← Quay lại trang sách

Chương 15

Ngay lúc tôi vừa đẩy cánh cửa sắt nặng nề, một dáng người chợt ló ra khỏi bóng tối và bước lại gần. Pierre Valonne đóng cổng lại sau lưng tôi và tiến vào lối đi rải cát dẫn về phía biệt thự. Tới chân dãy tam cấp mà tôi chỉ trông thấy lờ mờ các nấc, ba tôi khẽ bảo:

- Coi chừng các bậc tam cấp.

Tôi nghe tiếng lẻng kẻng của một xâu chìa khóa rồi tôi thoáng thấy khoảng trống tối đen hơn của một khung cửa mở.

- Anh hãy vào đi.

Khi cánh cửa đã được khóa lại, Pierre Valonne mới vặn đèn điện lên. Chúng tôi đang đứng trong một tiền đình rộng, lát gạch trắng, có một cầu thang vĩ đại bằng đá dẫn lên phía trên, vẫn không ngoảnh lại, ba tôi đi về phía một căn phòng, bật luôn đèn và khép cửa lại khi tôi đã vào hẳn bên trong. Đây là một thự viện có ánh đèn phản chiếu lại từ mấy cái giá bằng gỗ chạm, trông thật ấm cúng và tươi vui. Cuối cùng chúng tôi cùng nhìn vào tận mặt nhau, chỉ cách nhau một tầm tay, tuy không có một ai cử động đưa tay ra.

Cảnh tượng đó kéo dài một hồi, những phút giây dị thường, có lẽ đối với ông cũng như đối với tôi. Pierre Valonne y hệt bức hình đăng trên mặt báo và lời mô tả bổ khuyết của Anne-Marie Fontan. Lòng nóng nảy, có lẽ niềm xúc động, làm giảm bớt vẻ kiêu ngạo trong con người của ông, thay vào đó một vẻ ngây ngô đầy nhân tính, nhưng vẫn không mất nét hữu duyên. Rõ ràng người đàn ông, mà từ đúng một tuần nay tôi để dạ khinh bỉ, quả thật rất dễ khiến kẻ khác phải quí mến như tôi đã e ngại. Tôi lên tiếng trước để bắt đầu cuộc hội đàm khó khăn:

- Đây là các bằng chứng mà tôi đã nói trước với ông.

Nói đoạn, tôi đặt lên một cái bàn xoay, chiếc hộp bằng giấy dày đựng cuộn băng và bên cạnh là phong bì màu xám. Pierre Valonne cẩn thận xem xét chữ của kẻ nặc danh, các khuôn dấu của sở bưu điện, rồi trả các phong bì lại cho tôi. Sau đó ông lấy cuộn băng và đi vào một căn buồng khác, một văn phòng có đồ đạc bằng gỗ đào hoa tấm kiểu Régency. Ông mở cánh cửa bật của một cái bàn viết che kín một chiếc máy thâu âm và một phút sau, tiếng nói của tôi vang lên: “Pierre Charmoy, tôi nghe đây…”

Tôi đã tiến tới ngưỡng cửa và ngay câu trả lời thứ hai của kẻ đối thoại nặc danh, tôi chợt nhận thấy phản ứng của Pierre Valonne. Ông ta quay hẳn lưng về phía tôi, nhưng tôi trông thấy rõ ông rùng mình rồi cứng sửng đôi vai và hai cánh tay. Ông đứng bất động trong suốt quãng thời gian lắng nghe, rồi cuốn cuộn băng trở lại và lấy ra khỏi máy.

Tôi liền hỏi:

- Ai vậy?

Ông nhìn thẳng vào mặt tôi, nhưng không trả lời câu hỏi của tôi.

- Anh vui lòng cho tôi mượn cuộn băng này trong hai mươi bốn giờ?

- Nếu ông cho tôi biết đó là ai?

Ông lắc đầu:

- Tối nay hãy còn quá sớm… nhưng, anh sẽ biết.

Tôi suy nghĩ một lát rồi bảo:

- Cũng được, ông cứ giữ lấy.

Pierre Valonne trở về thư viện, đặt cuộn băng lên chiếc bàn xoay và chỉ cho tôi một chiếc ghế bành.

Tôi bảo:

- Bây giờ tôi xin thuật tóm tắt mọi việc kể từ khi đến Foncourt.

Khi tôi dứt lời, tôi đã cung cấp tất cả lời biện bạch cần thiết và như thế cũng như tôi gián tiếp mời Pierre Valonne lên tiếng tiếp theo, ông đã sai lầm vì kéo dài sự im lặng và tôi không có kiên nhẫn để cho ông thong dong lựa lời nhập đề. Cuộc tấn công của tôi khiến cho ông bỡ ngỡ và tôi trông thấy nét mặt của ông đổi sắc:

- Lên tới hai mươi sáu tuổi, tôi mới được biết nhiều sự bất ngờ. Người cha đầy can đảm, đã hy sinh vì tổ quốc, mà người ta vẫn thường nhắc đến với tôi bằng những lời lẽ xúc động... thật ra chỉ là một kẻ sở khanh! Người cha chính hiệu của tôi vẫn còn sống. Ông ta đã bỏ rơi má tôi, giữa lúc bà ấy đang mang thai, như trong những chuyện tiểu thuyết tồi tệ. Và, để cho bà ấy vô phương chống cự, ông ta đã bày ra một mưu mô ác đức đến nỗi ngay cả một anh văn sĩ chuyên môn viết những chuyện tình nhảm nhí để đăng vào các tờ báo lá cải cũng phải e ngại không dám tưởng tượng ra.

Pierre Valonne lấy một điếu thuốc trong chiếc hộp bằng vàng khối và đốt lên với vẻ lụp chụp chứng tỏ ông ta đang bối rối. Rồi ông ta nói:

- Bây giờ tới phiên tôi, tôi sẽ giải thích theo thứ tự những sự việc đã xảy ra hai mươi bảy năm trước... và căn cứ vào đó tôi đã có một quan niệm không đáng hưởng một sự khoan dung nào. Anh muốn tin hay không tùy ý! Tôi đã gặp má anh, lúc bà ấy đang học ở trường Quốc Gia Âm Nhạc...

Thứ bảy tuần trước, cũng vào khoảng giờ này má tôi đã bắt đầu kể câu chuyện đời của bà theo một lối tương tự. Bây giờ, nghe Pierre Valonne thuật thêm một lần nữa, tôi lại được nghe những diễn biến của cuộc phiêu lưu mà ngày xưa họ đã lao đầu vào với tất cả vô tư lự để rồi đột nhiên quẹo sang một ngả đường đời đầy bi thảm. Ông cũng chỉ đành khuất phục trước mệnh lệnh của thân phụ ông.

Tôi nói:

- Chỉ có một cách để phá vỡ uy quyền đó: phải lựa chọn và bỏ tất cả để theo Gisèle Charmoy.

Ông khẽ nhún vai, đáp:

- Trong gia đình Valonne, chuyện đó không bao giờ có thể xảy ra. Tôi phải nhượng bộ Gisèle... má của anh, quá sức an phận nên sự việc càng có vẻ đơn giản. Thế rồi, chiến tranh xảy ra lúc ấy. Tôi phải nhập ngũ, đi xa Paris. Sau ngày đình chiến, tôi đã trở về thẳng đây. Tôi không còn nghe ai nói gì nữa.

Tôi la lớn:

- Và trong thời gian đó tấn hài kịch mở màn. Mãi cho tới tuần trước, tôi vẫn còn nghĩ rằng mình đáng lẽ được mang họ cha nếu ông ấy còn sống trở về sau chiến tranh. Má tôi đã vẽ ra trong trí tôi hình ảnh một người cha lương thiện, liêm khiết, biết trách nhiệm. Tôi đã rơi từ trên trời xuống khi biết thật ra mình chỉ là đứa con của một kẻ hèn nhát.

Tôi lại trông thấy Pierre Valonne rùng mình trước lời sỉ nhục của tôi, nhưng tôi vẫn nói tiếp:

- Tôi nóng lòng muốn gặp ông và nghe những lời giải thích của ông... để thử xem ông có hoàn toàn giống như tôi đã nghĩ trong trí.

- Bây giờ, cảm nghĩ của anh như thế nào?

- Vẫn không có gì thay đổi. Ông chưa nói gì với tôi kia mà.

- Tôi đã thú nhận với anh tôi nhớ mãi đoạn đời quá khứ không đáng dung thứ đó, mà anh vẫn cho là chưa nói gì cả hay sao? Được rồi! Tôi sẽ nói gần hơn nữa... Tôi vô cùng hối hận.

Lời tự thú này khiến cho tôi bối rối, nhưng tôi không để cho mình xúc động.

Tôi liền hỏi:

- Kể từ khi nào?

- Kể từ lâu lắm, anh nên tin tôi. Anh cũng nên biết, tôi đã trả giá rất đắt về thái độ của mình. Tôi không có một đứa con nào với người vợ cũ. Đã hơn một lần, tôi trông thấy báo ứng của trời.

Tôi vặn lại:

- Thế mà ông vẫn không hề có ý nghĩ đi tìm đứa con ông đã cho ra đời ở chỗ khác.

Ông thú thật:

- Đó là điều hối hận lớn nhất của tôi. Chiếc máy đang chạy... nó vẫn quay… có lẽ không được tốt, nhưng vẫn quay đều. Tôi không nghĩ ra một cách hành động nào mà ông cụ không hay biết.

Chắc ông hiểu cử chỉ nóng nảy của tôi, bởi vì ông tiếp ngay:

- Lại ông cụ! Thế hệ của anh ngày nay, cũng như môi trường anh hiện sống không thể nào hiểu được các tập quán của thời xưa trong một xã hội cổ kính. Chắc người ta đã kể cho anh nghe rất nhiều về Antoine Valonne từ hôm anh tới Foncourt.

Tôi mím môi hảo:

- Quá nhiều,

- Ông cụ đã góp công với tiền nhân xây đựng một tòa lâu đài mà tôi không có quyền phá đổ. Có lẽ anh nghĩ rằng ở vào tuổi tôi hồi đó mà tôi chịu chiều theo ý của ông cụ, mặc dầu quá khắc nghiệt, là một sự hèn nhát? Không, chuyện không phải đơn giản như thế...

Tôi ngắt lời ông:

- Một thứ truyền thống gia tộc. Tôi đã nghe người ta kể lại như thế, nhưng tôi không tin bằng nghe chính miệng ông nói ra. Một người bắt buộc người khác phải hèn nhát và dùng tiền để nhờ làm chứng gian, thì không đáng để cho một ai kính nể được. Riêng tôi thì tôi khinh con người đó.

- Anh cũng khinh luôn kẻ tôn trọng những quyết định của ông cụ?

Tôi trả lời không do dự:

- Đúng vậy.

Lời đối đáp của tôi chắc hẳn khiến cho lòng ông tổn thương một cách dữ dội, bởi vì bàn tay của ông run rẩy trong lúc ông đưa một điếu thuốc lên môi.

Ông bảo:

- Sau này tôi biết chắc má anh không bao giờ chịu nhận gì của tôi. Bà ấy quá kiêu hãnh.

- Như thế lại càng dễ đổ tội lạnh nhạt cho má tôi chứ gì?

Ông vẫn bình tĩnh tiếp:

- Từ khi anh thi đỗ vào Trường Quốc Gia Kịch Nghệ, tôi đã theo dõi việc học hành của anh. Tôi đã đi xem anh đóng trò trong mọi kịch bản trên sân khấu. Thường thường, một vở kịch, tôi xem tới hai ba lần.

Tôi nhìn sững ông, lộ vẻ không tin. Ông liền kể tên nhiều vở kịch và cho tôi biết nhiều chi tiết chính xác đủ để tôi xóa tan mọi điều nghi ngờ. Ông muốn biết, những nguyên do thúc đẩy tôi hướng về nghề kịch sĩ.

Tôi bảo:

- Tôi có khiếu về khoa học và không chừng tôi có thể trở thành một kỹ sư giỏi, nhưng tôi lại thích sân khấu, thích được hoàn toàn tự do... và rất khinh bỉ lất cả những thứ bề ngoài có vẻ đáng kính trọng mà ông hiện thiết tha bám vào. Tôi rất ít giống ông, phải không ông?

Nghe tôi nhắc tới những điểm liên hệ thân tộc, ông nghiêm giọng trả lời:

- Có lẽ, mình có nhiều điểm không giống nhau thật.

Cứ mỗi lần Pierre Valonne tiến tới gần tôi một bước, tôi lại phản kháng để đừng xúc động. Tuy nhiên thái độ của ông có vẻ chân thành, đáng tin, và không phải thiếu nhân ái, đã làm suy yếu cảm nghĩ mà tôi nung nấu trong đầu từ tám ngày nay. Với bất cứ giá nào, tôi không để lộ cảm nghĩ hiện tại ra ngoài.

- Ông đã quan tâm đến tôi từ phía khán giả... Ông đã tiếp tục sống chấp nhận không bao giờ trao đổi một lời với đứa con trai của ông, ông đã góa vợ từ một năm nay... và nghĩa là tự do kia mà. Như thế đáng lẽ, ông có thể đổi thay nhiều việc chứ? A! Tôi biết rồi: lại vì cụ Antoine Valonne!

Ông quả quyết:

- Không phải chỉ một mình ông cụ. Còn công việc làm ăn, những trách nhiệm quan trọng, mối ưu tư cứu vãn thanh danh đối với những người thân cận khó lay chuyển nổi.

Tôi nói:

- Tôi đã nhận thấy điều đó lúc gặp bà vợ của người anh vợ của ông. Thanh danh của ông sẽ ra sao, với những tai tiếng đang âm ỉ cháy?

Ông lặng thinh một lát mới cho hay:

- Tai tiếng đã vỡ tung ra rồi. Tất cả xứ này đều biết anh là con của tôi.

Phát giác đã khiến cho tôi choáng váng mất một lát. Tôi có tới cả trăm câu cần phải hỏi, nếu tôi không đè nén lòng hiếu kỳ lại.

Ông bảo:

- Tai tiếng phải bùng nổ ngày hôm nay. Bây giờ thì tôi đã biết rõ… cũng như tôi đã hiểu ý định của kẻ đã lôi kéo anh tới Foncourt. Y sẽ phải trả giá rất đắt. Tuy vậy, tôi vẫn sung sướng, vì nhờ có y, anh mới đến với tôi… dù mang theo một chuyện tai tiếng.

Những lời nói đó làm cho tôi xúc động nhưng, một lần nữa, tôi cố tự dối mình.

Tôi hỏi:

- Tại sao ông không có đủ tiết tháo dang xa Montbertaut? Chắc ông phải nhớ ơn ông ta nhiều lắm mới đưa ông ta vào làm việc với mình?

- Montbertaut ở đây ngoài ý muốn của tôi. Tôi khinh bỉ ông ta.

- Thế nhưng ông đã giúp ông ta một chỗ làm ngay khi ông vừa gặp lại ông ta.

Ông quả quyết:

- Không đúng.

- Như vậy, hai người chắc hẳn đã vô tình gặp lại nhau, như lời ông ta bảo. Hay là ông ta đã đến đây tìm ông?

- Không. Chúng tôi đã vô tình gặp lại nhau thật, nhưng không phải tự ý tôi giúp đỡ ông ta:

Tôi nói:

- Tôi đã sửa trị ông ta hôm chủ nhật. Hôm nay chắc vẫn còn dấu vết.

Ông hăng hái bảo:

- Anh làm thế phải lắm.

Tôi ngạc nhiên;

- Tại sao ông lại không biết đương đầu với ông ta? Riêng tôi, tôi đã bắt ông ta phải viết một tờ tự thú tội khai gian, trước khi cho ông ta một trận đòn!

Pierre Valonne chợt có vẻ ngần ngại. Đột nhiên, ông sinh ra thận trọng:

- Không phải vì vụ đó mà hiện giờ Montbertaut gây khó dễ với tôi. Ông ta dùng chuyện khác… mà ông ta đã may mắn biết được.

- Có phải ông ta làm tiền ông?

Không trả lời thẳng, Pierre Valonne xác nhận những mối nghi ngờ của tôi:

- Chuyện đó không thể kéo dài mãi. Những đảo lộn vừa đến trong đời tôi, trái với ước muốn của tôi, nối tiếp với những chuyện khác, làm nảy ra trong trí tôi một giải pháp. Tôi bắt buộc phải thanh toán Montbertaut. Trước kia tôi đã thiếu can đảm, nhưng từ nay tôi sẽ có đủ.

Làm bộ tự nhiên, chứ không phải tò mò, tôi hỏi ông muốn nói đến những đảo lộn nào. Ông bảo lúc này còn chưa thể cho tôi hay được, ông cần phải suy nghĩ kỹ để chuẩn bị đổi thay nhiều phương diện trong đời ông.

Tôi chua cay hỏi:

- Thế trong tám ngày ông đi vắng, ông không có thì giờ để suy nghĩ à?

Ông đáp lại:

- Tôi không có đủ yếu tố. Tôi không biết rõ lý do thực sự về sự hiện diện của anh ở Foncourt. Tôi tưởng âm mưu của anh nhằm chống đối tôi. Tôi đâu có hiểu gì về thái độ của anh. Henri Batz, trông thấy anh có giọng lưỡi hăm dọa, đã khuyên tôi hãy thận trọng. Ông cụ lại càng quả quyết hơn nữa.

Tôi lại hỏi:

- Có phải ông cụ đã xúi giục dân chúng chống tôi?

- Trái lại, ông đã làm đủ mọi cách để cho không có chuyện lôi thôi.

- Chẳng hạn yêu cầu cảnh sát để cho tôi yên?

- Đúng thế.

Ông ngừng một giây, rồi tiếp ngay:

- Nhưng dù đã cảnh giác đề phòng, tận trong đáy lòng tôi vẫn có một cái gì bài bác những lời buộc tội anh. Khi tôi đã đọc bức thư của anh, và tất cả đều đã sáng tỏ, tôi nói thật với anh, tôi vô cùng vui sướng.

Tôi xoay mặt qua hướng khác, bởi vì ánh mắt ông dùng để nhấn mạnh thêm cho lời nói khiến cho tâm hồn tôi phải xao xuyến. Tôi thầm nghiến răng chịu đựng, có lẽ vì lòng kiêu hãnh, và nỗi thất vọng của Pierre Valonne lồng trong giọng nói của ông lúc ông hỏi:

- Tại sao anh không chịu tin lời tôi.

Tôi vùng đứng dậy, đáp:

- Không phải chỉ cần nửa tiếng đồng hồ giải thích là đủ để xóa bỏ hai mươi bảy năm hờ hững.

Ông nhìn nhận:

- Anh nói đúng lắm. Vậy anh hãy để cho tôi có thời giờ thuyết phục anh bằng lòng thành thật của tôi. Vài ngày sau, tôi sẽ gặp lại anh. Anh hãy ở lại Nancy cho đến ngày hôm đó, hay là anh cứ trở về Paris, nhưng tuyệt đối giữ bí mật cuộc gặp gỡ giữa anh với tôi. Tôi phải để ý coi chừng giới thân cận chung quanh tôi. Người ta giám sát tôi để ngăn cản chuyện mà tối nay mình đã thành công. Không ai có thể tưởng tượng tôi dám tiếp anh tại đây. Anh đã đề phòng để không ai có thể nhìn ra anh chứ?

Tôi trấn an ông về điểm đó, cho ông hay tôi đã đến bằng một chiếc xe thuê và đã không cho bất cứ ai biết cuộc hẹn này. Nếu tiết lộ việc Sylvie đang ngồi trong chiếc 2 CV của nàng ở phía sau nhà thờ, tôi sẽ phải tìm lời giải thích và cam đoan một cách vô ích.

Tới phiên ông đứng lên. Chúng tôi lại đối diện nhau, như ban nãy, nhưng hố chia cách giữa hai người lúc này đã bớt sâu.

Tôi hỏi:

- Tôi chỉ rời khỏi Nancy khi nào đã biết ai là người nói điện thoại. Nếu chưa biết, tôi sẽ không đi.

Ông bảo:

- Tôi sẽ gọi lại anh vào ngày thứ hai ở khách sạn để cho anh biết chuyện đó. Sau đó mình sẽ gặp nhau một cách yên tĩnh ở Paris, để nói chuyện tương lai.

Tôi cảm thấy xao xuyến thực sự. Lần này, sự xúc động hết sức mạnh, nhưng tôi vẫn nhất quyết không chịu thua. Tôi có cảm tưởng mình sắp lâm vào một tình thế có thể trở thành lố bịch. Tôi thoáng nghĩ đến một câu đối thoại không hợp thời mà chúng tôi đã từng diễn trong một vở kịch: “Đến đây với cha đi, con!” Tôi muốn cười ồ lên nhưng cổ họng tôi như bị ai bóp chặt.

Tôi đang cần sắp đặt tư tưởng cho trật tự. Một số câu hỏi đã được chuẩn bị trước khi đến đây, lúc này tôi bỗng quên mất. Tôi đi trước ra phía cửa. Trong tiền đình, tiếng bước chân chúng tôi vang dội một cách kỳ lạ. Ba tôi nhấn một cái nút có lẽ để điều động khóa cổng tự động chạy bằng điện. Rồi ông tắt đèn và kéo cánh cửa. Trên bậc thềm, tôi đề nghị:

- Ông khỏi cần dẫn tôi ra. Chắc là cổng sắt đã mở.

- Phải. Anh nhớ nhìn chung quanh trước khi ra đường.

Tôi vừa nói vừa đưa bàn tay ra trong đêm tối:

- Mong gặp lại ông.

Ông quờ quạng nắm lấy tay tôi, siết mạnh và đột ngột thốt lên một câu hỏi mà tôi lại càng ngạc nhiên hơn nữa vì chính tôi đã hỏi một câu tương tự ở ngưỡng cửa nhà má tôi, cách đây mới một tuần lễ:

- Tại sao má anh lại lấy tên tôi đặt cho anh?

Tôi trả lời:

- Để ít nhất tôi cũng có đôi chút liên hệ với ông.

Đêm tối đã che giấu không cho tôi trông thấy sắc mặt của ông lúc nghe lời giải thích này, một lời giải thích không đúng sự thật.

Trong lúc chân bước xa dần, tôi nghe tiếng cánh cửa đóng lại. Tôi đi thật chậm, bên bờ đường, về phía khung cửa sắt nổi bật trên một nền sáng. Hai ba lần, tôi dừng lại và ngoảnh lui để quan sát ngôi nhà đang để lọt những vạch ánh đèn xuyên qua khe lá sách. Bây giờ tôi để mặc cho cảm giác cực kỳ khoan khoái và lạc quan xâm chiếm trọn tâm hồn, không cần phải cưỡng chế vì lòng tự ái bướng bỉnh như lúc ở trước mặt ba tôi.

Tôi có cảm tưởng đang đi đón một cuộc đời mới và tôi không cảm thấy xấu hố.

Ngay lúc tôi vừa ra tới cổng, một tiếng súng nổ chát chúa bất thần vang động, khiến tôi đứng sững lại.