Chương 9 (2) Thi thể nàng đang an nghỉ trong hầm mộ của nhà Capulet-Còn linh hồn bất tử của nàng đã lên ở với các thiên thần
Ngày hôm trước, khi rời Siena với Alessandro, tôi không hề hình dung mình lại trở về sớm thế, bẩn thỉu như thế, với đôi tay bị còng. Chắc chắn tôi không lường trước lại có cả em gái tôi, cha tôi, và ba tên côn đồ trông như vừa thoát khỏi xà lim tử tù, không phải bằng giấy tờ, trát lệnh mà bằng thuốc nổ.
Rõ ràng rằng, dẫu biết rõ danh tính của chúng, Umberto cũng bị bắt làm con tin như chúng tôi. Bọn chúng quẳng ông lên thùng xe tải như Janice và tôi – một chiếc xe tải cỡ nhỏ, chở hoa, chắc là của ăn cắp, - tất cả chúng tôi đập mạnh xuống sàn kim loại. Cánh tay đều bị trói, nhưng cả đống cành hoa thối rữa đã cản được lực của cú ngã chút ít.
- Này, - Janice phản đối, - chúng tôi là con gái ông, phải không? Hãy bảo họ không thể đối xử với chúng tôi như thế này. Nói thật là…kìa Jules,, nói gì với ông ấy đi chứ.
Nhưng tôi không thể nghĩ ra điều gì để nói. Tôi cảm thấy cả thế giới quanh tôi lộn ngược – hoặc có khi thế giới vẫn không sao, còn tôi mới là người đổ nhào toàn vẹn. Vẫn chống chọi với quá trình Umberto biến từ người hùng thành kẻ hung ác, lúc này việc phải thừa nhận thực tế ông là cha tôi, gần như đưa tôi đi một vòng tròn đầy đủ và trở lại với sự thật song phẳng: tôi từng yêu quý ông, nhưng thực sự không nên thế..
Lúc những kẻ ác ôn kéo sập cửa xe lại, tôi liếc thấy một nạn nhân khác mà chúng đã nhặt được ở đâu đó dọc đường. Người đàn ông dựa vào một góc, bị bịt mắt, bịt miệng, nếu không có bộ trang phục, chắc tôi không bao giờ nhận ra ông ta. Rốt cuộc, lời lẽ cứ tự động đến với tôi:
- Tu sĩ Lorenzo! – tôi kêu lên. – Lạy Chúa tôi! Chúng đã bắt cóc tu sĩ Lorenzo!
Lúc đó, chiếc xe tải xóc nảy lên khởi động, ít phút sau đó chúng tôi bị trượt tới, lui trên sàn xe mấp mô, trong lúc gã lái xe đưa chúng tôi lao qua con đường rậm rạp dành cho xe của nhà mẹ. Mọi sự vừa êm ả hơn, Janice buột ra một tiếng thở dài thườn thượt, khổ sở.
- Ông thắng rồi. – Nó nói tôi giữa bóng tối. – Những viên ngọc quý là của ông…hoặc của bọn chúng. Đằng nào tôi cũng không muốn có chúng. Chúng tôi sẽ giúp ông. Chúng tôi sẽ làm mọi việc. Bất cứ thứ gì ông muốn. ông là cha chúng tôi kia mà? Chúng ta sẽ gắn bó với nhau! Không cần phải…giết chúng ta. Được không?
Câu hỏi của nó rơi vào im lặng.
- Này, - Janice nói tiếp, giọng nó run rẩy vì sợ, - tôi mong bọn chúng hiểu là chúng sẽ không bao giờ tìm thấy ngôi mộ nếu không có chúng tôi…
Umberto vẫn không trả lời. Ông không phải trả lời. Mặc dù chúng tôi đã kể với lũ cướp về lối vào bí mật ở Santa Maria della Scala, bọn chúng nghĩ rằng vẫn cần chúng tôi giúp tìm ra ngọc quý, hoặc có thể chưa chắc chúng đưa chúng tôi đi hết đường.
- Còn tu sĩ Lorenzo thì sao? – Tôi hỏi?
Cuối cùng, Umberto nói.
- Ông ta thì sao ư?
- Ông thực sự cho rằng ông già tội nghiệp ấy có thể giúp được gì phải không? – Janice nói, nó đã lấy lại được chút ít tinh thần.
- Ồ, ông ta sẽ ca ngợi.
Khi nghe thấy cả hai chúng tôi thở hổn hển vì sự dửng dưng của ông, Umberto phát ra một âm thanh có thể là tiếng cười, nhưng chắc là không phải.
- Các cô mong đợi cái quái gì, hả? – Ông càu nhàu. – Rằng chúng sẽ…từ bỏ ư? Vác cô may mắn là lúc đầu chúng ta đã thử cách dễ chịu…
- Cách dễ chịu…? – Janice kêu to, nhưng tôi cố dùng đầu gối huých nó và nó im bặt.-Thật không may, Umberto nói tiếp,
- Julie bé bỏng của chúng ta không nhập vai.
- Tôi sẽ làm tốt nếu biết tôi cũng có một vai! – Tôi nói toạc ra, họng thắt lại đến nỗi chỉ vừa đủ nghe. – Tại sao ông không bảo tôi? Tại sao phải làm như thế này? Chúng ta có thể đi tìm kho báu từ nhiều năm trước. Điều đó có khi còn…vui nữa.
- Ôi, tôi biết! – Umberto ngọ nguậy trong bóng tối, rõ ràng cũng lo lắng như chúng tôi. - cô tưởng tôi muốn như thế này sao? Trở về đây, đánh liều đủ thứ, chơi trò đố chữ với các thầy tu già và bị bọn cóc nhái này hành hạ, chỉ để tìm tòi những viên đá chắc chắn đã mất tích từ hàng trăm năm trước ư? Tôi nghĩ là cô chưa hiểu… - Ông thở dài. – Lẽ tất nhiên là không rồi. Các cô có nghĩ vì sao tôi để bà Rose đưa các cô đi biệt và nuôi dưỡng các cô tận nước Mỹ không? Hả? Tôi sẽ nói vì sao.
Vì bọn chúng sẽ dùng các cô chống lại tôi…bắt tôi làm việc cho chúng lần nữa. Chỉ có một giải pháp duy nhất: Tất cả chúng ta phải biến mất.
- Ông đang nói đến ….Mafia ư? – Janice hỏi
Umberto cười khinh bỉ.
- Mafia! Bọn này khiến Mafia giống như Salvation Army. Chúng tuyển dụng ta khi ta cần tiền, và khi đã mắc vào, không sao thoát ra được nữa. Nếu ngọ nguậy, càng mắc sâu hơn.
Tôi nghe thấy Janice hít vào, định bình luận ác ý, nhưng tôi cố hết sức huých nó và nó lại im lặng. Chọc tức Umberto và cãi vã không phải là cách chuẩn bị cho mọi thứ phía trước, và tôi chắc là có rất nhiều khó khăn.
- Tôi đoán, - tôi nói, cố bình tĩnh, - khi bọn chúng không cần chúng tôi nữa …là hết phải không?
Umberto lưỡng lự.
- Cocco còn mang ơn ta. Trước kia ta đã tha mạng hắn. Ta hy vọng hắn sẽ đền đáp.
- Hắn sẽ tha ông, - Janice nói, - Còn chúng tôi thì sao?
Một lúc im lặng dài, hay chí ít là tôi cảm thấy dài. Chỉ lúc này, trong tiếng động cơ và tiếng lách cách, rầm rầm nói chúng, tôi chợt nghe thấy âm thanh của một người đang cầu nguyện.
- Còn tu sĩ Lorenzo thì sao?
- Cứ hy vọng thôi, - cuối cùng, Umberto nói, - vì Cocco được coi là rộng lượng,
- Tôi không tin, - Janice gầm lên. – Những thằng cha này là ai, và tại sao ông lại để chúng làm thế này với chúng tôi?
- Đấy không phải là truyện kể vào giờ đi ngủ, - Umberto nói, chán nản.
- Đúng, đây không phải là giờ đi ngủ, - Janice nói rõ. – Vậy thì, thưa ông bố yêu quý, tại sao ông không cho chúng tôi biết những thứ xấu xa ở chốn thần tiên này?
Khi bắt đầu nói, Umberto không thể dừng. Hình như trong suốt từng ấy năm, ông vẫn đợi để kể cho chúng tôi nghe chuyện đời ông, và bây giờ khi có cơ hội làm thế, rõ ràng ông không thấy nhẹ nhõm nhiều vì nghe giọng ông mỗi lúc một cay đắng, Ông kể, cha ông là bá tước Salimbeni nổi tiếng, hay than vãn là vợ ông, bà Eva Maria, chỉ sinh cho ông một đứa con, nên muốn chắc chắn cậu bé không bị làm hư và luôn có kỷ luật. Umberto bị bắt vào học viện quân sự trái với ý muốn, rốt cuộc anh bỏ trốn đến Naples tìm việc và mong ước có thể vào đại học chuyên ngành âm nhạc, nhưng chẳng mấy chốc hết nhẵn tiền. Thế là, anh bắt đầu làm những việc àm người khác không dám làm, và trở nên thành thạo. Không hiểu vì sao, những phi vụ phạm pháp cứ đến với Umberto rất tự nhiên, và chẳng bao lâu, anh đã có mười bộ comple cắt may tuyệt khéo, một chiếc Ferrari, một căn hộ quý tộc không đồ đạc. Thật là thiên đường.
Khi trở về thăm cha mẹ ở lâu đài Salimbeni, anh giả vờ là người môi giới chứng khoán, và cố thuyết phục cha tha thứ cho việc bỏ đại học quân sự. Vài ngày sau, cha mẹ anh chủ trì một bữa tiệc lớn, trong đám khách khứa có giáo sư Tolomei và Diane, cô trợ lý người Mỹ trẻ măng.
Rủ Diane lẻn khỏi sàn khiêu vũ, Umberto lái xe đưa Diane đi chơi dưới ánh trăng rằm và thế là một mùa hè dài, tuyệt đẹp bắt đầu. Họ trải qua những kỳ nghỉ cuối tuần với nhau, lái xe đi khắp Tuscany và cuối cùng, khi Umberto mời Diane đến thăm anh ở Naples, chị trả lời đồng ý. Tại đó, sau khi uống hết một chai vang trong khách sạn sang nhất thành phố, anh trơ tráo kể với Diane sự thật về công việc của mình.
Diane rất khiếp sợ. Chị không muốn nghe Umberto giải thích hoặc xin lỗi, và ngay khi trở về Siena, chị trả lại mọi thứ anh tặng – nữ trang, quần áo, thư từ - và nói rằng mình không bao giờ muốn nghe thấy tên anh lần nữa.
Sau đó, trong suốt hơn một năm, anh không hề gặp chị, và khi gặp lại anh ngỡ ngàng vô cùng. Diane đang băng qua Campo ở Siena, đẩy xe có hai đứa trẻ sinh đôi, và có người kể với anh rằng Diane đã kết hôn với vị giáo sư già Tolomei. Umberto hiểu ngay mình là cha hai đứa trẻ, và lúc anh tiến thẳng tới Diane, chị tái mặt nói vâng, anh là cha chúng, nhưng chị không muốn các con bị một kẻ tội phạm nuôi dạy.
Lúc này, Umberto đã làm một việc kinh hoàng. Anh nhớ rằng Diane đã kể về công trình nghiên cứu của giáo sư Tolomei, về pho tượng có cặp mắt bằng ngọc quý và phát điên lên vì ghen tuông, Umberto kể lại với một số người ở Naples. Vừa nghe được chuyện không bao lâu, ông trùm của Umberto đã ép anh đến thăm giáo sư Tolomei để tìm hiểu thêm, và anh đã phải làm thế cùng hai người đàn ông khác. Họ đợi cho Diane và hai đứa trẻ ra khỏi nhà, rồi mới gõ cửa. Giáo sư rất lịch sự mời họ vào, nhưng trở nên căm ghét ngay khi hiểu lý do họ tới.
Thấy vị giáo sư không chịu nói, hai tên cộng sự của Umberto bắt đầu thúc ép ông già, rốt cuộc ông lên cơn đau tim và hấp hối, Tất nhiên, Umberto rất hoảng và cố cứu giáo sư, nhưng tất thảy đều vô hiệu. Anh bèn bảo hai tên kia là sẽ gặp lại chúng ở Naples, rồi khi chúng đã rời đi, anh phóng hỏa đốt nhà, hy vọng thiêu rụi các công trình nghiên cứu của giáo sư cùng xác ông ấy, đặt dấu chấm hết cho câu chuyện về pho tượng bằng vàng.
Sau thảm họa này, Umberto quyết định cắt đứt với quá khứ xấu xa và chuyển đến Tuscany, sống bằng tiền đã kiếm được. Vài tháng sau vụ hỏa hoạn, anh tìm Diane và nói rằng hiện tại, anh là người lương thiện. Ban đầu Diane không tin, và buộc tội anh đã nhúng tay vào vụ hỏa hoạn đáng ngờ giết chết chồng chị. Nhưng Umberto quyết chinh phục Diane bằng được, rốt cuộc chị lùi bước tuy chẳng bao giờ hoàn toàn tin anh vô tội.
Họ sống chung với nhau hai năm, gần như một gia đình, thậm chí Umberto còn đưa Diane về thăm lâu đài Salimbeni. Lẽ tất nhiên, Umberto không bao giờ dám kể thật với cha mẹ về hai đứa trẻ sinh đôi, cha anh sẽ giận anh vì chưa cưới mà đã có con riêng. Ai sẽ thừa hưởng lâu đài Salimbeni, nếu Umberto không có con? Đó sẽ là khoảng thời gian hạnh phúc, nếu Diane không bị “lời nguyền với hai hòng họ” ám ảnh, mỗi lúc một tăng thêm. Chị đã kể với anh chuyện này khi họ gặp nhau lần đầu tiên, nhưng lúc đó anh không coi là nghiêm túc.
Giờ đây anh phải chấp nhận thực tế rằng người phụ nữ kiều diễm này – mẹ của các con anh – bản tính là người rất dễ lo lắng và dễ bị ép buộc, và sức ép của bổn phận làm mẹ chỉ khiến nó tệ hại hơn mà thôi.
Chị đọc cho các con gái bé bỏng nghe Romeo và Juliet thay cho sách thiếu nhi, đọc đi đọc lại, cho đến khi Umberto tới và nhẹ nhàng cất sách đi. Nhưng dù anh giấu sách ở đâu chị cũng tìm ra. Khi hai đứa trẻ đã ngủ, chị dành nhiều giờ làm việc một mình, cố phục hồi công trình nghiên cứu của giáo sư Tolomei về kho báu của gia tộc và địa điểm ngôi mộ của Romeo và Giulietta. Chị không quan tâm đến những viên ngọc quý, chị chỉ muốn cứu các con gái. Chị tin rằng, các con chị có mẹ mang họ Tolomei và cha mang họ Salimbeni, chúng sẽ bị tổn thương gấp đôi vì lời nguyền của tu sĩ Lorenzo.
Umberto chưa nhận thức được rằng Diane đã gần xác định ra vị trí ngôi mộ, khi một ngày kia, vài người bạn cũ của anh ở Naples xuất hiện và bắt đầu chất vấn nhiều câu. Biết những kẻ này độc ác, Umberto bảo Diane mang hai đứa trẻ qua cửa sau và giấu chúng đi trong lúc anh cố hết sức giải thích rằng cả anh và chị không biết gì hết.
Nhưng khi Diane nghe thấy chúng đánh anh, chị trở lại với một khẩu súng và yêu cầu chúng để gia đình chị yên. Thấy chúng không chịu nghe, chị thử bắn, nhưng vì không biết dùng súng, nên chị đã bắn chệch. Thay vào đó, chúng bắn và giết chết chị ngay lập tức. Sau đó, bọn chúng bảo Umberto đây mới chỉ là bắt đầu; nếu anh không nộp cho chúng bốn viên ngọc quý, chúng sẽ đến tìm các con gái anh.
Đến phần này của câu chuyện, Janice và tôi đồng thanh: -Thế ra, ông không giết mẹ?
- Lẽ tất nhiên là không! – Ông cáu. – Sao các cô có thể nghĩ như thế?
- Cóthể, - Janice nói, nghẹn ngào, - vì cho đến bây giờ ông toàn nói dối.
Umberto lại thở dài rất sâu và lại cựa quậy, không thể thấy dễ chịu. Thất vọng và mệt mỏi, ông tiếp tục câu chuyện và kể với chúng tôi rằng, sau khi bọn chúng giết Diane và ra khỏi nhà, ông đau đớn không biết làm gì. Việc cuối cùng ông muốn là gọi cảnh sát hoặc linh mục, và có cơ phải chịu nguy hiểm vì tệ quan liêu giấy tờ khi đem bọn trẻ đi xa. Thế là, ông bế xác Diane vào xe và đưa đến một nơi hoang vắng, nơi ông có thể lao xe từ một vách đá dựng đứng, tạo hiện trường như Diane chết vì tai nạn xe cộ. Thậm chí ông còn đặt một số đồ vật của bọn trẻ vào trong xe, để mọi người tưởng chúng cũng chết rồi. Rồi ông đưa bọn trẻ đến với cha mẹ đỡ đầu của chúng là Peppo và Pia Tolomei, nhưng lái xe đi ngay, trước khi họ kịp hỏi han.
- Khoan đã! – Janice kêu lên. – Còn viên đạn thì sao? Lẽ nào cảnh sát không nhận ra mẹ tôi đã chết trước khi bị tai nạn ô tô?
Umberto ngập ngừng, rồi bất đắc dĩ trả lời:
- Tôi đã đốt cái xe. Tôi không nghĩ họ sẽ đào bới nhiều. Tại sao họ phải làm điều đó kia chứ? Đằng nào họ cũng được lĩnh lương. Nhưng một vài nhà báo tinh quái bắt đầu căn vặn nhiều câu, và trước khi tôi biết thì họ đã gán cho tôi đủ thứ tội - nào giáo sư, vụ hỏa hoạn, mẹ các cô….kể cả hai cô, - vì lợi ích của Chúa mà.
Umberto kể tiếp, đêm hôm đó, ông gọi cho bà Rose ở Mỹ, giả vờ là sĩ quan cảnh sát ở Siena. Ông báo tin cháu gái bà đã chết, các cô bé cần có một gia đình và ở lại Italy không an toàn, tố hơn hết là bà hãy tới và đưa chúng đi. Sau khi gọi điện, ông lái xe tới Naples và đến “thăm” những kẻ đã giết Diane cùng hầu hết những người biết về kho báu. Thậm chí, ông không giấu nhận dạng. Ông muốn đó là một lời cảnh cáo. Kẻ duy nhất ông không giết là Cocco. Ông không nỡ giết một thằng nhóc mới mười chín tuổi.
Sau đó, ông biến mất trong nhiều tháng, trong lúc cảnh sát lùng sục ông khắp nơi. Cuối cùng, ông đến Mỹ, tìm các con gái, và thấy chúng sống yên ổn. Ông không có dự định gì đặc biệt; khi phát hiện ra chúng sống ở đâu, ông cứ lảng vảng quanh quất đợi có chuyện gì xảy ra. Vài ngày sau, ông nhìn thấy một người phụ nữ đi dạo trong vườn, cắt những bông hồng. Cho rằng đấy là bà Rose, ông đến gần và hỏi bà có cần người giúp các việc vặt trong nhà không. Sự việc bắt đầu như thế. Sáu tháng sau, Umberto dọn đến, làm việc cả ngày, thỏa thuận làm thêm các việc cho ngôi nhà và con thuyền.
- Tôi không tin nổi! – Tôi buột ra. – Bà ấy không bao giờ lấy làm lạ vì ông…tình cờ ở trong vùng sao?
- Bà ấy rất cô đơn, - Umberto lẩm bẩm, rõ ràng không hãnh diện gì về bản thân. – Quá trẻ để là góa phụ, nhưng quá già để làm mẹ. Bà ấy sẵn lòng tin mọi thứ.
- Còn Eva Maria? Bà có biết ông ở đâu không?
- Tôi vẫn liên hệ với bà, nhưng không nói mình ở đâu qua điện thoại. Và chưa bao giờ kể với bà về hai cô.
Umberto giải thích rằng ông sợ nếu Eva Maria biết mình có hai cháu gái, sẽ khăng khăng bắt chúng về Italy. Còn ông biết rõ rằng có thể ông không bao giờ trở về; người ta sẽ nhận ra ông, và chắc chắn cảnh sát sẽ bắt ông ngay lập tức, dù ông mang tên và hộ chiếu giả. Dẫu Eva Maria không yêu cầu, nhưng do ông hiểu rất rõ mẹ mình nên đã e ngại rằng bà sẽ xoay sở tìm bằng được cách gặp các cháu gái, rồi thu xếp cho chúng được an toàn. Nếu không, chắc chắn Eva Maria sẽ dành hết phần đời còn lại héo hon mong nhớ những đứa cháu mà bà chưa gặp lần nào, cuối cùngsẽ chết vì tan nát cõi lòng và nhất định đổ lỗi cho Umberto. Vì những lý do thích đáng đó, Umberto chưa bao giờ kể với bà.
Tuy vậy, thời gian trôi qua, Umberto bắt đầu tin rằng quá khú xấu xa của mình ở Naples đã được chôn vùi vĩnh viễn. Nhưng nó kết thúc đột ngột khi một ngày kia, ông nhận thấy một chiếc limousine leo lên con đường dẫn vào nhà của bà Rose và đỗ ngay trước cửa nhà. Trong xe có bốn người, và ông nhận ra ngay Cocco trong số đó. Ông chưa bao giờ biết được bọn chúng tìm ra chỗ ở của ông bằng cách nào sau từng ấy năm, nhưng ngờ rằng chúng đã hối lội nhiều người trong cơ quan mật vụ, và theo dõi điện thoại của Eva Maria.
Những người đàn ông này bảo Umberto còn nợ chúng thứ gì đấy và phải trả lại, hoặc chúng sẽ lần theo dấu vết và bắt các con gái ông, rồi làm đủ thứ không tả xiết. Umberto nói không có tiền, nhưng bọn chúng cười nhạo ông và nhắc đến pho tượng vàng khảm bốn viên ngọc quý mà ông đã hứa với chúng từ lâu. Khi ông giải thích là không có và ông không thể trở về Italy, chúng nhún vai và nói tệ quá, chúng phải tìm ra các con ông. Rốt cuộc, Umberto đồng ý sẽ cố gắng tìm những viên ngọc quý, và bọn chúng cho ông thời hạn ba tuần lễ.
Trước khi rời đi, muốn cho ông biết bọn chúng không đùa, chúng lôi ông vào tiền sảnh và đánh ông. Trong lúc đấy, chúng làm đổ bình hoa Venetian trên bàn có ngọn chúc đài, bình hoa rơi xuống sàn và vỡ tan tành. Tiếng ồn làm bà Rose tỉnh giấc lơ mơ và ra khỏi phòng ngủ, rồi khi nhìn thấy sự việc, bà la hét từ đầu cầu thang. Một tên trong bọn rút súng và bắn bà, nhưng Umberto gạt được khẩu súng sang một bên. Không may, bà Rose quá sợ nên mất thăng bằng và ngã lăn xuống đến nửa cầu thang. Khi bọn chúng bỏ đi, Umberto mới tới được chỗ bà thì bà đã chết.
- Khổ thân bà Rose! – tôi kêu lên,- Ông kể với tôi rằng bà đã ra đi yên bình trong lúc ngủ.
- Tôi muốn ông nói thật, - tôi đáp. – Nếu ông nói thật từ nhiều năm trước…- tôi dừng lại hít một hơi thật sâu, họng tôi vẫn nghẹn tắc vì xúc cảm, - có khi chúng ta đã tránh được mọi chuyện này.
- Có thể. Nhưng giờ thì đã quá muộn rồi. Tôi muốn các cô biết…tôi muốn các cô vui vẻ…và sống như những người bình thường.
Umberto kể tiếp rằng ngay trong đêm bà Rose qua đời, ông đã gọi cho Eva Maria ở Italy và kể hết mọi sự. Thậm chí, ông còn nói rõ rằng bà có hai cháu gái. Ông cũng xin bà trả giúp ông khoản tiền mà những tên tội phạm kia yêu cầu. Nhưng bà nói rằng không thể trả một số tiền lớn như thế trong vòng ba tuần lễ. Ban đầu, bà muốn nhờ đến cảnh sát và con trai đỡ đầu của bà, Alessandro, nhưng Umberto hiểu rõ hơn hết. Chỉ có một cách duy nhất thoát khỏi cảnh này: làm như bọn khốn nói và tìm ra những viên ngọc quý trời đánh kia.
Cuối cùng, Eva Maria đồng ý giúp con trai và hứa sẽ thử lừa Hội tu sĩ Lorenzo ở Viterbo vào cuộc. Điều kiện duy nhất của bà là khi mọi việc chấm dứt, bà được gặp các cháu gái của mình và chúng sẽ không bao giờ được biết về những tội lỗi của cha chúng. Umberto đồng ý. Ông cũng không bao giờ muốn các con gái biết về quá khứ xấu xa của ông, vì thế không bao giờ muốn chúng tôi biết ông là ai. Ông tin chắc rằng nếu chúng tôi biết ông là cha, chúng tôi cố sẽ khám phá ra mọi chuyện.
- Nhưng thật nực cười! – Tôi phản đối. – Nếu ông kể cho chúng tôi sự thật, chúng tôi sẽ hiểu.
- Thế ư? – Umberto nói. – Tôi không dám chắc.
- Vậy thì, - Janice xen vào, - bây giờ chúng tôi cũng sẽ không hiểu nữa, được chưa?
Phớt lờ lời bình luận của nó, Umberto kể rằng, ngay ngày hôm sau, Eva Maria đã đến Viterbo nói chuyện với tu sĩ Lorenzo, và qua cuộc nói chuyện này, bà hiểu cần những gì để các vị thầy tu giúp bà tìm ra ngôi mộ của Romeo và Giulietta. Tu sĩ Lorenzo bảo bà phải làm lễ “hóa giải tội lỗi” cho dòng họ Salimbeni và Tolomei, và hứa khi bà làm xong, thầy sẽ đưa bà và những người sám hối khác đến ngôi mộ, quỳ gối trước Đức Mẹ Đồng Trinh nhân từ.
Vấn đề duy nhất là tu sĩ Lorenzo chưa chắc chắn tìm ra địa điểm ấy. Thầy biết ở đâu đó tại Siena có một lối vào bí mật, nhưng không biết chính xác ở đâu. Thầy kể với Eva Maria rằng, trước kia có một phụ nữ trẻ tên là Diane Tolomei đã đến thăm thầy và nói rằng đã hình dung ra lối vào đó ở đâu, nhưng không nói với thầy vì e những kẻ xấu có thể tìm ra pho tượng và phá hỏng nó. Diane cũng kể đã tìm thấy mảnh lụa thưởng từ năm 1340, và sắp làm một cuộc thử nghiệm. Chị muốn Giulietta, con gái bé bỏng của mình nằm trên đó với một chàng trai tên là Romeo, và rất hy vọng việc này sẽ hóa giải các tội lỗi trong quá khứ. Tu sĩ Lorenzo không chắc công việc suôn sẻ, nhưng thầy sẵn sàng thử. Thầy đã thảo thuận vài tuần sau Diane sẽ trở lại và họ sẽ cùng nhau đi tìm ngôi mộ. Nhưng buồn thay, chị không bao giờ đến nữa.
Khi Eva Maria kể cho Umberto nghe chuyện này, ông bắt đầu hy vọng kế hoạch của họ sẽ có hiệu quả. Vì ông biết Diane gửi một cái hộp giấy tờ trong nhà băng ở lâu đài Tolomei, và ông tin chắc trong số đó có manh mối của lối vào bí mật dẫn đến ngôi mộ.
- Hãy tin tôi, - Umberto nói, có lẽ cảm nhận được rung cảm tệ hại của tôi, - điều cuối cùng tối muốn là cuốn cô vào chuyện này. Nhưng chỉ còn lại hai tuần…
- Nên ông bịa đặt với tôi, - tôi kết luận, trào lên cơn giận mới mẻ với ông, - và để tôi tưởng rằng việc này đều do bà Rose làm.
- Còn em thì sao? – Janice phụ họa. – ông ấy để em ngỡ là được thừa kế một tài sản hậu hĩnh!
- Nhảm nhí! – Umberto vặc lại. – Cô hãy ăn mừng vì mình vẫn còn sống!
-Tôi cho rằng tôi chẳng là cái quái gì trong kế hoạch ti tiện của ông, - Janice nói tiếp, giọng cáu kỉnh – Jules lúc nào cũng là người thông minh.
- Cô thôi đi cho! – Tôi kêu lên. – Tôi là Giulietta, và tôi là người đang gặp nguy hiểm…
- Đủ rồi! – Umberto quát. – Hãy tin tôi, tôi không mong gì hơn là giữ các cô ở ngoài chuyện này. Nhưng chẳng còn cách nào. Vì thế, tôi phải nhờ một người bạn cũ để mắt đến Julie để biết chắc là nó an toàn…
- Ý ông là Bruno ư? – Tôi há hốc miệng. – Tô tưởng hắn cố giết tôi!
- Hắn ở đó để bảo vệ cô! – Umberto cãi. – không may là hắn tưởng kiếm bẫm trong việc này. – Ông thở dài. – Bruno là một nước cờ sai lầm.
- Vì thế ông đã bắt hắn ….im miệng? –Tôi tò mò.
- kKhông cần. Bruno biết quá nhiều người và quá nhiều chuyện. Bọn chúng sẽ không thích kéo dài thời gian hắn ở trong tù. – không thoải mái về việc này, Umberto tiếp tục cho rằng, về tổng thể, mọi việc đã theo đúng kế hoạch khi Eva Maria tin tôi là cháu gái của bà thật, chứ không phải là một diễn viên con trai bà thuê đóng thế, và cám dỗ được bà giúp đỡ. Bà nghi ngờ nên đã sai Alessandro lẻn vào phòng tôi ở khách sạn để lấy mẫu ADN. Khi đã có chứng cứ như mong muốn, ngay lập tức bà sắp xếp một bữa tiệc.
Nhớ lại mọi điều tu sĩ Lorenzo kể với mình, Eva Maria bảo Alessandro mang con dao găm của Romeo và cái nhẫn của Giulietta đến lâu đài Salimbeni, nhưng bà không nói lý do. Bà hiểu rằng chỉ cần loáng thoáng biết việc diễn ra, anh sẽ làm hỏng mọi sự bằng cách đưa cảnh sát tới. Trên thực tế, Eva Maria muốn giữ con trai đỡ đầu hoàn toàn ở ngoài kế hoạch của bà, nhưng vì anh là Romeo Marescotti nên bà cần anh đóng một vai – tuy không chủ tâm – trước tu sĩ Lorenzo.
Umberto nuối tiếc công nhận rằng nếu như Eva Maria cứ đưa tôi vào các kế hoạch của bà hoặc ít ra là một phần thì hay hơn. Nhưng chỉ vì mọi sự diễn ra chuệch choạc. Nếu tôi làm trọn vẹn những việc cần làm - uống vang của bà, lên giường và ngủ thiếp đi thì mọi sự sẽ êm ả.
- Đợi đã! – Tôi nói. – Ông nói bà ấy cho tôi uống thuốc ngủ ư?
Umberto ngập ngừng:
- Chỉ một chút thôi. Vì sự an toàn của cô.
- Không thể tin nổi. Bà ấy là bà nội tôi kia mà!
- Nếu đó là niềm an ủi, vì phải làm thế bà không vui tí nào. Nhưng tôi đã nói với bà đây là cách duy nhất để tránh cho cô bị liên lụy. Cô và Alessandro. Thật không may, có vẻ anh ta không uống.
- Nhưng khoan đã! – tôi phản đối. – Anh ấy đã lấy trộm cuốn sách của mẹ trong phòng khách sạn của tôi và đưa nó cho ông tối qua! Chính mắt tôi nhìn thấy!
- Cô nhầm! – Umberto rõ ràng khó chịu vì tôi cãi lại ông, và có thể hơi sửng sốt vì tôi đã chứng kiến cuộc gặp bí mật của ông với Alessandro. – Anh ta chỉ là người đưa tin. Sáng hôm qua, có người ở Siena đưua cho anh ta cuốn sách và nhờ chuyển cho Eva Maria. Hiển nhiên là Alessandro không biết đấy là sách ăn trộm, hoặc anh ta sẽ…
- Khoan! – Janice nói. – Chuyện này quá ngớ ngẩn. Tên trộm là ai và tại sao cái tên trời đánh ấy không ăn trộm cả cái hộp? Tại sao chỉ lấy một cuốn sách bìa mềm?
Umberto lưỡng lự, rồi kẽ nói:
- Vì mẹ các cô đã dặn ta về mật mã trong cuốn sách. Bà bảo ta rằng nếu có chuyện gì xảy ra với bà…. – ông không thể nói tiếp.
Tất cả chúng tôi im lặng một lát, cho đến khi Janice thở dài và nói: - tôi nghĩ ông nợ Jules một lời xin lỗi…
- Jan! – tôi ngắt lời nó. – Đừng nói thế!
- Nhưng hãy nhìn chuyện xảy ra với chị…- Nó khăng khăng.
- Đấy là lỗi của chị thôi! – Tôi vặc nó. – Chị là người…- Nhưng tôi không biết nói tiếp như thế nào.
Umberto càu nhàu:
- Tôi không thể tin được hai người! Tôi không dạy dỗ gì cô ư? Cô mới quen biết anh ta một tuần lễ…nhưng các người đã ở đó! Cả hai người thật chẳng ra sao!
- Ông rình mò chúng tôi sao? – Tôi cảm thấy ngượng chín mặt. – Đấy chỉ là…
- Tôi cần lấy mảnh lụa thưởng! – Umberto nói toạc ra. – Mọi việc sẽ trở nên suôn sẻ, nếu hai người không…
- Trong khi các ông bàn về việc này, - Janice ngắt lời ông, - Alessandro biết nhiều không? Umberto khịt khịt mũi.
- Cố nhiên là anh ta biết đủ! Anh ta biết Julie là cháu nội của Eva Maria, nhưng Eva Maria muốn đích thân nói với cô ấy. Thế đấy. Như tôi đã nói, chúng tôi không liều dính đến cảnh sát. Vì thế Eva Maria không nói cho anh ta biết về nghi lễ với cái nhẫn và con dao găm cho đến lúc trước khi diễn ra, và hãy tin tôi, Alessandro không vui vì cứ phải giữ kín những chuyện ấy. Nhưng dù sao anh ta cũng đồng ý làm việc đó, vì Eva Maria nói đây là việc rất ý nghĩa cho bà và cho các cô, một nghi lễ như thế sẽ chấm dứt lời nguyền của hai gia đình. – Umberto dừng lại rồi nói, dịu dàng hơn, - câu chuyện phải kết thúc như thế này thật quá tệ.
- Ai bảo đây là đoạn kết? – Janice cắm cảu.
Umberto lặng thinh, nhưng tôi chắc cả hai chúng tôi đều biết ông đang nghĩ: ôi chao,dứt khoát đây là đoạn kết.
Lúc chúng tôi nằm đó trong sự im lặng chua xót, tôi có thể cảm thấy sự tàn ác khép lại quanh mình từ tứ phía, thấm vào thân thể qua vô số những vết thương nho nhỏ và rót đầy sự thất vọng vào tôi. Nỗi sợ tôi từng biết trước kia, khi bị Bruno Carrera săn đuổi hoặc khi Janice và tôi bị mắc kẹt trong đường hầm Bottini chẳng ăn nhằm gì so với những thứ tôi cảm thấy lúc này, giằng xé vì ân hận và hiểu rằng đã quá muộn để tôi uốn nắn lại các việc.
- Tôi hỏi vì tò mò thôi, - Janice lầm bầm, rõ ràng tâm trí nó lang thang trên một con đường khác hẳn tôi, dù có lẽ cũng phiền muộn như nhau, - ông thực sự yêu bà ấy không? Tôi muốn nói là mẹ chúng tôi ấy?
Khi Umberto không trả lời ngay, nó nói thêm, ngập ngừng hơn: -Và bà ấy có …yêu ông không?
Umberto thở dài:
- Bà ấy căm hận tôi. Đó là cơn chấn động lớn nhất của bà ấy. Bà ấy nói trong gien của chúng tôi có ý chí quyết tâm, vì thế bà ấy không thể làm khác được. Bà ấy thường gọi tôi là …- Ông ngừng lại, giọng ông trở nên rõ ràng. – Nino
Cuối cùng, khi chiếc xe tải đỗ lại, tôi gần như quên mất chúng tôi tới đâu và vì sao. Nhưng khi cánh cửa vừa bật mở, để lộ hình dáng Cocco và những tên bạn nối khố của hắn nổi bật trên nền giáo đường Siena trăng sáng vằng vặc, mọi sự trở lại với tôi như một cú đánh vào bụng.
Bọn chúng nắm mắt cá chân chúng tôi và kéo khỏi thùng xe, nhưng thể chúng tôi là hành lý, rồi trèo vào tóm tu sĩ Lorenzo. Sự việc xảy ra nhanh đến nỗi tôi chỉ nhớ được sự đau đớn khi bị đập mạnh trên sàn xe gợn sóng. Lúc chúng đặt chúng tôi xuống, cả Janice và tôi đều loạng choạng, không ai đứng thẳng được sau khi nằm lâu như thế trong bóng tối.
- Nhìn kìa! – Janice kêu lên, trong giọng nói của nó lấp lánh một tia hy vọng. – Các nhạc công!
Nó nói đúng. Có ba ô tô nữa đỗ cạnh một đống đá đổ ra từ chiếc xe tải, sáu người đàn ông mặc xmocking đứng quanh đó với các hộp đàn xenloo và violon; họ vừa hút thuốc vừa đùa bỡn. Cảnh đó khiến tôi nhẹ người, nhưng khi Cocco đến thẳng chỗ họ, giơ bàn tay lên chào, tôi hiểu ngay rằng những người này không đến để chơi nhạc, họ là đồng bọn của hắn ở Naples.
Lúc trông thấy Janice và tôi, bọn đàn ông lập tức lộ vẻ khoái trá. Không hề quan tâm đến tiếng ồn mà chúng gây ra, chúng huýt còi huýt sáo inh ỏi, cố để chúng tôi nhìn chúng. Umberto không cố ngăn cản trò vui ấy lại; vấn đề là ông – và chúng tôi – may mắn vẫn còn sống. Chỉ đến lúc nhìn thấy tu sĩ Lorenzo xuất hiện từ chiếc xe tải, sự hân hoan của chúng mới nhường chỗ cho một thứ giống như khó chịu, cả bọn cúi xuống cầm hộp đàn lên theo kiểu học sinh vồ lấy cặp khi giáo viên tới.
Với mọi người trong quảng trường đêm ấy – rất ít người, phần lớn là du khách và thiếu niên, chắc chúng tôi trông giống một nhóm người bản xứ bình thường từ lễ hội nào đó đến làm cho Palio. Bọn tay chân của Cocco không dừng lại để nói chuyện phiếm và cười đùa giữa đám đó, Janice và tôi bước đi ngoan ngoãn, mỗi người quấn một lá cờ to của lãnh địa, che giấu khéo léo những sợi thừng và những con dao bấm đang ép sát vào sườn chúng tôi.
Lúc chúng tôi đến gần lối vào chính của Santa Maria della Scala, tôi chợt trông thấy danh họa Lippi xách giá vẽ bước đi, chắc đang mải suy ngẫm các vấn đề thế tục khác. Không dám gọi để ông chú ý, tôi ráng hết sức nhìn ông chằm chằm, hy vọng vươn tới chỗ ông bằng tinh thần. Nhưng rốt cuộc, khi họa sĩ liếc nhìn về phía chúng tôi, cái nhìn của ông chỉ lướt qua mà không nhận ra, tôi ỉu xìu vì thất vọng.
Đúng lúc đấy, chuông giáo đường ngân vang báo nửa đêm. Đêm hôm đó nóng, tĩnh mịch và oi ả, có tiếng sấm sét từ nơi nào đó xa xăm báo sắp có cơn dông. Lúc chúng tôi lên đến chỗ cửa trước gớm ghiếc của bệnh viện cổ, những cơn gió mạnh đầu tiên quét qua quảng trường, xới tung từng mẩu rác rưởi trên đường, giống như lũ quỷ dữ vô hình đang lục tìm cái gì đó hoặc người nào đó.
Không phí phạm thì giờ, Cocco rút điện thoại di động ra và gọi; ít giây sau, hai ngọn đèn nhỏ ở hai bên cửa tắt ngóm, dường như toàn bộ khu nhà thở một hơi dài. Không hề hối hả, hắn tiến đến, rút chiếc chai khóa to bằng gang trong túi ra, tra vào lỗ khóa bên dưới tay cầm của cánh cửa đồ sộ, tiếng mở khóa vang to lanh lảnh.
Lúc này, khi chúng tôi sắp bước vào tòa nhà, tôi chợt nghĩ Santa Maria della Scala là một trong những nơi cuối cùng ở Siena tôi muốn thăm dò vào lúc nửa đêm, dù có dao gí sát vào sườn hay không. Theo lời Umberto, dù tòa nhà đã biến thành bảo tàng từ nhiều năm trước, nó vẫn có cả một quá trình đau ốm và chết chóc. Kể cả với người không tin vào ma quỷ, vẫn có nhiều thứ khác để khó chịu, đầu tiên là mầm bệnh dịch hạch ngấm ngầm. nhưng đấy không hẳn là thứ tôi cảm thấy; từ lâu rồi, tôi không còn điều khiển được số phận của mình nữa.
Lúc Cocco mở cánh cửa ấy, tôi tưởng sẽ có những hình bóng phù du và mùi thối rữa ào ra, nhưng ở bên kia cửa chỉ có bóng tối mát mẻ. Dù vậy, cả Janice và tôi vẫn ngập ngừng trên ngưỡng cửa, và chỉ khi bọn chúng kéo mạnh, chúng tôi đành miễn cưỡng, lảo đảo tiến vào chỗ chưa biết.
Khi mọi người đã ở bên trong và cánh cửa đóng lại an toàn sau lưng, một đám những ngọn đền nhỏ bừng sáng vì bọn chúng bật đèn đeo trên trán, và lách cách mở các hộp nhạc cụ. Xếp trong lớp xốp là đèn pin, vũ khí, các dụng cụ tự động chạy bằng điện, và khi lắp ráp các thứ xong, vỏ hộp bị đá sang một bên
- Andinamo!–Cocco nói, vẫy khẩu tiểu liên khi tất cả chúng tôi còn đang lưỡng lự ở cổng an ninh cao đến ngang đùi. Tay chúng tôi vẫn bị trói quặt sau lưng, Janice và tôi lúng túng không sao bước qua được, rốt cuộc bọn chúng phải chộp cánh tay chúng tôi và kéo mạnh qua cổng, mặc kệ chúng tôi la hét vì đau đớn lúc cẳng chân chúng tôi cọ xát vào các chấn song kim loại.
Lúc này, lần đầu tiên Umberto to tiêngs chống lại sự tàn bạo của chúng, ông nói gì đó với Cocco chỉ có thể có nghĩa là hãy nhẹ tay với các cô gái, nhưng đáp lại sự lo lắng của ông là một khuỷu tay thúc mạnh vào ngực khiến ông ho sặc sụa. Lúc tôi dừng lại xem ông có ổn không, hai tên tay sai sốt ruột túm lấy vai tôi và đẩy dúi về phía trước, bộ mặt lạnh lùng của chúng không hề lộ bất cứ xúc cảm nào.
Người duy nhất chúng đối xử có phần tôn trọng là tu sĩ Lorenzo, ông được phép ung dung và trèo qua cổng với thái độ đường hoàng còn lại của mình.
- Tại sao ông ấy vẫn bị bịt mắt? – Tôi thì thầm với Janice lúc bọn chúng vừa buông tôi ra. -Vì chúng sẽ để ông ta sống, - là câu trả lời ảm đạm của nó.
- Suỵt! – Umberto suỵt và nhăn mặt với chúng tôi. – Các cô càng ít chú ý đến bản thân càng hay.
Suy nghĩ cho kỹ, đây quả là một đòi hỏi quá cao. Cả Janice và tôi đều không tắm từ ngày hôm trước, nói gì đến rửa tay, và tôi vẫn mặc bộ váy dài màu đỏ trong bữa tiệc của Eva Maria, tuy lúc này nó đang ở trong tình trạng khá thiểu não. Sớm hôm đó, Janice đã gợi ý tôi mặc quần áo của mẹ trong tủ áo và bỏ qua mục áo lót. Nhưng khi mặc thử, cả hai đều thấy không chịu nổi mùi băng phiến. Thế là tôi ở đây, đi chân đất, cáu ghét nhưng vẫn mặc váy dạ hội
Chúng tôi im lặng bước đi, theo sau những ngọn đèn trên đầu nhấp nhô lúc bọn chúng đi dọc các hành lang tối tăm và xuống vài cầu thang khác. Dẫn đầu là Cocco là một trong những tên tay sai, một gã cao, da vàng ệch, mặt dữ tợn, vai khòm khiến tôi nghĩ tới một con chim kền kền đầu trọc. Thỉnh thoảng, hai tên dừng lại và tìm đường theo một tờ giấy rộng khổ, tôi đoán là bản đồ tòa nhà. Mỗi khi chúng làm thế, một tên lại giật mạnh tóc hoặc tay tôi để bắt tôi cũng dừng lại. Lúc nào cũng năm tên đi trước và năm tên đi sau chúng tôi, và nếu tôi thử trao đổi những cái liếc nhìn với Janice hoặc Umberto, tên đi sau tôi lại ấn họng súng vào giữa hai bả vai tôi cho đến khi tôi hét lên vì đau. Ngay cạnh tôi, Janice cũng bị đối xử y như thế; dù tôi không thể nhìn nó, tôi biết nó cũng sợ hãi và điên tiết như tôi, chỉ vì vô phương tự vệ.
Dù những bộ xmockinh và tóc vuốt keo, bọn chúng vẫn nặng mùi, cho thấy chúng cũng bị sức ép. Hoặc có thể đây là mùi tôi có thể ngửi thấy của tòa nhà, càng đi sâu vào lòng đất, mùi càng nồng nặc. Chỉ nhìn qua, toàn bộ nơi này có vẻ rất sạch sẽ, thậm chí vô trùng, nhưng khi đi sâu vào những hành lang hẹp bên dưới tầng hầm rắc rối như mạng nhện, tôi không sao giũ bỏ được cảm giác- ở bên kia các bức tường khô ráo, niêm phong cẩn thận kia – là thứ thối rữa, mục nát đang chậm rãi ăn thủng lớp vữa trát.
Cuối cùng, khi tất cả dừng lại, tôi đã mất hẳn cảm giác về phương hướng từ lâu. Tôi thấy chắc chúng tôi phải ở sâu dưới đất ít nhất mười lăm mét, nhưng tôi không còn chắc chắn là đang ở ngay dưới Santa Maria della Scala hay không nữa. Lúc này run rẩy vì lạnh, tôi nhấc hết chân này đến chân kia, cọ xát bàn chân vào bắp chân cho máu lưu thông.
- Jules! – Janice bỗng nói, cắt ngang sự cố gắng của tôi. – Kìa!
Tôi ngỡ có kẻ đánh cả hai chúng tôi vào đầu để ngăn nói chuyện, nhưng thay vào đó, chúng kéo chúng tôi tới trước cho đến khi mặt đối mặt với Cocco và con kền kền đầu trọc.
- Giờ thì sao đây, các cô gái? – Cocco nói, ngọn đèn đeo trên đầu hắn khiến chúng tôi lóa cả mắt.
- Hắn nói gì thế? – Janice rít lên, nó quay đầu tránh chùm ánh sáng.
- Bạn gái gì đó, - tôi đáp khẽ, không yên tâm tí nào về cách hiểu từ đó.
- Hắn nói: “giờ thì sao đây, các cô gái?” – Umberto xen vào. – Đây là phòng của Thánh nữ Caterina, từ đây chúng ta đi đến đâu?
Lúc đó chúng tôi mới nhận ra con kền kền đang chĩa đèn pin qua cái cửa mắt cáo trên tường, chiếu sáng một phòng nhỏ của tu viện, có một giường hẹp và một bàn thờ. Trên giường có pho tượng một phụ nữ nằm nghiêng – chắc là Thánh nữ Caterina – và bức tường đằng sau giường bà sơn màu xanh lơ, khảm nhiều ngôi sao màu vàng.
- Ơ, - Janice nói, nó cũng kinh hoàng như tôi khi phát hiện ra chúng tôi đang ở đây thật, căn phòng được nhắc tới trong câu đó khó hiểu của mẹ. “đưa cho tôi cái xà beng”
- Bây giờ thì sao? – Umberto hỏi, muốn chứng tỏ với Cocco chúng tôi có ích biết chừng nào. Janice và tôi nhìn nhau, quá hiểu rằng những chỉ dẫn của mẹ đã chấm dứt ở đó, với một câu vui vẻ,” và các cô gái giẫm chân lên nó!”
- Đợi đã…-Tôi chợt nhớ ra một mẩu khác, - Ồ phải rồi…”vứt cây thánh giá..”
- Cây thánh giá ư? – Trông Umberto bối rối. – Cây thánh giá…
Tất cả chúng tôi vươn người nhìn vào căn phòng lần nữa, và khi Cocco gạt chúng tôi sang một bên để nhìn tận mắt, Janice gật đầu thật mạnh, cố dùng mũi để chỉ.
- Kia kìa! Nhìn đi! Dưới bàn thờ!
Đúng thế, bên dưới bàn thờ có một viên đá hoa to khảm cây thánh giá màu đen, nom rất giống cửa ngôi mộ. Không để lỡ, Cocco lùi lại và chĩa khẩu tiểu liên vào cái khóa móc giữ cánh cửa mắt cáo. Trước khi mọi người có thời giờ chạy đi tìm chỗ nấp, hắn đã lia một tràng điếc tai, cánh cửa mắt cáo rời khỏi bản lề, mở toang.
- Ôi, Jesus! – Janice kêu to, nhăn nhó vì đau. – Em nghĩ nó thổi bay màng nhĩ em rồi. Thằng cha này điên thật
Không một lời, Cocco quay ngoắt lại, nắm lấy họng Janice và siết mạnh đến nỗi nó suýt ngạt thở. Sự việc xảy ra nhanh đến mức tôi không kịp nhìn thấy, cho đến lúc hắn buông Janice ra và nó quỵ gối há hốc miệng hít lấy hít để không khí.
- Ôi Jan! – Tôi kêu lên, quỳ xuống cạnh nó. – Em không sao chứ?
Đáp lại, nó mất một lúc để hít thở. Rồi cuối cùng mới nói, giọng run bắn - Cẩn thận đấy….- Nó lẩm bẩm, chớp chớp mắt, - hắn hiểu tiếng Anh.
Lát sau, bọn chúng tới chỗ cây thánh giá dưới bàn thờ, mang theo xà beng, máy khoan, và khi viên đá lát đã lỏng ra rồi rơi thịch lên sàn làm bốc lên một đám bụi mù mịt, không ai ngạc nhiên thấy đằng sau là một đường hầm.
Ba ngày trước, khi bò khỏi miệng cống ở Campo, Janice và tôi đã hứa với nhau không bao giờ mò mẫm xuống hang Bottini lần nữa. Vậy mà chúng tôi ở đây, đi qua một lối nhỏ hơn lỗ sâu đục trong bóng tối mịt mùng và không bầu trời xanh nào vẫy gọi ở đầu kia.
Trước khi đẩy chúng tôi vào hang, Cocco cắt dây trói cho chúng tôi, chẳng phải hắn tử tế gì, mà chỉ vì đấy là cách duy nhất để chúng tôi đi cùng. May mắn thay, hắn vẫn ngỡ là cần chúng tôi để tìm ra ngôi mộ của Romeo và Giulietta, hắn không biết rằng, cây thánh giá ở dưới gầm bàn thờ trong phòng Thánh nữ Caterina là manh mối cuối cùng trong những chỉ dẫn của mẹ tôi.
Nhích từng tí một sau Janice, chẳng nhìn thấy gì ngoài chiếc quần jeans của nó và thỉnh thoảng ánh nhấp nháy của những cái đèn đeo trên đầu đập vào bề mặt lởm chởm của hang, tôi ước giá tôi cũng mặc quần. Tôi vướng víu trong cái váy dài lượt thượt và lớp nhung mỏng chẳng che chở được đầu gối trầy xước khỏi lớp sa thạch gồ ghề. May mắn duy nhất là tôi tê dại vì giá lạnh nên hầu như không cảm thấy đau.
Cuối chàng, khi tới cuối đường hầm, tôi nhẹ người vì bọn chúng không thấy tảng đá mòn hoặc đống đá vụn chắn đường và bắt chúng tôi quay lại.Thay vào đó, chúng tôi rơi vào một cái hang trống trải, bề rộng khoảng sáu mét và đủ cao cho mọi người đứng thẳng.
- Eora? – Cocco nói lúc Janice và tôi vừa lọt vào tầm nghe, lần này chúng tôi không cần Umberto dịch nữa. Câu hỏi đó là Bây giờ làm gì?
- Ôi không! – Janice thì thầm với tôi, - đây là đường cùng rồi!
Đằng sau chúng tôi, bọn chúng cũng nhô ra từ đường hầm, một người trong đó là tu sĩ Lorenzo, ông thoát dễ dàng vì được tên kền kền đầu trọc và một tên khác có tóc buộc đuôi ngựa đỡ, như thể ông là một hoàng tử được các bà mụ hoàng gia nâng niu. Một tên nào đó còn khoan dung bỏ cái bịt mắt trước khi đẩy vị thầy tu già vào hang và lúc này tu sĩ Lorenzo hăm hở bước tới, mắt mở to ngạc nhiên dường như ông quên bẵng hoàn cảnh hung bạo đã đưa ông tới đây.
- Chúng ta làm gì đây? – Janice rít lên, cố nhìn thẳng vào mắt Umberto. Nhưng ông còn mải phủi đất bụi bám trên quần nên không bắt được sự căng thẳng đột ngột đó. – Đường cùng tiếng Ý nói thé nào?
May cho chúng tôi, Janice nhầm. Lúc nhìn quanh cẩn thận hơn, tôi thấy có hai lối nữa vào hang, ngoài cái đường như sâu đục mà chúng tôi vừa đi. Một lỗi ở trên trần, nhưng là một ống dài, tối tăm, cửa vào bị chặn bằng một tấm bê tông, dù có thang cũng không thể với tới. Nó giống như cái máng đổ rác cổ, và ấn tượng này càng rõ hơn khi có lối vào khác ở ngay trên sàn, đúng chỗ đó. Hoặc ít ra, tôi cho rằng có một lỗ hổng bên dưới tấm kim loại han gỉ trên sàn hang, giấu trong bụi bặm và đá vụn. Về lý thuyết, nếu ai rơi từ trên cao – nếu cả hai lỗ đều mở, - có thể xuyên qua hang mà không dừng lại ở giữa.
Thấy Cocco vẫn nhìn Janice và tôi đợi chỉ dẫn, tôi làm cái việc hợp lý duy nhất là chỉ vào tấm kim loại trên sàn.
- Tìm kiếm, lục soát, - tôi nói, cố bịa ra một lời chỉ dẫn đủ khó hiểu, - nhìn xuống bên dưới bàn chân. Vì Juliet nằm ở đây.
- Phải! – Janice gật dầu, lo lắng giật mạnh cánh tay tôi. – Juliet nằm ở đây.
Sau khi liếc nhìn Umberto để khẳng định, Cocco bảo bọn kia dùng xà beng bẩy tấm kim loại, làm nó long ra và đẩy sang một bên, chúng dốc sức làm việc đó vì tu sĩ Lorenzo đã lui vào một góc và bắt đầu lần chuỗi tràng hạt.
- Tội nghiệp ông già, - Janice nói và cắn môi, - ông ấy mất trí rồi. Em chỉ mong…-Nó không nói hết, nhưng tôi biết nó nghĩ gì, vì tôi cũng nghĩ như thế từ lâu lắm rồi. Vấn đề duy nhất là thời gian, trước khi Cocco nhận ra vị thầy tu già chẳng là gì ngoài một gánh nặng. Và khi việc đó xảy ra, chúng tôi không thể làm được gì để cứu thầy.
Lúc này đây chúng tôi được tự do, nhưng cả hai đều hiểu rằng mình vẫn bị kẹt như trước. Tên cuối cùng vừa thoát khỏi đường hầm, tên tóc đuôi ngựa đã đứng chắn trước lỗ hổng, để chắc chắn không kẻ ngu ngốc nào cố bỏ đi. Thế là, đường thoát duy nhất khỏi hang cho Janice và tôi – dù có hay không có Umberto và tu sĩ Lorenzo – là xuống ống cống với những kẻ khác.
Cuối cùng, khi cái nắp kim loại đã dẹp xong, lộ ra một lỗ hổng trên sàn, đủ to cho một người đàn ông trèo qua. Bước tới, Cocco soi cái đèn pin vào lỗ và sau một lát do dự, những tên kia làm theo, lẩm bẩm với nhau chẳng mấy sốt sắng. Mồi hôi thối bốc lên từ chỗ tối tăm bên dưới, Janice và tôi không phải là người duy nhất bịt mũi, nhưng chỉ một lúc sau, không thể chịu nổi nữa. Rõ ràng, chúng tôi không mấy quen với mùi thối rữa này.
Dù nhìn thấy gì ở dưới đó, Cocco cũng chỉ nhún vai và nói:
- Un bel niente.
- Hắn nói chẳng có gì, - Umberto dịch và cau mày.
- Thì hắn mong cái quái gì? – Janice chế nhạo. –Một biển hiệu bằng neon viết. Hỡi bọn cướp, đây là đường đến ngôi mộ ư?
Lời bình phẩm của Janice kiến tôi rúm lại, và khi thấy nó ném cái nhìn trừng trừng, chọc tức vào Cocco, tưởng hắn sẽ nhảy tới và tóm lấy cổ họng nó lần nữa.
Nhưng hắn không làm thế. Thay vào đó, hắn nhìn nó theo kiểu tính toán, kỳ lạ và tôi chợt hiểu ra rằng cô em gái khôn ngoan của tôi đã thăm dò hắn ngay từ lúc đầu, cố tính toán cách mắc mồi và câu hắn. Tại sao? Vì hắn là con đường duy nhất ra khỏi đây.
- Dai, dai! -Hắn chỉ nói thế và ra hiệu cho bọn kia nhảy xuống hố, tên nọ tiếp tên kia. Căn cứ vào việc bọn chúng thu hết can đảm trước khi làm việc đó và những tiếng kêu yêu ớt vọng ra từ bên dưới lúc chúng đập vào sàn một cái hang khác, có thể thấy tiếng rơi đủ to như một thách thức, nhưng chưa đủ to để cần một sợi dây.
Đến lượt chúng tôi, Janice bước tới ngay, chắc để chứng tỏ cho Cocco thấy chúng tôi không sợ. Khi hắn chìa tay ra giúp nó – có lẽ là lần đầu tiên trong nghề - nó nhổ vào lòng bàn tay hắn trước khi tụt xuống và biến mất qua lỗ hổng. Thật không ngờ, hắn chỉ nhe răng ra cười và nói gì đó với Umberto, tôi lấy làm mừng là không hiểu. Nhìn thấy Janice vẫy tôi từ hang bên dưới, và khoảng cách dựng đứng không quá hai mét rưỡi hoặc ba mét, tôi cũng nhảy xuống và rơi vào những cánh tay đưu ra để đốn lấy tôi. Tuy nhiên, lúc chúng đỡ và đặt tôi lên sàn, một trong những tên đó trơ trẽn mò mẫm tôi, và tôi cố chống lại hắn nhưng vô hiệu
Cười sằng sặc, hắn tóm cả hai cổ tay tôi và cố kéo cả bọn vào trò vui, nhưng lúc tôi bắt đầu hoảng hốt, Janice đã lao tới cứu tôi, lao qua những bàn tay và cánh tay, chặn giữ tôi và bọn đàn ông.
- Chúng mày muốn vui hả? – Nó hỏi, và nhăn mặt ghê tởm. – Đây là thứ chúng mày thèm phải không? Hả? Tại sao chúng mày không vui vẻ với tao đây… - Nó xé toạc áo sơ mi của nó, điên cuồng giận dữ đến mức bọn đàn ông không biết nên làm gì. Sững sờ nhìn vào cái nịt ngực của nó, tất cả lùi lại, trừ tên khai mào trò chơi. Vẫn cười tự mãn, hắn trâng tráo thò tay sờ ngực Janice nhưng bị một tràng súng điếc tai chặn lại, làm tất cả giật mình và hoang mang
Rất nhanh, một trận mưa sa thạch vỡ vụ ào ào đè gí mọi người xuống, đầu tôi đập xuống sàn, miệng và lỗ mũi tôi đầy đất cát, tôi choáng váng hồi tưởng lúc ngạt thở vì hơi cay ở Rome và ngỡ mình sắp chết. Trong vài phút, tôi ho dữ dội, suýt nôn và không chỉ mình tôi như vậy. Xung quanh tôi, bọn đàn ông gục xuống hết, kể cả Janice. Sự an ủi duy nhất là sàn hang không rắn và đàn hồi lạ lùng, nếu không, đá rắn có thể đã làm tôi ngất xỉu rồi.
Rốt cuộc, ngước nhìn qua màn bụi mình, tôi thấy Cocco đứng đó, khẩu tiểu liên trong tay, đợi xem có tên nào muốn đấu nữa không. Nhưng không ai dám. Hình như loạt đạn cảnh cáo đã làm chấn động hang, nhiều mảng trên trần rơi xuống, và bọn đàn ông mải gỡ đá vụn trên tóc và quần áo, càng kích thích quyết tâm của hắn.
Hài lòng vì hiệu ứng vừa tạo ra, Cocco chỉ hai ngón tay vào Janice và nói, bằng giọng không ai có thể bỏ qua.
- La stronza è mia! – không biết chắc stronza là gì, song tôi thực sự hiểu cái thông điệp chung: Không ai được tàn phá em gái tôi, trừ hắn.
Gượng đứng lên, tôi nhận thấy mình run rẩy toàn thân, không thể kiềm chế nổi thần kinh nữa. Lúc Janice đến bên tôi, quàng tay quanh cổ tôi, tôi cũng cảm thấy sự run rẩy của nó.
- Em điên thật, - tôi nói và siết chặt lấy nó. – Bọn này không giống như những kẻ dễ bịp em vẫn điều khiển đâu. Tội ác khó điều khiển lắm.
Janice khịt mũi:
- Tất cả bọn đàn ông đều điều khiển được. Chỉ cần cho em thời gian thôi. Trước hết, phải làm cho thằng điên Cocco thả chúng ta khỏi đây đã.
- Chị không chắc điều đó, - tôi lẩm bẩm, quan sát bọn chúng hạ tu sĩ Lorenzo đang rất lo lắng từ hang trên xuống. – Chị nghĩ mạng sống của chúng ta khá rẻ rúng trong mắt những kẻ này.
- Thế tại sao chị không nằm xuống và chết ngay bây giờ đi? – Janice nói, tự gỡ rối. – Cách ấy dễ hơn nhiều kia mà?
- Chị đang cố là người phải lẽ, - tôi bắt đầu, nhưng nó không để tôi nói tiếp.
- Chị chẳng bao giờ làm được việc gì phải lẽ trong đời! – Nó thắt nút tà sơ mi rách toạc lại. – Sao lại bắt đầu lúc này.
Lúc nó giậm chân huỳnh huỵch trán xa tôi, tôi suýt ngồi bệt xuống và từ bỏ. Cứ nghĩ đây là toàn bộ việc tôi làm – toàn bộ cơn ác mộng săn đuổi kho báu – và có thể tránh được nếu tôi tin Alessandro và không bỏ chạy khỏi lâu đài Salimbeni theo cách tôi đã làm. Nếu như tôi cứ ở lại đó, không nghe thấy gì, không nhìn thấy gì và quan trọng hơn cả là không làm gì, có lẽ bây giờ tôi vẫn ở đó, lại ngủ thiếp đi trên chiếc giường quây màn trướng trong vòng tay anh. Nhưng số mệnh đòi hỏi tôi phải làm khác. Thay vào đó tôi đang ở đây, trong ruột nơi nào không biết, dơ dáy ngoài sức tưởng tượng và thụ động quan sát trong lúc con quái vật giết người lăm lăm khẩu tiểu liên đang quát tháo cha tôi, còn em gái tôi bảo hắn đi tiếp tới đâu đó trong cái hang này không có lối ra. Thừa biết tôi không thể đứng đó mà không làm gì khi họ cần tôi giúp đến thế, tôi cúi nhặt cái đèn pin rơi trên nền. Lúc đó tôi nhận ra có cái gì đó thò ra khỏi đất trước mắt tôi.
Trong chùm ánh sáng nhợt nhạt, trông nó giống một cái vỏ sò lớn, nứt nẻ, nhưng rõ ràng không phải thế. Đại dương ở cách đây gần năm chục dặm. Tôi quỳ xuống xem xét kỹ hơn, và mạch tôi đập nhanh hơn khi nhận ra tôi đang nhìn vào một mảnh sọ người. Sau nỗi kinh hoàng ban đầu, tôi ngạc nhiên thấy sự phát hiện không làm tôi hoang mang nhiều lắm. Nhưng sau đó, cân nhắc đến những lời chỉ dẫn của mẹ, cảnh tượng hài cốt con người là điều mong đợi; rốt cuộc, chúng tôi đang đi tìm một ngôi mộ kia mà. Thế là tôi bắt đầu đào vào lớp nền xốp bằng tay không, xem những thứ khác của bộ xương có đấy không, và quyết tâm làm thế một lúc không lâu, tôi thấy đúng là nó ở đấy thật. Nhưng không chỉ có một. Ngay dưới nền – một thứ hỗn hợp đất với tro, theo cảm nhận, - đáy hang đầy những xương người xếp chặt, cài vào nhau thành một mớ hỗn độn.