CHƯƠNG 24
Karl Burdett đã quen với quyền lực và vị thế được trao cho văn phòng công tố quận. Dù không bao giờ thừa nhận nhưng trong thâm tâm, ông biết rằng mình chẳng đủ tài giỏi để có thể thành công khi một thân một mình vận động và ông khiếp sợ cái ý nghĩ phải giành giật để kiếm sống ở tuổi này. Đó là lí do ông cần sự tán thành và ủng hộ của Pope cha cũng nhiều gần như cần không khí vậy.
Vài phút sau khi Amanda rời văn phòng, Burdett đã lên xe đi đến khu dinh thự của Pope cha để báo tin Charlie trở về. Khi ông gần tới nơi thì thấy Tony Rose lao vút qua trên chiếc Ferrari F43 màu xám bạc. Burdett không ngạc nhiên về việc Rose tới thăm Pope cha. Tay huấn luyện viên tennis đã bị Câu lạc bộ Westmont sa thải ngay sau vụ xử Sally Pope. Chưa đầy một năm sau, anh ta thành lập công ty Mercury, ban đầu chỉ làm ăn nhỏ, sản xuất các thiết bị chơi tennis nhưng nhanh chóng lớn mạnh khi thần đồng nước Mỹ Gary Posner đoạt chức vô địch giải Mỹ mở rộng với chiếc vợt mang nhãn hiệu Mercury. Giới thể thao kinh ngạc khi Posner kí một hợp đồng độc quyền với Mercury thay vì với Nike hay một hãng thể thao lớn khác. Các điều khoản chưa bao giờ được tiết lộ nhưng có lời đồn rằng phí sử dụng hình ảnh của Posner để quảng cáo cũng ngang ngửa với Tiger Wood. Nguồn tài chính của Mercury được giữ bí mật nhưng dân tình suy đoán rằng Arnold Pope cha chính là hậu phương bí mật của Rose và số tiền đó là để trả cho việc Rose đã khai man tại phiên tòa xử Sally Pope. Nếu vậy, tiền đã được sử dụng hiệu quả, vì lợi nhuận và cổ phiếu của Mercury đã tăng lên nhanh chóng như chính sự nghiệp của Posner. Bộ mặt đại diện của Mercury là anh chàng Tony Rose điển trai nhưng Burdett biết chắc rằng bộ óc và tiền bạc phía sau công ty này là Arnold Pope.
+
+ +
“Có chuyện gì về Marsh vậy?” Arnold Pope hỏi ngay khi Burdett bước vào phòng làm việc tại nhà ông ta.
“Hắn đang quay về để ra tòa. Có thể hắn sẽ ở đây trong tuần này.”
“Làm sao anh biết?”
Sự phấn chấn của Pope cha tăng lên khi Burdett thuật lại chuyến thăm của Amanda Jaffe.
“Hãy mang cho tôi một bộ bản sao hồ sơ vụ án,” Pope cha nói ngay khi Burdett kể xong.
“Hồ sơ rất nhiều. Có lẽ...”
“Tôi biết là nhiều rồi. Hãy sao một bản và mang tới đây vào ngày mai. Và nhớ thông tin ngay cho tôi mọi bước tiến triển, dù nhỏ nhặt đến đâu.”
“Vâng, thưa ông.”
“Và Karl này.”
“Vâng, thưa ông.”
“Trong cuộc sống, họa hoằn lắm mới có cơ hội lần thứ hai. Giờ anh đang có nó rồi đấy.”
“Tôi sẽ làm hết sức mình.”
“Không, Karl ạ, không chỉ là làm hết sức mình đâu,” Pope cha nhìn thẳng vào mắt Burdett. “Hoặc là anh hoặc là Marsh sẽ bị tiêu diệt hoàn toàn khi vụ này kết thúc. Anh hãy quyết định ai sẽ bị đem chôn.”
Trước khi Burdett ra khỏi phòng, Pope cha đã xoay chiếc ghế lại để nhìn qua cửa sổ về phía dãy núi Hood nhưng cái ông nhìn không phải là những đỉnh núi hùng vĩ phủ đầy tuyết trắng. Trong tâm trí ông là hình ảnh Charlie Marsh đang vật vã khổ sở trong khu xà lim tử tù và mỗi giây trôi qua lại đưa hắn tới gần hơn thời điểm thi hành án tử hình bằng tiêm thuốc độc. Rồi ông nghĩ tới Amanda Jaffe. Cô ta rất giỏi. Cô ta có thể đạt được điều mà cha mình đã làm hay không? Đã có những chuyện hài hước xảy ra với những vụ xử mà ai cũng cho rằng phần thắng sẽ chắc chắn thuộc về một bên khi bên đó có một luật sư thông minh đứng trước bồi thẩm đoàn. Vụ của O. J. Simpson chẳng hạn. Một tên ngốc cũng có thể kết tội được hắn, thế mà hắn đã thoát.
Pope cha đã từng cố gắng cho người giết Marsh không lâu sau khi anh được phép trú chân tại Batanga, nhưng tay lính đánh thuê mà ông tìm được đã không thực hiện hợp đồng. Tổng thống Baptiste đã chi rất nhiều tiền để vẽ nên hình ảnh đất nước Batanga như một nơi trú ẩn an toàn cho những kẻ bị truy nã. Tay giết thuê chỉ tìm hiểu đôi chút đã biết được những kẻ dám kết liễu mạng sống của đám người chạy trốn được tổng thống bảo đảm an toàn sẽ có số phận ra sao. Những kẻ giết người bị bắt ở Batanga phải chuốc lấy số phận khủng khiếp tới mức không thể miêu tả được. Có một gã người Hà Lan đã giết chết một trong những vị khách của Baptiste và bị truy sát không thương xót bởi những nhân viên của Văn phòng Giáo dục Quốc gia. Khi bắt được gã này, chúng đã tra tấn gã đủ kiểu trước khi rải các bộ phận cơ thể gã khắp nơi tại một địa điểm du lịch ở Amsterdam nhằm đảm bảo cho thông điệp của Baptiste được truyền đi khắp thế giới. Dù cố đến mấy, Pope cha cũng không thể tìm được ai dám mạo hiểm với cơn giận dữ của Baptiste. Giờ có vẻ con mồi đã tự tìm đến ông.
Pope cha gượng đứng lên. Ở tuổi bảy mươi, các khớp xương và lưng của ông đã cứng. Đi lại là cả một vấn đề nhưng ông không để ai thấy vẻ không thoải mái của mình vì ông không bao giờ để lộ sự yếu đuối. Sau khi vất vả leo lên dến tầng hai, ông bước chậm rãi và đau đớn về phía căn phòng ở góc xa hành lang, nơi con trai ông đã sống thời thơ ấu. Giờ thì nơi đó là một lăng mộ. Bóng tối luôn bao phủ căn phòng và những chiếc đèn treo trên trần nhà phủ đầy bụi. Khi ông bật công tắc, ánh sáng vàng dìu dịu hắt lên những bức ảnh treo trên tường và những chiếc cúp, huy chương, đó lưu niệm xếp đầy trên giá. Giữa phòng là một chiếc giường mà khăn trải giường chẳng bao giờ cần thay nữa.
Pope cha ngồi xuống giường và nhìn bức ảnh chụp Pope con với tổng thống Bush. Pope cha là bạn thân thiết với ngài cựu tổng thống, người từng thay mặt Pope con phát biểu tại một buổi gây quỹ trong thời gian diễn ra chiến dịch tranh cử vào Quốc hội đầu tiên của con trai ông. Nhiều nhà chính trị nổi tiếng khác đã giúp con trai ông vào được Quốc hội. Họ biết anh chính là tương lai và xúm vào ghì lấy anh. Pope cha, vốn gần như chưa bao giờ khóc, cảm thấy nước mắt dâng lên khi nghĩ về chuyện đáng lẽ sẽ diễn ra nếu con trai ông không bị giết khi đang ở thời kì tươi đẹp nhất của cuộc đời bởi... Ông hít một hơi thật sâu cho tới khi kiểm soát được cảm xúc.
Pope chuyển sự chú ý sang một bức ảnh khác, chụp con trai ông mặc quân phục không lâu trước khi giải ngũ khỏi lực lượng hải quân. Nếu trên đời có người nào trông như thể phải trở thành tổng thống của đất nước vĩ đại này thì đó chính là Arnold Pope con.
Bên cạnh bức ảnh Pope con trong bộ quân phục là bức anh đang bế một đứa bé. Bức này được chụp khi Arnold Pope III được hai tuần tuổi. Ả khốn đó đã đặt tên thằng bé là Kevin để trả đũa ông, nhưng với ông thằng bé sẽ luôn là Arnold III. Chỉ nghĩ tới thằng cháu trai duy nhất là hai tay ông đã siết chặt lại. Ả điếm đó đã khiến ông phải xa cháu nhờ một lệnh hạn chế và chia cắt hai ông cháu bằng biển Đại Tây Dương. Ông còn có những bức ảnh và những đoạn video chụp và quay lén qua ống kính tiêu cự dài. Nhưng ông không có đứa cháu trai, tương lai của dòng họ Pope và là người cuối cùng mang huyết thống của ông.
Pope con đã chết. Pope cha đối mặt với thực tế đó mỗi ngày. Con trai ông từng là ngọn nến mà ánh sáng của nó sẽ dẫn dắt nước Mỹ tới một ngày mới tươi sáng của phép tắc và danh dự. Charlie Marsh và ả điếm đó đã dập tắt ngọn nến ấy và chúng sẽ phải trả giá. Pope cha biết ông không bao giờ lấy lại được con trai, nhưng ông có thể trả thù.