← Quay lại trang sách

Chương 9 (3) Một nấm mồ à? Không đâu, một nguồn sáng đấy, Chàng tuổi trẻ đoản mệnh.-Vì nơi đây yên nghỉ Juliet và vẻ đẹp của nàng-Đã biến hầm mộ này thành phòng dạ hội đèn đuốc tưng bừng

Phát hiện rùng rợn của tôi khiến mọi người lùi lại khiếp sợ, và Janice suýt nôn thốc khi nhìn thấy thứ tôi tìm ra.

- Lạy Chúa tôi! – Nó ọe. – Đây là một ngôi mộ khổng lồ! – Lảo đảo lùi lại, nó lấy cánh tay áo bịt chặt miệng và mũi. –Toàn bộ những nơi này thật tởm lợm…chúng ta đang ở trong một hố chôn người bị dịch hạch! Đầy những vi trùng. Tất cả chúng ta sẽ chết!

Sự kinh hoàng của nó gây ra một làn sóng sợ hãi lan khắp đám đàn ông, và Cocco phải hét vỡ phổi bắt mọi người trấn tĩnh. Người duy nhất có vẻ không quá rã rời là tu sĩ Lorenzo, thầy chỉ cúi đầu và lâm râm cầu nguyện, có lẽ cho linh hồn của những người đã chết, có lẽ phải đến hàng trăm, nếu không đến hàng ngàn người, tùy thuộc vào độ sâu thực sự của hang.

Nhưng Cocco không còn tâm trạng nào mà nghe cầu nguyện.

Dùng báng súng gạt phắt vị thầy tu sang một bên, hắn chỉ thẳng vào tôi và quát câu gì đó cáu kỉnh.

- Hắn muốn biết từ đây đi tới đâu nữa, - Umberto dịch, giọng ông là đối trọng bình tĩnh với sự cuồng loạn của Cocco. – Hắn nói cô đã kể với hắn, Giulietta được chôn trong ngôi mộ này.

- Tôi không nói thế. …-Tôi phản đối, thừa biết chính tôi đã nói vậy. – Mẹ nói là ….Đi qua cửa và Juliet nằm đây.

- Cửa ở đâu? – Cocco muốn biết, hắn trừng trừng nhìn đây nhìn đó. – Tôi, tôi chẳng thấy cánh cửa nào!

- Cánh cửa đó là ở đây, - tôi nói dối. - Ở chỗ nào đó.

Mắt Cocco long lên và hắn gầm gừ một câu thô bạo rồi giậm chân thình thịch.

- Hắn không tin, - Umberto nói, dứt khoát. – Hắn nghĩ là cô lừa hắn. Giờ hắn đến nói chuyện với tu sĩ Lorenzo.

Janice và tôi mỗi lúc thêm lo lắng, quan sát bọn đàn ông vây quanh vị tu sĩ và bắt đầu dồn dập hỏi thầy. Điếng người vì sợ, thầy cố gắng nghe cả bọn cùng một lúc, nhưng lát sau thầy chỉ nhắm mắt và bịt hai tai lại

- Thằng ngu! – Cocco cười khinh bỉ, với tay tới ông già.

- Không! – Janice kêu lên, chạy ào tới và nắm lấy khuỷu tay Cocco, ngăn hắn xúc phạm tu sĩ Lorenzo - Để tôi thử! Tôi cầu xin đấy! Sau vài giây ớn lạnh, xem chừng em gái tôi đã đánh giá quá cao khả năng của nó với tên côn đồ. Theo kiểu Cocco nhìn trừng trừng vào khuỷu tay hắn – bàn tay Janice vẫn quấn quanh đó – hắn đang thăm dò xem nó thực sự có gan ngăn cản hắn không.

Chắc là hiểu ra sai lầm của mình, Janice vội buông cánh tay Cocco và khuỵu gối ôm lấy chân hắn quy phục, sau một lúc van lơn hắn đổi ý, cuối cùng Cocco giơ hai tay lên, cười toe toét và nói gì đó với đồng bọn, có vẻ như Lũ đàn bà! Đàn ông còn biết làm gì được?

Thế là, nhờ Janice, chúng tôi được phép trò chuyện với tu sĩ Lorenzo mà không bị cản trở, trong lúc Cocco và người của hắn hút hết bao thuốc lá và đá cái sọ người như một quả bóng.

Chúng tôi đứng chắn để tu sĩ Lorenzo không thể nhìn thấy cái trò chơi ghê tởm nọ, chúng tôi hỏi

– qua Umberto – liệu thầy có biết từ chỗ chúng tôi, làm théế nào để đến được ngôi mộ của Romeo và Giulietta? Vừa hiểu câu hỏi, vị tu sĩ trả lời ngay và lắc đầu dứt khoát.

- Ông ấy nói rằng, Umberto dịch, - ông không muốn chỉ chỗ ngôi mộ cho những kẻ xấu xa này. Ông ấy biết chúng sẽ báng bổ nó. Và ông ấy nói không sợ chết.

- Xin Chúa giúp chúng con! – Janice lẩm bẩm, thì thầm. Rồi đặt bàn tay lên cánh tay Lorenzo, nó nói. – Chúng con hiểu. Nhưng thầy thấy đấy, bọn chúng sẽ giết cả chúng ta nữa. Rồi sau đó chúng sẽ trở lại đây, bắt cóc thêm nhiều người và giết chết họ. Các linh mục, phụ nữ, những người vô tội. Việc đó sẽ không bao giờ kết thúc, cho đến khi nào có người đưa chúng đến ngôi mộ đó.

Sau lời dịch của Umberto, tu sĩ Lorenzo ngẫm nghĩ một lát. Rồi thầy chỉ vào tôi và hỏi một câu có vẻ kết tội lạ thường.

- Ông ấy hỏi liệu chồng cô có biết cô ở đâu không? – Umberto nói, trông kinh ngạc, bất chấp tình huống. – Ông ấy cho là cô rất ngu mới ở đây, bị bọn xấu xa vây quanh, trong khi lẽ ra cô phải ở nhà, thực hiện bổn phận của mình.

Tuy không thể nhìn thấy, nhưng tôi có thể cảm thấy Janice đang tròn mắt, không tin vào toàn bộ chuyện này. Nhưng tu sĩ Lorenzo có một vẻ chân thật lạ thường, đến mức câu nói đó cứ ngân vang trong lòng tôi, theo kiểu mà em gái tôi không bao giờ và sẽ không bao giờ hiểu nổi.

- Con biết,- tôi nói và gặp cái nhìn của tu sĩ. – Nhưng bổn phận quan trọng nhất của con là kết thúc lời nguyền. Thầy hiểu thế mà. Con không thể làm được việc đó nếu thầy không giúp đỡ. Sau khi nghe câu trả lời của tôi, tu sĩ Lorenzo hơi cau mày và giơ tay chạm vào cổ tôi.

- Ông ấy hỏi cây thánh giá đâu rồi, - Umberto dịch. – Cây thánh giá sẽ che chở cô khỏi bọn quỷ dữ.

- Con…không biết nó ở đâu, - tôi lắp bắp, nghĩ lại lúc Alessandro tháo nó khỏi cổ tôi – theo lối bông đùa – và để nó lên cái giá cạnh giường cùng chỗ tôi để viên đạn của anh. Sau đó, tôi quên bẵng.

Nghe tôi trả lời, rõ ràng tu sĩ Lorenzo rất không vui, và cũng không hài lòng khi phát hiện ra tôi không còn đeo chiếc nhẫn ấn có hình đại bàng nữa.

- Ông ấy bảo sẽ rất nguy hiểm cho cô nếu cô tiếp cận ngôi mộ như thế này, - Umberto nói và lau mồ hôi trên trán, - ông ấy muốn cô xem xét lại.

Tôi nuốt ực mấy lần, cố kiềm chế trái tim đang đập điên cuồng. Rồi tôi nói, trước khi có thể tự thuyết phục mình:

- Nói với ông ấy là tôi sẽ không xem xét gì hết. Tôi không còn lựa chọn nào cả. chúng ta phải tìm ra ngôi mộ đó tối nay. – Tôi hất đầu về phía những kẻ đằng sau tôi. – Bọn kia là lũ ác quỷ đích thực. Chỉ có Đức Mẹ Đồng Trinh Maria mới có thể che chở cho chúng ta khỏi bọn chúng. Nhưng tôi biết hình phạt sẽ tìm ra chúng.

Rốt cuộc, tu sĩ Lorenzo gật đầu. Nhưng thay vì nói, thầy nhắm mắt lại và bắt đầu ngân nga một giai điệu ngắn, đầu lắc lư tới, lui dường như đang nhớ lại lời một bài hát. Liếc nhìn Janice, tôi thấy nó nhăn mặt với Umberto, nhưng lúc nó há miệng định bình phẩm về sự tiến bộ của tôi – hoặc cũng có thể là không, - tu sĩ ngừng ngân nga, thầy mở mắt và đọc thuộc lòng một thứ giống như bài thơ ngắn.

- Nạn dịch hạch canh giữ Đức Mẹ Đồng Trinh, - Umberto dịch, - đó là điều cuốn sách nói.

- Cuốn sách nào? – Janice tò mò.

- Lúc này hãy nhìn bọn chúng, - Umberto phớt lờ nó, dịch tiếp, - những kẻ vô thần, đàn ông và đàn bà, nằm úp mặt trước cánh cửa vẫn đóng vĩnh viễn của Người. – tu sĩ Lorenzo nói cái hang này ắt phải là phòng chờ cổ dẫn tới hầm mộ. Vấn đề là…- Umberto sững lại khi tu sĩ đột nhiên tiến thẳng tới cách hang gần nhất, lẩm bẩm một mình.

Không biết phải làm gì, chúng tôi ngoan ngoãn theo tu sĩ Lorenzo lúc đang chậm rãi đi quanh cái hang, bàn tay sờ lên vách. Lúc này, hiểu thứ chúng tôi đang giẫm lên, tôi cảm thấy hơi run trong từng bước đi, và những luồng khói thuốc lá gần như dễ chịu vì nó xua tan thứ mùi khác trong hang, mà tôi biết là mùi chết choc.

Khi chúng tôi đã đi được một vòng tròn và trở lại nơi bắt đầu, - trong lúc cố phớt lờ những lời chế nhạo thô lỗ của đồng bọn Cocco, chúng khinh bỉ và thích thú quan sát chúng tôi, - cuối cùng tu sĩ Lorenzo dừng lại và nói.

- Giáo đường Siena nằm theo hướng Đông –Tây, - Umberto giải thích, - lối vào quay mặt về hướng Tây. Đó là thông lệ của các giáo đường. Vì thế, các cô tưởng rằng hầm mộ cũng thế. Nhưng cuốn sách nói rằng…

- Cuốn sách nào? – Janice lại hỏi.

- Hỏi tào lao, - tôi cáu. – Cuốn sách nào đó các tu sĩ đọc ở Viterbo, được chưa?

- Cuốn sách nói, - Umberto dịch tiếp và giận dữ nhìn cả hai chúng tôi, “ phần đen của Đức Mẹ Đồng Trinh là phản chiếu phần trắng của cửa”, có nghĩa là hầm mộ - là phần đen, nằm dưới đất – thực ra đặt theo hướng Tây – Đông, lối vào quay mặt về hướng Đông, vì thế cánh cửa dẫn tới đó từ phòng này sẽ quay mặt về hướng Tây. Các cô có đồng ý không?

Janice và tôi nhìn nhau; trông nó choáng váng y như tôi vậy.

- Tôi không biết làm thế nào ông ấy rút ra kết luận đó, - tôi nói với Umberto, - nhưng vào thời điểm này, chúng ta phải tin vào mọi thứ.

Lúc nghe tin, Cocco quẳng ngay điếu thuốc đang hút dở và xắn tay áo lên xem la bàn trên đồng hồ đeo tay. Vừa tin chắc đường về hướng Tây, hắn bắt đầu quát đồng bọn. Ít phút sau, bọn chúng rối rít phá nền ở phần cực Tây của hang, sục các bàn tay trần vào các xương tay chân rồi ném sang một bên, dửng dưng như thể đấy là những cành cây khô. Một cảnh tượng kỳ dị, những kẻ đàn ông mặc xmockinh, đi giày đen bóng láng, đèn đeo trên đầu, bò lổm ngổm, không chút lo lắng khi phải hít thở bụi của xương cốt đang tan rã. Nôn nao tận ruột gan, tôi quay sang Janice, nó sững sờ vì cuộc khai quật. Khi thấy tôi nhìn, nó hơn nhún vai và nói:

- Thưa tiểu thư, từ hang ổ đó là chết chóc, mầm bệnh và giấc ngủ quái đản. Một sức mạnh to lớn hơn thứ chúng ta có thể phủ định, ngăn cản ý đồ của chúng ta.

Tôi vòng tay ôm nó, cố ngăn hai chúng ta khỏi phải nhìn cảnh tượng khủng khiếp.

- Chị đã tưởng em không bao giờ nhớ những dòng kịch khốn khiếp này.

- Đây không phải là dòng kịch, - nó nói. – Đây là vai của em. Em sẽ không bao giờ là Juliet. – Nó quấn cánh tay tôi quanh nó chặt hơn. –Em sẽ không bao giờ chết vì yêu.

Tôi cố hiểu bộ mặt nó trong ánh sáng chập chờn.

- Sao em biết?

Nó không trả lời, nhưng cũng không sao. Lúc đó, một trong những trên đàn ông từ trong hố gào lên gọi chúng tôi, cả hai chúng tôi tiến tới xem có chuyện gì.

- Bọn chúng tìm thấy đầu một thứ gì đó, - Umberto nói và chỉ. – Hình như tu sĩ Lorenzo nói đúng.

Cả hai chúng tôi vươn người nhìn thứ ông chỉ, nhưng trong luồng ánh sáng thất thường của các ngọn đèn đeo trên đầu, hầu như không thể nhận ra thứ gì ngoài chính bọn chúng, lăng xăng trong hố như những con bọ hung điên cuồng.

Lát sau, khi tất cả cọn chúng trèo lên lấy các dụng cụ tự động, tôi mới dám soi đèn pin vào trong hố xem chúng đã tìm thấy gì.

- Nhìn này! – Tôi vồ lấy cánh tay Janice, - Một cánh cửa bị bịt kín!

Thực ra, nó là đỉnh nhọn của một cấu trúc màu trắng trên vách hang - cao gần một mét – nhưng không cần biết trước kia nó là khung cửa hay ít ra là phần trên cùng của cánh cửa, chỉ cần biết có một bông hồng năm cánh chạm ngay trên đỉnh. Tuy vậy, phần đầu cánh cửa đã bị bịt kín bằng một đống lộn xộn gạch nâu và những mảnh đá hoa; người nào đó giám sát công trình – có lẽ vào lúc nào đó trong năm 1348 khủng khiếp – rõ ràng đã quá bận rộn nên chẳng quan tâm tới chất liệu xây dựng hoặc các hoa văn. Khi bọn chúng mang dụng cụ trở lại rồi bắt đầu khoan vào gạch, Janice và tôi liền nấp sau Umberto và tu sĩ Lorenzo. Ngay sau đó, cái hang rung chuyển vì tình trạng phá hủy cực kỳ khủng khiếp, những tảng đá khoáng xốp rơi như mưa từ trần xuống, một lần nữa phủ kín chúng tôi trong đống đá vỡ. Phải có đến bốn lớp gạch phủ bên ngoài ngôi mộ khổng lồ, và khi vừa nhìn thấy ngôi mộ, bọn chúng liền lùi lại, đá vào các lớp gạch vụn còn bám trên tường cho đổ xuống. Không mất quá nhiều thời gian, bọn chúng đã khoan được một hố to, lởm chởm, và bụi chưa kịp lắng, Cocco gạt tất cả đồng bọn sang một bên, để hắn là người đầu tiên soi đèn pin qua lỗ hổng.

Trong sự im lặng tiếp theo cảnh hỗn loạn ồn ào, chúng tôi nghe rất rõ hắn huýt sáo kinh ngạc, và âm thanh ấy tạo nên một tiếng vang kỳ quái, phi tự nhiên.

- Hầm mộ! – tu sĩ Lorenzo thì thầm, và làm dấu.

- Đây rồi, - Janice lẩm bẩm. – Em hy vọng chị mang tỏi theo.

Đồng bọn của Cocco mất nửa giờ để dọn đường cho chúng tôi cùng đi xuống hầm mộ. Chúng đào sâu vào lớp xương ken chặt với nhau và khoan vào gạch trên vách lúc chúng đi, rõ ràng chúng cố đưa chúng tôi xuống tận nền. Tuy vậy, rốt cuộc, quá mệt vì công việc bụi bặm, chúng bắt đầu ném xương và đá vụn qua hố, cố tạo một đống có thể làm bờ dốc thoai thoải. Ban đầu, tiếng gạch rơi xuống khá to, đánh thịch nghe như nền bằng đá, nhưng khi cái đống lớn dần, âm thanh trở nên yếu hơn.

Cuối cùng, khi Cocco bắt chúng tôi chui qua lỗ hổng, Janice và tôi tay trong tay cùng tu sĩ Lorenzo đi xuống hầm mộ, cẩn thận trượt theo cái đống dốc toàn gạch và xương, cảm thấy chẳng khác gì những người sống sót qua trận không tặc, trèo xuống cầu thang tả tơi, tự hỏi đây là tận cùng – hay bắt đầu – của thế giới.

Không khí trong hầm mộ mát mẻ hơn trong hang đằng sau chúng tôi, và rõ ràng là sạch hơn. Nhìn quanh trong luồng ánh sáng của một tá đèn pha lắc lư, tôi ngờ ngợ khi nhìn thấy một căn phòng dài và hẹp, xếp nhiều hàng quan tài bằng đá vững chắc với những câu khắc hung gở bằng tiếng La tinh trên vách. Nhưng thứ làm tôi ngạc nhiên hơn cả là một khoảng không gian đẹp đẽ, thậm chí huy hoàng với vòm trần uốn cong và những cây cột cao. Đó đây có một số những bàn đá, có lẽ khởi đầu là các bàn thờ, nhưng hiện giờ đã không còn những đồ vật thiêng liêng. Ngoài ra, trong hầm mộ chẳng còn lại gì nhiều, ngoài những cái bóng và sự im lặng.

- Lạy Chúa tôi! – Janice thì thầm, chĩa cái đèn pin vào các bức vách xung quanh. – Nhìn những bức bích họa này đi! Chúng ta là những người đầu tiên nhìn thấy chúng kể từ khi…

- Nạn dịch, - tôi nói. – Và đây….mọi thứ không khí và ánh sáng này chắc là rất tồi tệ với họ.

Nó cười rúc rích, nhưng âm thanh nghe giống tiếng thổn thức hơn,

- Nếu chị không phiền, nghe chừng lúc này chúng ta nên hạn chế quan tâm đến những điều đó. Đi men theo vách ngắm các bích họa, chúng tôi qua một ô cửa được đậy bằng một cánh cổng bằng gang, có hình chạm lộng bằng vàng. Chĩa đèn pin qua các chấn song, chúng tôi thấy một miếu thờ nhỏ với nhiều ngôi mộ khiến tôi liên tưởng tới nghĩa trang có ngôi mộ Tolomei mà tôi đến thăm cùng ông anh họ Peppo lúc trước. Janice và tôi không phải là người duy nhất quan tâm tới ngôi miếu. Quanh chúng tôi, bọn tay chân của Cocco đang lần lượt kiểm tra kỹ lưỡng từng cánh cửa, rõ ràng là đang tìm mộ của Romeo và Giulietta.

- Nhỡ nó không ở đây thì sao? – Janice thì thào, nó lo lắng liếc nhìn Cocco, mỗi lúc hắn càng thêm thất vọng vì cuộc tìm kiếm đã quá lâu mà không có kết quả. – Hoặc họ được chôn ở đây, còn pho tượng thì ở nơi khác? …Jules?

Nhưng tôi chỉ nghe nó nửa vời. Sau khi giẫm lên vài tảng trông có vẻ giống vữa bở tơi, tôi chiếu đèn pin ngược lên và phát hiện ra toàn bộ nơi này đổ nát hơn tôi tưởng lúc đầu. những mảnh vỡ của mái trần uốn vòm rơi xuống khắp đó đây, vài cây cột nghiêng trông rất đáng ngại dưới sức nặng của thế giới hiện đại.

- Này, chàng trai, - tôi nói và bỗng hiểu ra Cocco và người của hắn không còn là kẻ thù của chúng tôi nữa. – toàn bộ nơi này chỉ đợi để sụp.

Ngoái nhìn vào lỗ hổng lởm chởm dẫn lên phòng chờ bên trên tôi biết rằng dẫu chúng tôi có lẻn đi sau lưng chúng và không bị nhìn thấy, chúng tôi cũng sẽ không thể chui qua lỗ hổng trên trần, nơi chúng tôi phải nhờ có bọn chúng giúp mới xuống được. Gắng hết sức, tôi có thể nâng Janice lên, nhưng còn tôi thì sao? Còn tu sĩ Lorenzo? Về lý thuyết, Umberto có thể nâng cả ba chúng tôi từng người một, nhưng còn ông thì sao? Lẽ nào chúng tôi nỡ để ông lại đó?

Những suy nghĩ của tôi bị cắt ngang khi Cocco gọi cả hai chúng tôi bằng tiếng huýt sáo đanh gọn, hắn ra lệnh cho Umberto hỏi chúng tôi có biết manh mối về pho tượng khốn khổ kia ở đâu không.

- Ồ, nó ở đây! – Janice buột miệng. – Vấn đề là người ta đã giấu nó ở đâu quanh đây thôi.

Nhận thấy Cocco không tin, nó gượng cười.

- Anh thực sự nghĩ rằng, - nó nói tiếp, giọng bắt đầu run, - người ta để một thứ quý giá như thế ở nơi ai cũng nhìn thấy ư?

- Tu sĩ Lorenzo nói gì nhỉ? – tôi hỏi Umberto, để mọi người không chú ý đến Janice vì trông nó như có thể òa khoác bất cứ lúc nào. – Chắc ông ấy phải có ý tưởng gì đó chứ.

Tất cả chúng tôi dồn mắt vào tu sĩ, thầy đang thơ thẩn một mình, chăm chú ngắm nhìn các pho tượng vàng trên trần.

“Ông ta đặt một con rồng ở đó, canh giữ những con mắt của họ”, Umberto trích dẫn. – Thế đấy. Nhưng ở đây không có con rồng nào hết. Cũng không có lấy một pho tượng.

- Lạ lùng thật, - tôi nói, nhìn từ đầu này đến đầu kia của hầm mộ, - vì ở bên trái có tới năm miếu thờ cách nhau đều đặn, nhưng ở đây lại chỉ có bốn. Nhìn này. Cái ở giữa bị mất. Chỉ là một bức tường

Umberto chưa dịch xong lời tôi nói, Cocco đã bắt tất cả chúng tôi đến chỗ lẽ ra là cánh cửa khác nữa, để xem xét kỹ hơn.

- Không chỉ là bức tường, - Janice nhận xét, chỉ vào một bức bích họa sặc sỡ, - mà là một phong cảnh với…một con rắn to, màu đỏ và đang bay.

- Chị thấy giống một con rồng, - tôi nói và lùi lại một bước. – Em có biết chị nghĩ gì không? Chị nghĩ ngôi mộ ở đằng sau bức tường này. Nhìn xem…- Tôi chỉ một vết nứt dài trên bức bích họa, để lộ hình dáng một khung cửa dưới lớp vữa. – Đây rõ ràng là một miếu thờ giống như các miếu khác, nhưng chị đánh cược là Salimbeni đã chán cảnh để lính gác hai mươi tư giờ suốt bảy ngày. Vì thế ông ta cho xây bịt lại. Có lý đấy.

Cocco chẳng cần thêm chứng cứ về vị trí ngôi mộ, chỉ trong vòng ít phút các dụng cụ tự động đã lại làm việc, tiếng ầm ầm của kim loại khoan vào đá vang dội khắp hầm mộ lúc bọn chúng khoan vào con rồng trên bức bích họa, lấy lối vào đoán chừng là nơi cất giấu kho báu. Lần này không chỉ bụi và đá vụn rơi lên chúng tôi lúc đứng đó theo dõi cuộc phá hoại, mà cả những tảng lớn của lớp trần uốn vòm gồm cả vài ngôi sao vàng cũng bắt đầu rơi quanh chúng tôi, với những tiếng kêu lanh lảnh tai họa, dường như các bánh răng của vũ trụ đang dần long ra.

Cuối cùng, khi các máy khoan ngừng hoạt động, lỗ hổng trên tường đủ rộng cho một người đi qua, và bên trong lộ ra một nơi cất giấu thật. Từng người một, bọn chúng biến mất qua ô cửa làm vội, rồi cuối cùng cả Janice và tôi không thể cưỡng lại sự cám dỗ, cũng đi theo dù không ai ra lệnh.

Chúi đầu chui qua lỗ hổng, chúng tôi vào một miếu thờ nhỏ, sáng lờ mờ, suýt đụng phải những người khác, tất cả đều đứng lặng ngắt. Vươn người để xem chúng đang nhìn gì, tôi chỉ bắt gặp một thứ sáng chói, sau đó một trong những tên có mặt mới nghĩ ra, chiếu thẳng đèn pin vào một thứ đồ sộ, dường như đang lởn vởn trong không khí trước mắt chúng tôi.

- Thánh thần ơi! – Ai đó nói, phát âm thật hoàn hảo, và ngay cả một người như Janice cũng chết lặng.

Đó là pho tượng Romeo và Giulietta, lớn hơn và đẹp hơn tôi hình dung rất nhiều. Trên thực tế, sự bề thế khiến nó gần như là một lời đe dọa. Dường như người sáng tạo ra nó vì muốn người xem bất giác phải quỵ gối và cầu xin tha thứ. Suýt nữa, tôi đã làm thế. Dẫu pho tượng đứng đó, đặt trên một cỗ quan tài đá đồ sộ và được phủ lớp bụi dày sáu trăm năm, nó vẫn có ánh vàng lấp lánh mà không một khoảng thời gian nào có thể làm phai mờ. Trong ánh sáng mờ ảo, bốn con mắt bằng ngọc quý – hai viên ngọc bích màu da trời và hai viên ngọc lục bảo màu xanh lá – sáng rực gần như siêu nhiên.

Với người chưa biết lịch sử của nó, pho tượng như không nói đến sự tiếc thương mà chỉ nói về tình yêu. Romeo quỳ trên quan tài đá, nâng Giulietta trong tay, và họ nhìn nhau với một xúc cảm cảm mãnh liệt đến mức tôi như tìm ra con đường vào xó xỉnh tối tăm, nơi trái tim tôi ẩn náu, và nhắc nhở tôi những nỗi buồn còn tươi mới của riêng mình. Các bức vẽ trong cuốn phác thảo của mẹ tôi rõ ràng chỉ là phỏng đoán, ngay cả những bức chân dung đằm thắm nhất về hai nhân vật này – Romeo và Juliet – cũng không xứng với họ.

Đứng đó, nén nỗi ân hận, tôi không thể không thừa nhận rằng ban đầu, tôi đến Siena chỉ để tìm pho tượng và những viên ngọc quý này. Giờ chúng ở đây, ngay trước mắt tôi, nhưng tôi không còn cảm thấy thèm muốn sở hữu chúng, dù chỉ là thoáng qua. Dẫu chúng có là của tôi, tôi cũng sẽ sung sướng hiến tặng chúng một ngàn lần chỉ để trở về cõi trần gian thực sự, an toàn thoát khỏi những kẻ như Cocco, hoặc chỉ để nhìn thấy Alessandro thêm lần nữa.

- Chị nghĩ họ có đặt cả hai người vào cùng cỗ quan tài như thế kia không? – Janice thì thầm, cắt ngang dòng suy nghĩ của tôi. – Đi nào…- Nó huých khuỷu tay, tìm đường len qua tốp đàn ông, kéo tôi theo, và khi chúng tôi đứng cạnh cỗ quan tài đá, nó giằng lấy đèn pin của tôi và chiếu vào một câu khắc trên đá. – Nhìn này! Chị có nhớ câu này trong truyện không? Chị nghĩ có phải là nó không?

Cả hai chúng tôi cúi gần hơn để xem, nhưng không thể hiểu tiếng Ý

- Nó là gì nhỉ? – Janice nhăn trán cố nhớ loại bản dịch tiếng Anh. – À phải rồi! “ Đây là nơi yên nghỉ nàng Giulietta chân thành và chung thủy…Nhờ tình thương và sự nhân từ của Chúa!” – Nó ngừng, quên mất đoạn còn lại.

- “Sẽ được Romeo, người chồng hợp pháp của nàng đánh thức”, - tôi khẽ tiếp, bị mê hoặc bởi bộ mặt bằng vàng của Romeo đang nhìn thẳng xuống, - “trong một thời khắc ân huệ tuyệt vời”. Nếu như câu truyện mà danh họa Lippi dịch cho chúng tôi nghe là thật, - và chắc chắn nó bắt đầu theo kiểu này, - thì đích thân nhà danh họa già Ambrogio đã giám sát việc sáng tạo nên pho tượng này vào năm 1341. Chắc chắn ông là bạn của Romeo và Giulietta, nên quyết tâm tạo ra nó thật đúng, chắc chắn đây là sự tái hiện trung thành những đường nét của họ.

Nhưng Cocco và đồng bọn không đi cả quãng đường từ Naples đến đây để đắm chìm trong mơ mộng, hai tên trong bọn đã trèo lên nắp quan tài đá, thử xem dụng cụ nào thích hợp để khoét mắt pho tượng. Cuối cùng, chúng quyết định dùng một loại máy khoan đặc biệt, và khi dụng cụ được lắp ráp xong và trao tận tay chúng, mỗi tên đến bên một pho tượng – một tên đến Giulietta, tên kia đến Romeo, - sẵn sàng dấn tới.

Khi nhìn thấy việc chúng sắp làm, tu sĩ Lorenzo lao tới, - cho đến lúc này, thầy hoàn toàn bình thản – và cố ngăn bọn chúng lại, năn nỉ xin chúng đừng phá hỏng pho tượng. Đây không chỉ là việc mạo phạm một tác phẩm nghệ thuật, vị tu sĩ thuyết phục chúng rằng lấy trộm mắt pho tượng sẽ gây nên những tai ương không tả xiết và sẽ hủy diệt tất cả chúng ta. Nhưng Cocco không cần những lời mê tín khó hiểu của tu sĩ Lorenzo nữa, hắn lỗ mãng gạt vị tu sĩ sang bên và ra lệnh cho bọn tay chân tiếp tục.

Dường như cảnh huyên náo khi phá sụp vách chưa đủ tệ, tiếng ồn từ các mũi khoan kim loại mới thực sự khủng khiếp. Lùi khỏi tình trạng cực kỳ lộn xộn, tay bịt chặt tai, Janice và tôi thừa hiểu rằng chúng tôi sắp đến đoạn kết cay đắng trong cuộc truy tìm kho báu.

Chui qua lỗ hổng trên vách và trở lại phần chính của hầm mộ - tu sĩ Lorenzo vô cùng thất vọng theo sau, - chúng tôi nhận thấy toàn bộ nơi này đang sụp đổ, hoàn toàn theo nghĩa đen. Những vết nứt lớn chạy dọc các bức vách trát vữa, lên tận vòm trần, tạo thành những hoa văn như mạng nhện, chỉ một chấn động nhỏ nhất cũng lan rộng ra mọi hướng.

- Chúng ta phải chạy trốn thôi, - Janice nói, lo lắng nhìn quanh, - Ít ra cũng nên trở lại hang kia, chỉ phải động chạm vào các xác chết thôi.

- Sau đó thì sao? – Tôi hỏi. – Ngồi xúm xít dưới lỗ thủng trên trần, chờ các quý ông đến cứu ra ư?

- Không, - nó đáp, xoa cái cánh tay bị một ngôi sao bắn phải, - nhưng một người trong chúng ta có thể giúp người kia ra ngoài, sau đó người kia có thể bò trở lại qua đường hầm và được cứu thoát.

Tôi nhìn nó chằm chặp, thấy nó đúng, và lúc trước, tôi thật ngu vì không nghĩ ra cách này.

- Thế, - tôi nói, ngại ngùng, - ai sẽ đi?

Janice mỉm cười chế nhạo:

- Chị đi. Chị là người còn có thứ để mất…- Rồi nó nói thêm, đỏng đảnh hơn. – Hơn nữa, em là người biết cách “điều trị” thằng điên Cocco.

Chúng tôi đứng đó một lúc, chỉ nhì nhau. Rồi tôi liếc nhìn tu sĩ Lorenzo qua khóe mắt; ông vẫn quỳ trước một trong những bàn đá trơ trụi, cầu nguyện một vị Chúa Trời không còn ở đó.

- Chị không thể làm thế, - tôi thì thầm. – Chị không thể để em lại đây.

- Chị phải đi, - Janice nói, giọng cương quyết. – nếu chị không đi, em sẽ đi.

- Tuyệt, - tôi nói, - thì đi đi. Xin mời.

- Ôi, Jules! – Nó vòng tay ôm lấy tôi. – Tại sao lúc nào chị cũng phải là người hùng nhỉ?

Chúng tôi có thể để dành những cảm xúc để đấu tranh với những hành động tử vì đạo cho riêng mình, vì lúc này các mũi khoan kim loại đã ngừng và bọn đàn ông đổ ra khỏi miếu thờ, hí hửng cười đùa về kỳ công của chúng và tung, ném bốn viên ngọc quý cho nhau. Người cuối cùng xuất hiện là Umberto, và tôi có thể thấy ông nghĩ đúng như chúng tôi: cuối cùng, liệu đây có phải là đoạn kết cho công việc của chúng tôi với Cocco và toán cướp ở Naples, hay chúng còn muốn hơn thế?

Dường như đọc được ý nghĩ của chúng tôi, bọn chúng ngừng lại giữa cuộc vui, chòng chọc nhìn Janice và tôi lúc chúng tôi đứng đó, dựa sát vào nhau. Nhìn thấy cảnh đó, hình như Cocco rất khoái chí, và nụ cười tự mãn trên mặt hắn nói lên rằng hắn biết chính xác chúng tôi vẫn còn giá trị khác với cả tốp của hắn, Nhưng sau khi nhìn như lột hết quần áo Janice và kết luận rằng, bất chấp thái độ giận dữ của nó, nó vẫn chỉ là một cô gái nhỏ đang hoảng sợ, cái nhìn đầy tính toán của hắn trở nên giá lạnh, hắn nói gì đó với đồng bọn khiến Umberto lao tới, dang rộng cánh tay, chắn giữa cả bọn và chúng tôi.

- Không! – Ông an nài, - tôi xin anh!

- Thằng già này! – Cocco cười khinh bỉ, chĩa khẩu tiểu liên về phía ông.

Hai người tiếp tục cuộc trao đổi bằng những lời cầu xin và lời lẽ tục tĩu, rồi cuối cùng, Umberto quay sang nói tiếng Anh:

- Anh bạn, - Umberto nói, gần như quỵ gối, - tôi biết anh là người rộng lượng. Và cũng là một người cha. Xin anh rủ lòng thương. Tôi xin hứa, anh sẽ không ân hận đâu.

Cocco không trả lời ngay. Hắn lườm nguýt, tỏ ý không vui khi bị nhắc đến lòng nhân đạo của hắn.

- Tôi xin anh, - Umberto nói tiếp, - bọn con gái sẽ không bao giờ hé môi với ai đâu. Tôi thề với anh.

Rốt cuộc, Cocco nhăn mặt và nói bằng thứ tiếng Anh ngắc ngứ của hắn:

- Con gái hay bép xép. – nói – nói – nói.

Đằng sau, Janice xiết chặt bàn tay tôi đến mức đau nhói. Nó cũng như tôi, hiểu rằng, chả có chút lý do nào để Cocco cho chúng tôi sống và ra khỏi nơi này. Giờ hắn đã có những viên ngọc quý, và đó là tất cả những gì hắn muốn. Và chắc chắn rằng, thứ hắn không cần nhất là nhân chứng. Tuy vậy, tôi không hiểu nổi chuyện này thực ra là gì; sau khi chúng tôi bò khắp nơi và giúp hắn tìm ra pho tượng, hắn giết chúng tôi thật sao?

Thay vì sợ hãi, tôi lên cơn giận điên cuồng – giận vì Cocco là thằng khốn nhẫn tâm, và người duy nhất tiến tới bảo vệ chúng tôi là cha chúng tôi. Kể cả tu sĩ Lorenzo đứng cạnh cũng chẳng có tác dụng gì, ông nhắm mắt lần tràng hạt như thể chẳng có chuyện gì xảy ra và chẳng có thứ gì ảnh hưởng đến ông. Nhưng, làm sao mà ông biết được? ông chẳng hiểu cả tai họa lẫn tiếng Anh.

- Anh bạn ơi, - Umberto lại nói, cố hết sức nói thật bình tĩnh, có lẽ hy vọng làm Cocco mủi lòng, - tôi đã tha mạng anh một lần. Anh nhớ không? Chẳng lẽ việc đó không có giá trị gì sao?

Cocco giả vờ suy nghĩ một lát. Rồi hắn đáp lại và nhăn mặt khinh miệt:

- Thôi được. Ông đã tha mạng tôi một lần. Vì thế, tôi sẽ tha một mạng cho ông. – Hắn hất đầu về phía Janice và tôi. – Ông quý ai nhất? Ả kia hay thiên thần?

- Ôi Jules! – Janice thút thít, ghì chặt tôi mạnh đến mức tôi không thở nổi. – Em yêu chị! Dù xảy ra bất cứ chuyện gì, em vẫn yêu chị!

- Xin đừng bắt tôi lựa chọn, - Umberto nói bằng giọng tôi khó nhận ra. – Cocco. Tôi biết mẹ anh. Bà là người tốt bụng. Bà sẽ không thích chuyện này đâu.

- Mẹ tao, - Cocco nhạo báng, - sẽ nhổ vào mả mày! Lần cuối cùng: ả kia hay thiên thần? Chọn ngay, nếu không tao giết cả hai.

Khi Umberto không trả lời, Cocco tiến thẳng tới ông.

- Mày, - hắn nói chậm rãi, và gí họng súng tiểu liên vào ngực Umberto, - là một thằng đần. Hoảng sợ, Janice và tôi lạnh cứng người, không thể lao tới để ngăn Cocco kéo cò, và một giây sau, một tiếng súng đinh tai nhức óc làm cả hang động rung chuyển.

Chắc ông đã bị bắn, cả hai chúng tôi hét lên và chạy tới Umberto, tưởng ông đã ngã, đã chết. Nhưng lạ thay, lúc chúng tôi tới, ông vẫn đứng đó, cứng đờ vì sửng sốt. Kẻ nằm ườn một cách kệch cỡm trên nền là Cocco. Một cái gì đó - tiếng sét từ trời cao ư? – Xuyên qua sọ hắn, thổi bay một mảng sau đầu hắn.

- Lạy Chúa Cứu thế! – Janice rên rỉ, mặt trắng bệch như ma, - chuyện gì thế này?

- Nằm xuống! – Umberto quát và kép mạnh cả hai chúng tôi. – Che đầu!

Xung quanh, đồng bọn của Cocco cũng bò tìm chỗ nấp lúc một loạt tiếng súng nổ giòn, những tên dừng lại bắn trả đều bị quật ngã ngay lập tức, chính xác đến giật mình. Nằm áp bụng xuống nền, tôi quay đầu xem ai đang bắn, và lần đầu tiên trong đời, cảnh các sĩ quan cảnh sát lao tới chiến đấu thật đáng hoan nghênh. Đổ vào hang qua lỗ thủng, họ nấp sau các cây cột gần nhất và quát bọn cướp còn lại – tôi đoán thế - bỏ vũ khí và đầu hàng.

Nhẹ người khi nhìn thấy cảnh sát và hiểu rằng cơn ác mộng của chúng tôi đã chấm dứt khiến tôi muốn cười và khóc cùng một lúc. Nếu họ tới chậm chỉ một phút, mọi sự đã khác hẳn. Hoặc trong thực tế, có thể họ đã ở đó được một thời gian rồi, chỉ quan sát chúng tôi, đợi có ai kéo cò súng nhằm vào Cocco mà không cần xét xử. Dù các chi tiết là gì đi nữa, lúc tôi nằm đó trên nền đá, đầu tôi vẫn quay cuồng vì nỗi khiếp sợ vừa trải qua, tôi tin rằng họ được Đức Mẹ Đồng Trinh Maria gửi tới, trừng phạt những kẻ xúc phạm điện thờ Người. Đối mặt với một lợi thế hiển nhiên, rốt cuộc vài tên cướp sống sót xuất hiện sau các cây cột, tay giơ lên trời. Một tên trong bọn ngu đến mức cúi cuống nhặt thứ gì đó trên nền – chắc là một viên ngọc, - bèn bị bắn ngay tức khắc. Vài giây sau, tôi mới nhận ra hắn chính là kẻ đã mò mẫm tôi và Janice trong hang, nhưng điều quan trọng hơn cả, người bắn hắn là Alessandro.

Vừa nhận ra anh, lòng tôi tràn ngập niềm vui mãnh liệt và choáng váng. Nhưng tôi chưa kịp chia sẻ phát hiện đó với Janice, thì có tiếng ầm ầm đáng ngại ở đâu đó ngay trên đầu chúng tôi, rồi mỗi lúc một mạnh thêm khi một trong những cây cột chống vòm trần đổ sụp xuống bọn cướp còn sống, dội lên chúng vài tấn đá.

Những tiếng vang rung động của cây cột đổ sụp lan khắp toàn bộ hệ thống cống ngầm Bottini quanh chúng tôi, ở khắp mọi phía. Hình như sự náo loạn trong hầm mộ đã tăng thêm sự chấn động dưới mặt đất mạnh đến mức giống như một trận động đất, và Umberto nhảy bật lên, vẫy Janice và tôi đứng dậy.

- Đi mau! – Ông giục, lo lắng nhìn các cây cột quanh chúng tôi. – Ta nghĩ chúng ta không còn nhiều thời gian.

Chạy băng qua sàn, chúng tôi suýt bị một trận mưa đá vụn ào xuống qua lỗ trần thủng, và một ngôi sao rơi trúng thái dương tôi, khiến tôi suýt ngất. Dừng lại một chút lấy thăng bằng, tôi trông thấy Alessandro đi tới, sải bước trên đống đổ nát và phớt lờ những lời cảnh báo của các sĩ quan cảnh sát khác. Anh không nói gì, nhưng lúc đấy, anh không cần phải nói. Cái nhìn của anh đã nói lên điều tôi mong được nghe.

Tôi chuẩn bị ngả vào vòng tay của Alessandro thì nghe thấy một tiếng kêu yếu ớt phía sau.

- Tu sĩ Lorenzo! – Tôi thở hổn hển, chợt nhận ra chúng tôi đã quên bẵng vị tu sĩ. Quay ngoắt lại, tôi bắt gặp cảnh tượng thân hình lom khom của ông giữa đống đổ nát, và Alessandro chưa kịp ngăn, tôi đã chạy trở lại, đến chỗ ông già trước khi một tảng vữa to tướng bay trúng tôi.

Chắc Alessandro đang tới ngăn tôi, thì một cây cột nữa đổ sụp giữa chúng tôi trong đám bụi mịt mù, ngay lập tức là một trận mưa vữa bở tơi. Lần này, sự va chạm của cây cột gãy phá toang nền hầm ngay cạnh tôi, bên dưới những tảng đá lát lộ ra không hề có rui xà bằng gỗ, không có bê tông, chỉ là một khoảng không rộng lớn, đen ngòm.

Ngây như đá trước cảnh tượng ấy, tôi dừng lại ngay tại đó, sợ không dám bước tiếp. Tôi nghe thấy Alessandro la hét đằng sau, bảo tôi quay trở lại, nhưng chưa kịp quay người, phần nền tôi đang đứng bắt đầu tách khỏi kết cấu xung quanh. Điều tiếp theo tôi biết là nền không còn nữa, và tôi lao thẳng vào chốn hư không, quá sững sờ không hét lên được, cảm thấy dường như sự gắn kết của thế giới đã tan biến, mọi thú còn lại trong sự hỗn độn mới, là những mảnh, mẩu, tôi và trọng lực.

Tôi rơi bao xa? Tôi muốn nói rằng tôi rơi xuyên qua thời gian, xuyên qua sự sống, cái chết và những thế kỷ quá khứ, nhưng trong phạm vi đo lường thực tế, cú rơi không quá sáu mét. Ít nhất là người ta nói như thế. Họ cũng bảo rằng, may cho tôi, không một tảng đá hay ma quỷ nào đập trúng tôi lúc tôi ngã nhào xuống địa ngục. Có một dòng sông cổ đánh thức bạn khỏi những giấc mơ, và rất ít người được phép nhìn thấy. Tên dòng sông đó là Diana.

Nghe nói tôi vừa rời khỏi rìa của cái nền vỡ vụn, Alessandro bèn nhảy theo tôi, không kịp dừng lại tháo các dụng cụ. Lúc đâm nhào vào làn nước mát, anh bị chìm vì sức nặng của mọi thứ - áo chống đạn, ủng, súng – và mất một lúc mới ngoi được lên. Vật lộn với dòng nước xiết, anh cố rút đèn pin và cuối cùng tìm thấy tôi mềm rũ, mắc trên một tảng đá nhô ra.

Thét gọi các cảnh sát khác nhanh chân lên, Alessandro bảo họ thả sợi dây xuống thấp hơn và kéo mạnh cả hai chúng tôi về hầm mộ của giáo đường. Làm ngơ trước mọi sự và mọi người, anh đặt tôi nằm trên nền, giữa đống đổ nát, ép nước ra khỏi phổi tôi và bắt đầu làm tôi hồi sinh.

Đúng đó, chứng kiến những nỗ lực của anh, Janice không hiểu hết mức độ nghiêm trọng của tình hình, cho đến khi nó ngước nhìn và thấy những người khác đang trao đổi những cái nhìn dứt khoát. Tất cả đều hiể một thực tế mà Alessandro không chịu thừa nhận: tôi đã chết. Đến lúc đó, nước mắt nó mới dâng đầy, và không gì có thể ngăn lại được.

Cuối cùng, Alessandro đành từ bỏ mọi cố gắng cứu sống tôi và chỉ ôm tôi, dường như anh sẽ không bao giờ buông tôi ra lần nữa. Anh vuốt má tôi và thủ thỉ, nói những lời lẽ ra anh nên nói khi tôi còn sống, không cần biết ai nghe thấy. Janice kể, lúc đó trông chúng tôi rất giống pho tượng Romeo và Giulietta, ngoại trừ mắt tôi nhắm nghiền và mặt Alessandro méo mó vì đau đớn. Nhìn thấy anh mất hết hy vọng, em gái tôi giằng khỏi tay những người cảnh sát đang giữ nó và chạy tới chỗ tu sĩ Lorenzo, vồ lấy vai thầy.

- Tại sao thầy không cầu nguyện? – Nó gào lên, lắc người tu sĩ già. – Cầu xin Đức Mẹ Đồng Trinh Maria đi, và nói với Người…- Nhận ra thầy không hiểu, Janice tránh ra, ngước nhìn lên vòm trần vỡ nát và gào đến xé phổi. – Xin hãy làm cho chị con sống lại! Con biết Người có thể làm được điều! Hãy cho chị con được sống!

Không có tiếng trả lời, rốt cuộc nó quỵ gối và gào khóc như điên. Không một người đàn ông nào trong đám đông dám chạm vào nó.

Đúng lúc đó, Alessandro cảm thấy là lạ. Không hơn một sự run rẩy, có khi là chính anh chứ không phải tôi, nhưng thế là đủ cho anh hy vọng. Ôm đầu tôi đu đưa nhè nhẹ, anh lại nói với tôi, lúc đầu dịu dàng, rồi sau đó là nôn nóng.

- Nhìn anh đi! –Anh van nài. – Nhìn anh đi, Giulietta!

Người ta kể rằng cuối cùng, tôi đã nghe thấy tiếng anh, song tôi không ho, không hổn hển hoặc rên rỉ. Tôi chỉ mở mắt và nhìn anh. Khi hiểu sự việc đang diễn ra quanh tôi, hình như tôi mỉm cười và thì thầm

- Shakespeare không thích thế này đâu.

Đấy là tất cả những gì sau này tôi được nghe kể lại, còn tôi hầu như chẳng nhớ được gì. Thậm chí tôi không nhớ nổi tu sĩ Lorenzo quỳ xuống hôn lên trán tôi, hoặc Janice nhảy múa quanh tôi như một thầy tu đạo Hồi đang xoay tròn, lần lượt hôn các sĩ quan cảnh sát tươi cười. Tôi chỉ nhớ cặp mắt của người đàn ông không chịu mất tôi lần nữa, anh đã cố giằng tôi khỏi cái nắm chặt của Shakespeare, để chúng tôi có thể viết nên đoạn kết hạnh phúc của riêng chúng tôi.