết phục, không thể hiện bất cứ niềm vui nào vì sự có mặt của tôi. Ông đẩy tôi tới trước để bà có thể nhìn tôi rõ hơn, nhưng chỉ càng khiến bà thêm cau có, và Peppo chưa kịp kéo tôi ra khỏi tầm, bà đã nhô về trước và càu nhàu câu gì đó mà tôi không hiểu, nhưng làm mọi người đều há hốc miệng, ngượng ngùng.

Pia và Peppo gần như lôi tuột tôi ra khỏi phòng khách, xin lỗi suốt dọc đường.

-Ta rất tiếc, - Peppo cứ nói mãi, bẽ mặt đến mức không dám nhìn vào mắt tôi. – Ta đã không biết bà ấy bị sao nữa! Ta ngỡ bà ấy sắp điên!

-Đừng ngại, - tôi nói, quá sững sờ nên chẳng cảm thấy gì, - em không trách bà vì bà không tin. Mọi chuyện mới mẻ quá kể cả với em

-Chúng ta đi dạo một lát, - Peppo nói, vẫn bối rối, - và sẽ trở lại sau. Đây là lúc ta chỉ cho cô mộ của họ.

Nghĩa trang là nơi yên nghỉ dễ chịu, im lìm, khác xa với các nghĩa trang mà tôi từng biết. Toàn bộ nơi này là một mê cung những bức tường trắng, không giá đỡ, không mái, các bức tường chính là những ngôi mộ khảm từ đầu xuống chân. Tên tuổi, ngày tháng, ảnh xác nhận người nằm sau tấm bia cẩm thạch, các bình bằng đồng thau cắm hoa của người thăm viếng mang đến - chúng như thay mặt chủ nhân tạm thời không còn khả năng đón nhận.

-Đây…- Peppo đặt một tay lên vai tôi vẻ an ủi, nhưng động tác đó không cản ông lịch thiệp mở cái cổng sắt cót két và để hai chúng tôi lọt vào một điện thờ nhỏ, cách xa đường chính. – Đây là một phần…hưm…ngôi mộ cổ Tolomei. Phần lớn lăng mộ ở dưới lòng đất và chúng tôi không xuống đó nữa. Ở trên này tốt hơn.

- Đẹp quá. – Tôi bước vào một căn phòng nhỏ, nhìn khắp những phiến đá cẩm thạch và hoa tươi cắm trên bàn thờ. Một ngọn nến đang cháy trong cái bát thủy tinh màu đỏ hình như quen quen với tôi, cho thấy mộ cổ Tolomei là nơi được gia đình chăm sóc chu đáo. Tôi bỗng cảm thấy đau nhói, có lỗi vì đã đến đây một mình, không có Janice, Nhưng tôi gạt vội ý nghĩ đó đi. Nếu Janice ở đây, có lẽ nó sẽ làm hỏng khoảnh khắc này vì một lời nhận xét độc địa.

- Đây là cha cô, - Peppo chỉ, - còn mẹ cô ở ngay cạnh ông. – Ông ngừng lại, suy tưởng một hồi ức xa xôi. – Bà ấy còn trẻ quá. Tôi cứ nghĩ bà ấy có thể sống lâu sau khi tôi mất ấy chứ.

Tôi nhìn hai phiến đã cẩm thạch là tất cả những gì còn lại của giáo sư Patrizio Scipione Tolomei và vợ ông, bà Diane Lloyd Tolomei, cảm thấy lòng vô cùng xao xuyến. Trong chừng mực tôi còn nhớ, cha mẹ tôi chẳng khác gì những cái bóng xa vời trong mộng tưởng, tôi chẳng bao giờ hình dung mình lại ở gần họ như thế này, ít nhất là về mặt thân xác. Ngay cả khi mường tượng đến những chuyến đi, tôi cũng chưa bao giờ nghĩ đến việc đầu tiên khi tới là phải tìm ra mộ họ, và tôi cảm thấy ấm áp biết ơn Peppo đã giúp tôi làm một việc phải đạo.

-Cảm ơn, - tôi nói khẽ và xiết chặt bàn tay ông vẫn để trên vai tôi.

- Họ chết thật thê thảm, - ông nói và lắc đầu, - và thế là mọi công trình của Patrizio bị thiêu trong hỏa hoạn. Ông có một nông trại đẹp ở Malamerenda cũng bị tiêu hủy hết. Sau tang lễ, mẹ cô mua một ngôi nhà nhỏ gần Montepulciano và sống một mình ở đó với hai đứa con sinh đôi – cô và em gái cô – nhưng bà không bao giờ còn như xưa nữa. Cứ đến Chủ nhật bà lại đến đặt hoa trên mộ ông, nhưng … - ông ngừng lại, rút khăn mùi soa trong túi ra, - bà ấy không bao giờ còn được hạnh phúc nữa.

- Đợi một chút, - tôi chăm chú nhìn ngày tháng ghi trên mộ cha mẹ mình. – Cha em mất trước mẹ em ư? Em tưởng họ qua đời cùng nhau…- Nhưng vừa nói xong, tôi đã thấy ngày tháng đã khẳng định sự thật: cha tôi mất trước mẹ tôi hơn hai năm. – Mà hỏa hoạn gì vậy?

-Có người…không, tôi không nên nói đến chuyện đó….- Peppo cau mày. – Một vụ hỏa hoạn, vụ cháy thật kinh khủng. Nông trại của cha cô bi thiêu rụi. Mẹ cô gặp may, lúc đó bà đang ở Siena, mua sắm cùng các con. Đấy là một thảm kịch. Tôi phải nói Chúa đã giơ tay che chở bà, nhưng hai năm sau…

-Tai nạn ô tô, - tôi lẩm bẩm.

-Ờ, - Peppo dũi mũi giày xuống đất. – Tôi không biết sự thật. Chẳng ai biết sự thật. Nhưng…- cuối cùng, ông nhìn vào mắt tôi, - tôi ngờ rằng gia đình Salimbeni đã nhúng tay vào việc này.

Tôi không biết nói gì. Tôi hình dung Eva Maria và chiếc vali đầy ắp quần áo của bà vẫn nằm trong phòng tôi ở khách sạn. Bà ân cần với tôi như thế, sốt sắng kết bạn với tôi như thế.

-Có một thanh niên, Luciano Salimbeni, - Peppo nói tiếp. – Hắn là kẻ hay sinh sự. Có nhiều tin đồn này nọ. Tôi không muốn…- Peppo bồn chồn liếc nhìn tôi. – Vụ hỏa hoạn. Vụ hỏa hoạn đã giết chết cha cô. Người ta nói đấy không phải là ngẫu nhiên. Họ bảo có người muốn giết ông và phá hủy các công trình nghiên cứu của ông. Thật khủng khiếp. Ngôi nhà đẹp nhường ấy. Nhưng tôi cho rằng mẹ cô đã giữ được thứ gì đó khỏi ngôi nhà đã bị cháy. Một thứ quan trong. Những tư liệu. Bà ấy sợ nói đến việc đó, nhưng sau vụ hỏa hoạn, bà bắt đầu hỏi nhiều câu kỳ quặc về…nhiều sự việc

- Những sự việc loại gì?

- Đủ loại. Tôi không biết các câu trả lời. Bà ấy hỏi tôi về dòng họ Salimbeni. Về những đường hầm ngầm bí mật. Bà ấy muốn tìm ra một ngôi mộ. Nó có từ hồi bệnh dịch.

- Bệnh…dịch hạch ư?

- Phải, một trận dịch kinh khủng. Năm 1348. – Peppo hắng giọng, bứt rứt vì đề tài này. – Mẹ cô tin rằng có một lời nguyền cổ xưa vẫn săn đuổi dòng họ Tolomei và Salimbeni. Bà đang cố tìm cách ngăn nó lại. Bà bị ý nghĩ này ám ảnh. Tôi muốn tin bà, nhưng…- Ông giật cổ sơ mi, dường như bỗng nhiên cảm thấy nóng bức. – Bà ấy là người kiên quyết. Bà tin rằng tất cả chúng ta đều bị nguyền rủa. Phải chết. Bị hủy diệt. Bị tai nạn. “Một bệnh dịch cho cả hai dòng họ chúng ta”…là câu bà ấy thường nói. – Ông thở dài, nhớ lại nỗi đau trong quá khứ. – Bà ấy hay trích dẫn Shakespeare. Bà ấy hiểu tác phẩm Romeo và Juliet rất sâu sắc. Bà cho rằng sự việc đó sẽ diễn ra ở đây, ở Siena. Bà có một giả định….- Peppo lắc đầu phân vân. – Bà bị ý nghĩ ấy ám ảnh. Tôi không hiểu nổi. Tôi không phải là giáo sư. Tôi chỉ biết có một người đàn ông là Luciano Salimbeni muốn tìm một kho báu…

Không đừng được, tôi phải hỏi:

- Kho báu gì vậy?

- Ai mà biết được? – Peppo giơ tay lên. – cha cô đã dành toàn bộ thời gian nghiên cứu các truyền thuyết cổ xưa. Ông hay nói đến các kho báu mất tích. Nhưng có lần, mẹ cô kể với tôi và một thứ…ờ, bà ấy gọi là gì nhỉ? Tôi nghĩ bà ấy gọi nó là Mắt Juliet. Tôi không hiểu bà có ngụ ý gì, nhưng tôi nghĩ nó rất giá trị và có lẽ đấy chính là thứ Luciano Salimbeni theo đuổi.

Tôi thèm được biết nhiều hơn, nhưng lúc đó trong Peppo mệt lả gần như ốm, ông loạng choạng và phải chộp lấy cánh tay tôi để giữ thăng bằng.

- Nếu tôi là cô, - ông nói tiếp, - tôi sẽ rất, rất thận trọng. Tôi sẽ không tin bất cứ người nào mang họ Salimbeni. – Nhìn thấy vẻ mặt của tôi, ông cau mày. – Cô tưởng tôi điên ư? Chúng ta đang ở đây, cạnh ngôi mộ của người phụ nữ chết quá trẻ. Bà ấy là mẹ cô. Tôi là ai mà dám kể cho cô biết ai đã làm việc này với bà, và tại sao? – Cái xiết tay của ông chặt cứng. – Mẹ cô mất rồi. Cha cô mất rồi. Tôi chỉ biết có thế. Nhưng trái tim Tolomei già cỗi của tôi bảo rằng cô phải hết sức thận trọng

Khi chúng tôi học trung học phổ thông, Janice và tôi đều tình nguyện diễn kịch hàng năm, và tình cờ, đó chính là vở Romeo và Juliet. Sau nhiều lần thử vai, Janice được phân vai Juliet, trong khi vai của tôi là một cái cây trong vườn quả nhà Capulets. Lẽ tất nhiên, Janice dành nhiều thời gian để cắt sửa móng tay hơn là học thoại, và mỗi khi diễn tập cảnh trên ban công, tôi là người thì thầm nhắc nó những từ đầu tiên của mỗi câu thoại, hơn nữa, tôi còn là người đứng thoải mái trên sân khấu với các cành cây quấn vào cánh tay.

Tuy vậy, trong đêm mở màn tôi thấy nó đặc biệt quá quắt. Khi chúng tôi ngồi trong phòng hóa trang, nó cười nhạo bộ mặt mày nâu của tôi và rứt những cái lá trên đầu tôi, trong khi đó, nó được diện các bím tóc vàng hoe và gò má ửng hồng. Lúc đến cảnh trên ban công, tôi không còn lòng dạ nào yểm hộ nó nữa. Thực tế, tôi đã làm ngược lại hoàn toàn. Khi Romeo nói: Tôi sẽ viện ra lời thề gì đây?”, tôi thì thầm “ba lời thôi”

Janice nói ngay lập tức:

-Ba lời thôi, Romeo yêu quý, và đêm mới đẹp làm sao! – khiến Romeo hoàn toàn lúng túng, và cảnh này đã chấm dứt trong náo loạn.

Sau đó, khi đứng làm cây đèn nến trong phòng ngủ của Juliet, tôi đã làm cho Janice tỉnh dậy cạnh Romeo và nói ngay, không chậm trễ: “ Nhanh lên, xéo đi, cút ngay!” bằng giọng không mấy tử tế cho phần còn lại trong cảnh âu yếm của họ. không cần phải nói, Janice điên tiết đến mức đuổi tôi khắp trường, thề sẽ cạo sạch lông mày của tôi. Lúc đầu thật vui, nhưng rốt cuộc, nó giam mình trong buồng tắm của trường và khóc suốt một giờ liền, làm tôi không dám cười đùa nữa.

Quá nửa đêm, tôi vẫn ngồi trong phòng khác nói chuyện với bà Rose, sợ đi nằm thì sẽ ngủ và lưỡi dao cạo của Janice sẽ xử lý tôi, thì Umberto mang vang santo vào cho hai bà cháu. Ông không nói gì, chỉ đưa cốc cho chúng tôi, và bà Rose cũng không thốt một lời về việc tôi chưa đủ tuổi uống rượu.

- Cháu có thích vở kịch ấy không – Bà hỏi. – Hình như cháu thuộc lòng vở đó.

- Thực ra cháu không thích cả vở đâu ạ, - tôi nhún vai thú nhận và nhấp một ngụm vang. – Chỉ vì…nó cứ dính chặt trong đầu cháu thôi

Bà chậm rãi gật đầu, nhấm nháp rượu vang.

- Mẹ cháu cũng y như thế, thuộc lòng vở kịch. Cứ như bị ám ảnh vậy.

Tôi nín thở, không muốn phá vỡ dòng suy nghĩ của bà. Tôi đợi một ý niệm mơ hồ nữa về mẹ tôi, nhưng chẳng bao giờ đến, Bà Rose chỉ ngước mắt, cau mày, hắng giọng và nhấp thêm ngụm vang nữa. Thế đấy. Đấy là một trong nhiều câu đáng chú ý nhất bà kể về mẹ tội dù không bị giục, và tôi chưa bao giờ nói lại với Janice. Nỗi ám ảnh chung của chúng tôi với kịch của Shakespeare là bí mật nho nhỏ tôi chia sẻ với mẹ và không với ai nữa, giống như tôi chưa bao giờ kể với bất cứ ai về nỗi sợ đang lớn dần trong tôi, vì mẹ tôi đã mất ở tuổi hai mươi lăm, tôi cũng sẽ thế.

Ngay khi Peppo thả tôi xuống cửa khách sạn Chiusarelli, tôi liền chạy thẳng đến quán cà phê Internet gần nhất và lục tìm tên Luciano Salimbeni trên Google. Nhưng mất mấy vòng tìm đi lục lại, tôi vẫn chẳng thu được điều gì có ích. Sau ít nhất một giờ và gặp rất nhiều rắc rối với tiếng Ý, tôi mới khá tự tin với những kết luận sau:

Một: Luciano Salimbeni đã chết.

Hai: Luciano Salimbeni là một thanh niên bất lương, thậm chí có thể là một kẻ giết người hàng loạt.

Ba: Luciano và Eva Maria Salimbeni có mối quan hệ nào đó.

Bốn: Có điều gì đó ám muội trong vụ tai nạn ô tô đã giết chết mẹ tôi, và Luciano Salimbeni bị truy nã để thẩm vấn.

Tôi in các trang này để về sau có thể dùng từ điển đọc lại. Cuộc tìm kiếm này đã cho tôi biết thêm chút ít ngoài những điều Peppo Tolomei đã kể chiều nay, nhưng ít ra bây giờ tôi đã biết ông anh họ cao tuổi của tôi không bịa chuyện, và hơn hai mươi năm trước, ở Siena có một Luciano Salimbeni thực sự nguy hiểm mà không bị giam giữ.

Nhưng cũng mừng là hắn đã chết. Nói khác điều chắc chắn hắn không thể là kẻ mặc thường phục lén theo tôi – có thể có, có thể không – ngày hôm trước, sau khi tôi rời nhà băng ở lâu đài Tolomei cùng cái hộp của mẹ tôi.

Sau đó một ý nghĩ chợt đến, tôi tìm trên Google từ Mắt Juliet. Không lạ là chẳng có kết quả tìm kiếm nào dính dáng đến kho báu huyền thoại. Gần như tất cả đều là các cuộc thảo luận học thuật về ý nghĩa những cái nhìn trong Romeo và Juliet của Shakespeare, và tôi đọc cẩn thận vài đoạn trong vở kịch, cố phát hiện ra một thông điệp bí mật. Một trong những đoạn đó là:

Than ôi, trong mắt nàng có nhiều ước lệ sai lầm hơn nguy hiểm.

Hơn cả hai mươi lưỡi kiếm của họ.

Tôi tự nhủ, nếu gã Luciano Salimbeni nọ thực sự giết mẹ tôi để đoạt kho báu gọi là Mắt Juliet thì lời tuyên bố của Romeo là đúng; dù bản chất những cái nhìn huyền bí ấy là gì đi nữa, chúng tiềm ẩn nhiều nguy hiểm hơn cả vũ khí, đơn giản thế thôi. Ngược lại, đoạn thứ hai phức tạp hơn dòng bắt gặp tình cờ trước:

Hai vì sao sáng nhất trên bầu trời

Khẩn khoản nài xin làm mắt nàng

Chúng lấp lánh trên bầu trời cho đến khi được đáp lại

Nếu mắt nàng đã ở trên đó, liệu chúng có trên đầu nàng?

Tôi suy đi nghĩ lại những dòng này suốt quãng đường xuống phố Paradiso. Romeo đang cố ca tụng Juliet khi nói mắt nàng lấp lánh như những vì sao, nhưng chàng diễn đạt hơi khôi hài. Theo tôi, chẳng ngọt ngào tí nào khi tán tỉnh một thiếu nữ bằng cách so sánh nàng giống như cặp mắt đã bóc ra của nàng

Nhưng những câu thơ này là trò tiêu khiển đáng hoan nghênh so với những sự việc khác tôi được biết trong ngày hôm ấy. Cả cha và mẹ tôi đều chết theo những kiểu kinh khủng, và có thể bởi cùng một kẻ giết người. Dù đã rời khỏi nghĩa trang nhiều giờ trước, tôi vẫn cố tiếp tục cuộc tìm hiểu khủng khiếp này. Sửng sốt và bất hạnh nhất là tôi lại cảm thấy nhoi nhói sợ hãi y như ngày hôm trước, khi tôi nghĩ mình bị theo dõi sau khi rời nhà băng. Peppo đúng khi cảnh báo tôi chăng? Có lẽ tôi đang gặp nguy hiểm, dù là nhiều năm sau? Nếu thế, tôi có thể rứt khỏi nguy hiểm bằng cách trở về nhà ở Virginia. Nhưng nhỡ có một kho báu thực sự thì sao? Nhỡ đâu trong hộp của mẹ tôi có một manh mối tìm ra Mắt Juliet, dù là gì đi nữa.

Mải mê suy nghĩ, tôi đi vào khuôn viên của một tu viện hẻo lánh, cách xa quảng trường San Domenico. Lúc này trời nhá nhem tối, tôi đứng một lát dưới cái cổng mái của một hành lang ngoài, ngắm những tia sáng cuối cùng trong lúc bóng tối đang chầm chậm trườn lên chân. Tôi vẫn chưa muốn về khách sạn, nơi cuốn nhật ký năm 1340 của danh họa Ambrogio đang đợi tôi, rồi sẽ là một đêm nữa không ngủ.

Lúc tôi đứng đó, mải mê trong cảnh chạng vạng, ý nghĩ của tôi trở lại với cha mẹ mình, và lần đầu tiên tôi nhìn thấy ông, một họa sỹ bậc thầy.

Ông đang đi xuyên qua các chỗ tối của hành lang đối diện, cắp giá vẽ và một vài thứ khác cứ tuột khỏi tay, buộc ông phải dừng lại sắp xếp cho gọn gàng. Ban đầu, tôi chỉ nhìn ông chằm chằm. không thể thế được, ông không giống những người Ý mà tôi đã gặp, mái tóc ông dài, hoa râm, chiếc áo len đan võng xuống và đôi dép thưa. Thực ra, ông giống một kẻ lang thang từ Woodstock lê bước ở một nơi toàn các người mẫu hơn. Lúc đầu ông không nhìn thấy tôi, và khi tôi đuổi kịp để đưa cái bút vẽ ông đánh rơi, ông giật mình sợ hãi.

- lỗi, - tôi nói, - nhưng tôi nghĩ nó là của ông.

Ông nhìn cây bút vẽ như không nhận ra, rồi cuối cùng lúc nhận cây bút, ông cầm nó vụng về như thể không biết dùng làm gì. Rồi ông nhìn tôi, vẫn bối rối và nói:

- Tôi có biết cô không nhỉ?

Tôi chưa kịp trả lời, thì một nụ cười đã hiện rõ trên môi ông, và ông kếu lên:

- Lẽ tất nhiên là tôi biết! Tôi nhớ ra cô rồi. Cô là…Hãy nhắc tôi….cô là ai?

- Giulietta Tolomei. Nhưng tôi không nghĩ là…

- Đúng – đúng – đúng! Lẽ tất nhiên rồi! Cô ở đâu vậy?

- Tôi vừa tới.

Ông ta nhăn mặt vì sự ngớ ngẩn của mình.

- Ra vậy! Cô đừng bận tâm. Cô vừa tới. Cô ở đây. Giulietta Tolomei. Xinh đẹp hơn bao giờ hết. – ông ta mỉm cười và lắc đầu. – Tôi chưa bao giờ hiểu thứ này, thời gian ấy mà.

- Vâng, - tôi nói, có phần ngỡ ngàng, - ông không sao chứ?

- Tôi ư? Ồ! Vâng, cảm ơn cô, Nhưng…cô phải đến và gặp tôi. Tôi muốn chỉ cho cô một thứ. Cô có biết xưởng vẽ của tôi không? Nó ở đường Santa Caterina. Cửa màu xanh lơ. Cô không phải gõ đâu, cứ vào thôi.

Lúc đó tôi chợt nghĩ ông ta tưởng tôi là một du khách và muốn bán cho tôi vài món đồ lưu niệm.

Được thôi, ông bạn, tôi nghĩ, tôi sẽ tới đó ngay đây.

Đêm hôm đó, khi tôi gọi điện cho Umberto, ông rất bối rối vì những hiểu biết sâu sắc về cái chết của cha mẹ tôi.

-Nhưng cô có chắc không? – Ông nói. – Cô có chắc đây là sự thật không?

Tôi nói với ông là tôi tin chắc. Không chỉ làm rõ sự thật rằng có những thế lực đen tối trong vở kịch hai mươi năm trước, mà tôi còn thấy những sức mạnh đó có lẽ vẫn còn rớt lại và đang lảng vảng rình mò.

- Cô có chắc hắn theo dõi cô không? – Umberto phải đối. – Có khi…

- Umberto, - tôi ngắt lời ông, - hắn mặc quần áo thể thao.

Cả hai chúng tôi đều biết trong cõi nhân gian của Umberto, chỉ có loại côn đồ tâm địa đen tối mới vận đồ thể thao đi lại trên một đường phố sang trọng

- Ờ, - Umberto nói, - có khi hắn chỉ định móc túi cô thôi. Hắn thấy cô ra khỏi nhà băng và nghĩ rằng cô vừa lĩnh tiền…

- Vâng, cũng có thể. Cháu chắc chẳng có ai muốn lấy cái hộp này. Cháu không thể tìm ra thứ gì trong đó dính dáng đến “Mắt Juliet..”

- Mắt Julie ư?

- Vâng, đó là thứ Peppo nói. – Tôi thở dài và lăn ra giường. – Hình như đấy là một kho báu. Nhưng nếu bác hỏi cháu, cháu nghĩ rằng những chuyện này chỉ là một mưu đồ bất lương lớn. Cháu nghĩ lúc này mẹ cháu và bà Rose ở trên Thiên Đường đang có một trận cười no nê. Vả lại…bác nghĩ gì thế?

Chúng tôi trò chuyện thêm khoảng dăm phút, tôi mới phát hiện ra Umberto không còn ở nhà bà Rose nữa, mà trong một khách sạn tại New York, đang tìm việc làm, bất cứ việc gì. Mất một lúc lâu tôi mới hình dung ra cảnh ông đợi bên các bàn ăn tại Manhattan, nạo phomat Pacma lên món mì ống của người khác. Chắc ông có chung những cảm nghĩ như tôi, vì ông có vẻ mệt mỏi và ngã lòng, còn tôi muốn kể với ông tôi đang tìm cách giành lại một kho báu lớn, Nhưng cả hai chúng tôi đều hiểu rằng dù đã lấy được cái hộp của mẹ tôi, tôi vẫn hầu như không biết nên bắt đầu từ đâu.