Chương 4
Mason khéo léo hãm xe trước cánh cổng bằng sắt mà qua các thanh sắt thấy rõ con đường rộng rải đá sỏi.
Gã vệ sĩ với ngôi sao cảnh sát lớn trên ngực, chiếc đèn điện mạnh trong tay và khẩu súng lục trong bao súng gắn, dải đeo đạn đầy cứng, đứng ngay sau cánh cổng.
Tia đèn chói rực chiếu sáng lòng xe.
Mason hạ tấm kính xuống.
“Ông cần gì ở đây?” gã vệ sĩ hỏi.
“Thứ nhất,” Mason đáp, “tôi cần anh không dùng đèn làm loá mắt tôi.”
Tia sáng trượt sang một bên, sau đó chiếc đèn tắt.
“Còn thứ hai, tôi cần gặp Benjamin Addicts,” Mason nói tiếp.
“Nhưng tôi muốn biết,” gã vệ sĩ lúng búng, “Benjamin Addicts có cần gặp ông hay không?”
“Tôi đoan chắc ông ta rất cần.”
“Tên?”
“Perry Mason.”
“Hãy đợi ở đây,” gã vệ sĩ nói, “và chớ nghĩ chuyện trườn ra khỏi xe đấy. Hãy ngồi và chờ tôi gọi vào dinh đã. “
Gã đi lại máy điện thoại giấu trong hõm một chiếc cột đá hình trụ gắn liền với cánh cổng.
“Ở đây sinh sống những con người đáng yêu, thân thiện và rất hiếu khách, phải vậy không?” Mason nói với Della.
“Đó có thể là những biện pháp bắt buộc. Nơi đây khá hẻo lánh, ngoài ra, ông Addicts rất giàu. Tôi có cảm giác là ông ta phải e ngại lũ trộm.”
Gã vệ sĩ treo ống nói và bấm nút - cánh cổng nặng nề trên các bản lề bôi trơn bắt đầu từ từ mở ra.
Gã vệ sĩ đến gần xe.
“Mọi việc đều ổn,” gã nói với Mason, “ngài Addicts đang chờ ông. Hãy đi thẳng theo con đường rải sỏi này, không quành đi đâu cả. Khi ông đến sát cửa chính - ở đằng kia, chỗ những cái cột to ấy, - hãy dừng xe ngay cạnh thềm đá. Sẽ có người đón ông. Hãy để xe lại đấy. Trên đường chớ dừng lại và không bước ra khỏi xe. Ông hiểu cả rồi chứ?”
“Hiểu,” Mason nói, “dù sự đón tiếp quá thân tình thế này không khích lệ tôi lắm. Thế sẽ có gì, nếu chúng tôi bước ra khỏi xe?”
“Nhiều thứ lắm.”
“Cứ ví dụ?”
“Ví dụ, các vị sẽ cắt ngang những tia báo động vô hình, mà khi các vị vừa làm điều đó, lập tức bắt đầu một thứ mà các vị đến tưởng tượng cũng không thể! Tiếng còi rú, đèn pha. Ngoài ra, các cửa chuồng chó tự động mở và những con chó bảo vệ sẽ được thả ra. Đừng nói là tôi chưa cảnh báo cho các vị. Nếu các vị muốn thử nghiệm, các vị có thể tự kiểm tra lấy.”
Gã vệ sĩ quay lại vị trí.
Mason ngoái về phía Della.
“Tôi có cảm giác ông Addicts tổ chức việc bảo vệ thật hoàn hảo. Giống như, ông ta quyết định điều chỉnh khiếm khuyết lòng hiếu khách bằng tổ chức bảo vệ tuyệt vời về mặt kĩ thuật.”
Vị luật sư chuyển số, và chiếc xe trườn vào cổng. Phía dưới bánh xe lạo xạo đá sỏi của con đường rộng rãi uốn lượn mềm mại; người quan sát không rành chắc có cảm giác rằng lãnh địa được chăm sóc kĩ xung quanh có khả năng để tự biệt lập.
Qua một lát, trước họ xuất hiện những đường nét lờ mờ một ngôi nhà đá khổng lồ được mềm bớt nhờ một vài dây trường xuân buông xoã đây đó.
“Chà,” Mason nói, “trước chúng ta là mẫu mực kiến trúc tinh tế điển hình của nhà tù Liên Bang.”
Ông hãm phanh cạnh bậc thềm cửa chính. Thềm đá lấp loá ánh sáng chói mắt. Đâu đó đằng sau sặc sụa tiếng chó sủa man dại.
Mason tắt động cơ, tắt đèn pha, mở cửa, đi quành quanh xe để giúp Della bước ra, Không chờ ông, cô tự mở rộng cửa và chạy nhanh lên các bậc thềm đá.
Cánh cửa rộng của dinh thự mở ra, và Natan Fallon xuất hiện.
“Chúc mừng đã đến Stounhenge,” y chào hai vị khách.
“Stounhenge?” Della ngạc nhiên hỏi lại.
“Phải, biệt thự được gọi chính như thế,” Fallon đáp. “Nó khá lớn, cô Della ạ. Ở đây đủ chỗ để thỏa mãn mọi nhu cầu của ông Addicts - để tiếp khách, để làm việc, để thử nghiệm với động vật.”
“À, nhân thể, các thử nghiệm mà ông vừa nhắc đến được tiến hành với mục đích gì vậy?” Mason hỏi.
Natan Fallon không còn cố thể hiện lòng hiếu khách thêm. Y thôi cười và im lặng nhìn Mason xuyên qua hai mắt kính dày.
“Không phải việc của ông,” y nói sẵng.
Trong một thoáng, sự im lặng trùm xuống, sau đó Natan Fallon bước một bước lùi lại và khoát tay mời họ vào nhà.
“Mời các vị,” y thốt ra.
Họ bước vào phòng khách được bày biện nội thất nặng nề, mặc dù hơi khác nhưng vẫn cái môtíp của nhà tù Liên Bang. Về bên phải trong cánh cửa có bình phong che - ở đấy có một người gầy xương đang đứng quan sát họ.
Gã có cặp mắt xanh xám tuyệt đối không biểu hiện gì cả, đôi mắt to đến nỗi khi gã nháy mắt, có cảm giác, hai mi hạ xuống chậm một cách thiếu tự nhiên như mắt cú. Khi cặp mắt lồi to tướng mở ra, chúng làm liên tưởng đến ống kính của hai máy ảnh chụp mọi thứ đang diễn ra trên phim.
“Chào buổi tối,” người đàn ông thốt ra, bằng ngữ điệu khó nhận thấy rõ ràng, như đó không phải lời chào bình thường, mà là một hình thức rỗng tuyếch mỏi mệt.
“Cho phép giới thiệu với các vị, ông Mortimer Hershy,” Natan Fallon nói, “người quản lí của ngài Addicts.”
“Nếu tôi hiểu đúng,” Hershy nói, “đây là cô Della, còn vào thời điểm này tôi có vinh hạnh trò chuyện với ngài Perry Mason?”
“Hoàn toàn chính xác.”
“Mời các vị vào đi.”
Gã dẫn họ vào căn phòng, một kiểu tạp chủng của thư viện và văn phòng khổng lồ.
Ngay giữa phòng có chiếc bàn nặng nề dài những mười lăm foot[1]. Dọc theo một bên bàn xếp những cái ghế bành da tiện lợi.
Thế nhưng, dù cái bàn có to đến mấy, chính kích cỡ căn phòng vốn làm cho cái bàn không nổi trội đối với bố cục xung quanh. Các tủ sách chiếm ba phía căn phòng. Phía trên chúng treo các bức họa mô tả các hiệp sĩ đang chiến đấu. Trên một số bức tranh, các kị sĩ mang giáp sắt, người chúi về phía trước với ngọn giáo sẵn sàng, đang tấn công nhau. Trên những bức khác vẽ các hiệp sĩ đi bộ đang lao vào trận đánh giáp la cà, hoặc những kị binh trang bị nặng nề đang tấn công lính bộ binh, lính cung nỏ trong đội hình chiến đấu, thả từ chiếc cung dài những mũi tên ghê rợn lao về hướng các hiệp sĩ; ngựa hí khi giãy chết giữa đám thi thể lính bộ và hiệp sĩ nắm chặt trong tay gươm và khiên nhuốm máu đỏ.
Khắp phòng có những chiếc ghế bành lớn bọc da có thể ngồi vô cùng thoải mái. Trước mỗi cái ghế bành như thế có ghế đẩu để đặt chân, còn bên hông - ngọn đèn không chói để đọc sách. Bản thân căn phòng được chiếu bằng ánh sáng đều của những ngọn đèn ẩn kín.
“Mời các vị ngồi xuống,” dẫn họ tới bàn, Hershy mời họ và thu xếp để Mason và Della ngồi một bên, còn Natan Fallon và chính Hershy ngồi bên khác.”
“Bây giờ,” Hershy nói, thận trọng chọn lời, “tôi thực muốn, thưa ngài Mason, thay mặt ngài Addicts xin lỗi ngài.”
“Vì gì cơ?”
“Vì rằng đã không đánh giá đúng ngài.”
“Ông có ý nói rằng ngài Addicts đã đánh giá tôi không đúng ư?”
“Không, Fallon…,” Hershy từ tốn quay lại, chậm chạp nhấc mí mắt lên, chằm chằm nhìn Fallon. Trong ánh mắt dò xét của Hershy có gì đó khinh bỉ cố tình, nhưng trên môi gã vẫn đông cứng nụ cười.
Gã lại quay về phía Mason.
“Tuyệt lắm,” Mason nói, thoạt đầu người ta không đánh giá đúng tôi, sau người ta lại xin lỗi. Thế nhưng chẳng cần thiết gì những lời xin lỗi ấy.
“Ồ dĩ nhiên.”
Mortimer Hershy kéo ngăn bàn ra, lôi từ đó một tập giấy bạc và cố tình đếm chậm chạp cho đến khi có trước gã đủ ba chục tờ một trăm đôla mới cứng sột soạt.
“Đó là vì chuyện gì?” Mason hỏi.
“Vì các nhật kí và ảnh,” Hershy đáp.
“Chúng cần cho các vị để làm gì?”
“Ngài Addicts muốn nhận được chúng. Lẽ dĩ nhiên thôi, thưa ngài Mason, ngài nên hiểu: Ngài Addicts sẽ không bao giờ khẳng định là đã trả một cái giá như thế vì các tài liệu này, thế nghĩa là chỗ ngài sẽ không xuất hiện sự cần thiết phải thừa nhận điều đó.”
“Ông có ý gì vậy?”
“Tôi có ý là thế này,” Hershy nói, “trong các sổ tài vụ của ngài Addicts sẽ không chỉ ra rằng ngài được trả ba nghìn đôla. Trong bản quyết toán của ngài Addicts sẽ ghi rằng ngài được trả lại chi phí ở mức năm đôla mà ngài đã chi. Phần ba nghìn đôla còn lại sẽ được tính thành quà tặng của ngài Addicts cho ngài. Như thế, chẳng cần phải trả tiền thuế từ tổng số này. Tôi diễn đạt rõ chưa ạ?”
“Ồ, rõ lắm,” Mason nói, “điều duy nhất mà tôi không hiểu, ấy là sự nôn nóng của ông Addicts. Tôi cho rằng tôi đến đây để gặp ông ấy. Và tôi muốn nói chuyện với riêng ông ấy.”
“Nếu ngài cứ nhất quyết,” Hershy nói, “thì không cần nghi ngờ rằng ngài Addicts sẽ đồng ý nói chuyện với ngài. Nhưng dù có thế nào đi nữa, tôi có thể đoan chắc với ngài, thưa ngài Mason, rằng đây là đề nghị cuối cùng. Ngài Addicts sẽ không tăng thêm một cent[2] nào nữa. Ngài chỉ còn mỗi nước là chấp nhận nó hoặc từ chối mà thôi.”
“Tuyệt lắm,” Mason đáp ngay, “tôi từ chối nó.”
“Ngài quá hấp tấp từ chối những đề nghị nghiêm túc đấy,” Hershy nói.
“Ồ, nếu ông thích tôi diễn đạt lời từ chối có vẻ ngoại giao hơn,” Mason mỉm cười nói, “thì tôi đành xác nhận điều sau: Xuất phát từ sự kiện là tôi thấy các nhật kí vô cùng thú vị, mà cũng lưu ý đến cái sự kiện là trong chúng, như tôi cảm thấy, cất giữ chìa khoá để giải một điều bí mật. Tôi không có lấy một chút mong muốn nhỏ chia tay với chúng.”
“Chìa khoá giải một bí mật ư?”
“Chìa khoá giải một bí mật,” Mason khẳng định.
“Giải bí mật nào thế, xin phép được hỏi ngài?”
“Hỏi thì tất nhiên tôi cho phép ông,” Mason nói, “thế nhưng tôi sẽ không trả lời đâu. Lời đáp cho câu hỏi đó tôi dành riêng cho ông Addicts.”
“Ngài Mason ạ, điều đó gây cho ngài Addicts những phiền toái nhất định, nhưng mặc dù vậy tôi vẫn vui lòng truyền đạt những lời của ngài cho ngài ấy. Tôi không hề nghi ngờ một chút nào là ngài ấy sẽ muốn gặp riêng ngài. Xin đợi cho một phút.”
Hershy ngoái lại và nhìn Fallon.
Natan Fallon nhảy bật lên khỏi ghế bành như bị điện giật, xoãi bước dài đi nhanh qua phòng và khuất sau cánh cửa có bình phong che.
Hershy nhìn ba ngàn đôla loại giấy bạc một trăm, xếp chúng vào cái gói đầy vẻ khêu gợi và chìa cho Mason. Ông lắc đầu khước từ. Hershy mở ngăn kéo, ném tiền vào, đóng ngăn lại và khoanh hai tay trên bàn, ngồi sững bất động.
Sau một thoáng, các tấm bình phong nặng ở góc xa mở ra, một người đàn ông lực lưõng ngực nở, đi khập khễnh và tì nặng nề lên chiếc gậy, bước vào phòng. Mặt ông ta bị băng bó, còn hai mắt được che sau cặp kính tối màu. Toàn bộ phần má phải và một ít bên má trái được quấn băng. Phía bên trái dải băng một mẩu băng dán đính vào lớp da cạo nhẵn, thế nhưng vẫn nhận rõ là phía dưới băng, nơi kết thúc phần má được cạo nhẵn, mọc lớp râu màu xanh đen. Khó nhìn rõ được bộ mặt dưới lớp băng, nhưng cái cằm có vẻ khá nặng, còn lớp tóc đen dày cắt ngắn phủ lên cái trán thấp.
“Ngài Benjamin Addicts,” Hershy giới thiệu.
“Rất vui được gặp ngài, ngài Mason. Tôi đã nghe nhiều về ngài. Tôi theo dõi các đánh giá trên báo chí về một số vụ tố tụng của ngài.”
“Còn đây là cô Della, thư kí của ngài Mason,” Hershy tiếp tục.
“Chào cô Della. Rất vui được gặp cô. Xin thứ lỗi, tôi bị băng bó khắp. Các vị biết không, tôi nghiên cứu các thử nghiệm với động vật, và điều đó không phải bao giờ cũng ảnh hưởng thuận lợi đến sức khoẻ.” Bộ mặt bị băng bó méo xệch bởi nụ cười cong vêu. “Một trong số đười ươi quỷ sứ này,” Addicts nói khó nhọc vì băng cản trở ông ta, “đã tóm lấy áo vét của tôi khi tôi lại quá gần cũi của nó, và tôi chưa kịp trút áo ra, thì nó đã tóm lấy tay tôi và kéo lại cũi. Tôi giật lùi lại cố thoát thân, đá nó, nhưng nó bóp chắc lấy chân tôi mà lại còn cào tôi và để lại mấy vết tím bầm. Nói chung không có gì đáng sợ, nhưng bộ dạng tôi giờ đây không được chững chạc lắm.”
Ông ta xích ghế và nhăn nhó một cách đau đớn, ngồi vào với vẻ vụng về.
“Con đười ươi,” Natan Fallon giảng giải, “định tóm lấy cổ ngài Addicts. Nếu nó mà làm được điều đó, thì những ngón tay mạnh mẽ của nó đơn giản đã bẻ gãy cổ ngài rồi.”
“Hãy dừng lại,” Addicts sốt ruột cắt lời y. “Ông bao giờ cũng hấp tấp làm những kết luận, khi chưa có đủ số liệu, cứ như là một mụ già lẩn thẩn nào đó vậy. Tôi không nghĩ là con đười ươi cố sức tóm cổ tôi. Tôi không thể khẳng định chắc chắn, nhưng theo tôi, nó vươn tới cái cà vạt của tôi.” Ông ta quay về phía Mason và giải thích: “toàn bộ lũ đười ươi là thế tuốt. Chúng sẽ không còn là chúng nữa nếu chúng rất muốn chiếm được gì đó từ quần áo, ví dụ như cái cà vạt treo lòng thòng. Nếu ta lại quá gần, chúng có thể thò tay qua song sắt và tóm lấy nó. Nhưng dĩ nhiên, nếu ở con đười ươi xuất hiện những dự định độc ác, thì nó trở nên rất nguy hiểm.”
“Ngài tự gây cho mình sự mạo hiểm như vậy một cách có ý thức à?” Mason hỏi.
“Tôi làm các nghiên cứu khoa học,” Addicts đáp, “và cần làm sáng tỏ bản năng giết người có cội rễ sâu đến mức nào trong ý thức của loài linh trưởng.”
“Giống như ngài đã cách không xa mục đích,” Mason nhận xét.
“Tôi giật lùi lại theo bản năng,” Addicts nói. “Quỷ tha ma bắt, nhưng trong thoáng lát tôi có cảm giác là nó muốn tóm lấy cổ tôi. Thế nhưng về sau suy ngẫm lại, tôi không thể loại trừ khả năng là nó định bấu vào cà vạt của tôi. Đối với chúng thì đó hoàn toàn là tự nhiên, ngài biết không, con này đơn giản là đặc biệt nhanh nhẹn thôi. Đười ươi là giống động vật lớn, nhưng chúng có thể di chuyển như chớp, ngài Mason ạ, đơn giản là nhanh như chớp.”
“Tôi trông thấy mọi chuyện rất rõ,” Fallon nói, “và tôi không có lấy một chút ngờ vực rằng nó cố tóm lấy cổ ông, Benny ạ.”
“Ồ, nói thật, đúng là tôi đã bị khốn đốn,” Addicts đồng tình. “Tôi làm cho nó choáng trong thoáng giây, dùng chân đá nó và tì vào cũi. Còn ngay đó Natan đến kịp, quát nó và vung gậy lên.”
“Giống như,” Mason nói, “các thử nghiệm của ngài phải chịu thất bại thôi - ngài không thể có kết luận cuối cùng khi con đười ươi trong thực tế chưa giết được ai đó.”
Addicts nhìn ông chằm chằm và nhún vai.
“Theo tôi, ngài hiểu không hoàn toàn đúng công việc của tôi, ngài Mason ạ, và nói trung thực, tôi thấy không cần giảng giải kĩ. Trước tiên tôi quan tâm về vấn đề thôi miên. Có thể ai đó không thích, quỷ tha ma bắt, tôi sổ toẹt. Đó là những con đười ươi của tôi. Tôi đã mua chúng, và chúng thuộc về tôi.”
“Tôi có phần nghi ngờ đấy,” Mason phản đối.
“Ngài ngầm chỉ điều gì?”
“Ngài có thế chiếm thể xác lũ đười ươi,” Mason giải thích, “nhưng về mặt đạo lí, tôi nghĩ, con người không thể là chủ nhân của một sinh vật. Con vật có quyền tồn tại với đầy đủ giá trị theo chính quy luật sự sống.”
“Ngài là luật sư. Tôi sở hữu chúng trên mọi cơ sở pháp lí, và ngài phải đồng ý với chuyện đó thôi.”
“Tôi nói về mặt đạo lí của vấn đề, về sở hữu về mặt đạo lí.”
“Hãy cho tôi sở hữu con vật đã giam vào sau chấn song sắt và hãy cho tôi giấy tờ rằng tôi đã mua thứ đó, và ngài có thể giữ lại cho bản thân trách nhiệm về đạo lí. Còn đối với tôi, tôi sẽ xử lí sở hữu của tôi hoàn toàn phù hợp với luật pháp.”
“Ngài muốn gặp tôi vì một việc gì đó phải không?” Mason hỏi.
“Phải, tôi muốn, nhưng giờ không muốn nữa.”
“Và điều gì buộc ngài thay đổi dự định của mình?”
“Chính ngài. Ngài được đề nghị ba nghìn đôla vì mấy quyển nhật kí. Nhưng ngài từ chối. Tuyệt lắm. Nếu ngài quyết hành động kiểu đó, chúng ta cùng tiếp nhận nguyên tắc trò chơi. Lời đề nghị bị hủy bỏ. Giá bây giờ lại như cũ, năm đôla. Ngài rõ chưa?
“Rõ. Tiền ở lại chỗ ngài, nhật kí chỗ tôi.”
“Nào ta nói thẳng ra nhé, Mason. Ngài là một luật sư tinh quái. Nhưng tôi đâu phải kẻ tầm thường. Nếu ngài đưa nhật kí cho bọn nhà báo và bắt đầu thổi phồng câu chuyện với cái chết của Helen, tôi đơn thuần là bẻ gẫy cổ ngài.”
Mason đứng lên.
“Đem lời tào lao ấy mà dọa những kẻ phục vụ ngài,” ông nói. “Theo tôi, đó lại thêm một chứng cứ rằng chính ngài quá lo sợ. Đi thôi, Della.”
Họ bước ra khỏi phòng với ba người đàn ông đi kèm. Tại tiền sảnh Mason quay về phía Della.
“Cô có thể giúp tôi được không, Della?”
“Ngài còn nghĩ bậy gì thêm vậy?” Addicts hỏi với vẻ ngờ vực.
“Tôi muốn ngó xem có gì trong hũ đá này không.”
“Nhưng sao ông lại nghĩ có gì đó nằm trong ấy?”
Mason mỉm cười lạnh lùng.
“Biết được từ nhật kí.”
“Natan, Mortimer hãy hạ cái lọ xuống. Hãy cho Mason thấy trong đó chẳng có gì hết.”
Họ hạ chiếc lọ đá lớn khỏi bệ và thận trọng đặt nó xuống sàn. Natan Fallon chiếu đèn pin vào đáy lọ. Vào khoảnh khắc đó nó rạng tỏa từ bên trong hàng nghìn điểm sáng đổi màu.
“Trời ơi!” Fallon kêu lên. “Trong ấy có viên kim cương lớn lắm, Benny ạ.”
“Hãy lấy nó ra,” Addicts ra lệnh giật cục.
Fallon thò tay vào lọ, nhưng không chạm tới đáy.
“Để tôi cởi áo vét đã,” y nói, “mà thế tôi cũng chưa chắc có thò đến hay không nữa.”
“Cần lật sấp cái lọ lại,” Addicts nói, “hãy giữ lấy nó và xoay đi. Ta sẽ xem có thứ quỷ quái gì trong ấy.”
Họ tóm lấy mép trên lọ, vật nghiêng ra, sau đó từ từ nâng đáy lên. Cái nhẫn lớn đính kim cương lăn ra đầu tiên.
“Kim cương của tôi!” Addicts kêu lên.
Theo sau nhẫn là cả một tập hợp các chế tác kim hoàn, những đồng xu, chiếc ví, cỗ bài, hộp phấn…
“Ồ, thế cơ đấy, quỷ tha ma bắt tôi đi!” Addicts kêu lên.
Mason nói lạnh lùng, “Trong nhật kí viết rằng, một con khỉ tên là Pete đôi khi vẫn nghịch ngợm, nó có thói quen vớ các đồ vật, đặc biệt là những thứ mà theo nó, Helen Cadmus đánh giá cao, và giấu chúng vào cái lọ này.”
“Hóa ra sự việc là thế!” Addicts bối rối.
Mason nhìn thẳng vào con mắt mở duy nhất của ông ta.
“Theo như tôi rõ, ngày kia sẽ khởi tố theo đơn kiện của Jozephine Kempton, buộc ngài vào tội phỉ báng.”
“Hóa ra nó là thế!” Addicts thốt ra.
“A!” Fallon kêu lên. “Giờ đây thì mọi sự đã rõ. Giờ thì hiểu tại sao Perry Mason vĩ đại bỗng quan tâm đến nhật kí Helen Cadmus. Lúc này Benny ạ, mọi thứ đã ở đúng chỗ của nó…”
Addicts liếc nhanh Fallon, cắt ngang y, “Câm đi!”
Sau đó ông ta quay về phía Mason, “Ngài thực thông minh. Tôi quý những người thông minh. Nhưng ngài dự định sẽ làm gì?”
“Không gì cả,” Mason đáp.
“Thế còn ông, Benny, thì bây giờ định làm gì?” Natan Fallon quan tâm.
Addicts nhặt đồng hồ lên và xoay xoay nó trong tay.
“Tuyệt đối không gì cả, và tôi nghi ngờ rằng, quỷ tha ma bắt, anh có thể nghĩ ra được gì đó.”
“Mason đã lập kế hoạch mọi thứ đó trước rồi. Ông ta ngầm dựng bẫy nhân tạo cho chúng ta,” Fallon tiếp tục.
“Hãy giữ mồm giữ miệng,” Mason nói, “vì có thể phải chịu trách nhiệm về những lời như thế đấy, ông Fallon. Hãy cẩn trọng lời nói.”
“Tôi chẳng cần lựa lời,” Fallon tức tối. “Khi ông đi ngang qua tiền sảnh lần đầu ấy, ông đã ném đồ vật vào lọ đá, còn sau đó bịa ra câu chuyện với con khỉ.”
“Tôi không đến gần cái lọ,” Mason phản đối.
“Chính ông đi ngang qua nó.”
“Ông đúng là một tên dối trá, quỷ tha ma bắt ông đi,” Mason nói.
Fallon nắm tay thành quả đấm, nhưng sau suy nghĩ lại và vờ không có phản ứng gì.
“Đợi, hãy đợi đã,” Addicts nói, “mọi chuyện diễn ra quá nhanh. Trước tiên tôi phải xem xét kĩ việc này đã. Hershy, tôi phó thác cho ông. Từ cái chỗ ông đứng, ông trông rõ Mason đi ngang qua cái lọ như thế nào?”
“Ngài ấy không đi qua cạnh cái lọ,” Hershy nói. “Ngài ấy chỉ nhìn nó thôi, nhưng không hề lại gần và không thể ném gì vào nó được. Mà tự ngài cũng nhìn thấy rằng tất cả các thứ này phủ một lớp bụi dày. Chúng nằm ở đấy đã lâu.”
“Đó là khuyết tật chủ yếu của ông, Fallon”. Addicts nói, “ông luôn nhận được sáu khi xếp hai với hai, sau đó cố thuyết phục tôi rằng đó mới là đáp số đúng. Quỷ tha ma bắt, vì ông, chúng ta suýt nữa đã dính vào chuyện. Hãy ngồi xuống và im miệng đi.”
Trong sảnh, điện thoại réo lên gay gắt.
“Còn ma quỷ gì nữa thế?” Addicts nói và ngoái về phía Fallon: “Cầm lấy ống nghe đi.”
Fallon nhấc máy, “Alô, Natan Fallon bên điện thoại… Ai?… Hừ, ngài Addicts không thỏa thuận gặp ông ta… Đợi một chút.”
Fallon quay lại nói với Addicts. “Sydney Hardvic, luật sư của ngài đã đến. Ông ấy đang bên ngoài cổng.”
“Tôi không thể tiếp ông ta được,” Addicts nói, “rõ ràng hôm nay tôi không đủ sức liều mạng thử thách thần kinh mình và không định gặp ai nữa hết. Mặc xác ông ta. Tôi không hẹn gặp ông ta.”
“Nhưng ông ấy nói có việc rất quan trọng,” Fallon nói. “Chúng ta sẽ làm gì đây? Chúng ta không thể đuổi ông ấy ra khỏi cổng.”
Addicts quay về phía y, “Anh là gì mà dám dạy khôn tôi hả, Fallon? Tôi lôi anh từ vũng bùn lên và rốt cuộc tôi sẽ nhét anh ngược trở lại đó. Tôi đã nói là không định tiếp Hardvic, và nó sẽ là như thế. Tôi nhổ toẹt mọi việc dù quan trọng hay không quan trọng.”
Addicts khập khễnh bước ra khỏi phòng, nhưng bỗng quay lại sau một tích tắc ở cửa.
“Ngài chơi những con bài của ngài thông minh đến ma quái, Mason ạ,” ông ta nói. “Thôi chào.”
Mortimer Hershy nhìn Fallon đầy ý nghĩa, “Ông phải tự chăm sóc lấy Hardvic vậy, Natan.”
Natan ra lệnh vào ống nói, “Hãy mở cổng. Ông Hardvic có thể vào bất cứ lúc nào.” Y treo máy và nói: “Tôi rất muốn ngài lưu lại đây một phút, ngài Mason ạ. Tôi lấy làm tiếc đã xử sự không phải lối. Tôi đã cố bảo vệ quyền lợi của Benny. Ngài thấy đấy, lòng tri ân của ngài ấy là thế nào rồi.”
Mason cúi xuống các đồ vật lăn ra từ chiếc lọ, và đề nghị Della, “Della, hãy ghi lại tất cả các thứ có trong lọ.”
“Đừng sờ vào,” Fallon cảnh cáo. “Các vị không được quyền chạm vào gì cả. Tôi đã cảnh cáo rồi đấy.”
“Tôi chẳng sờ gì cả,” Mason trả lời y, “tôi chỉ nhìn thôi. Ông có gì phản đối điều đó không?”
Fallon ngừng lại thoáng lát rồi đáp, “Giờ đây trả lời mọi câu hỏi của ông Hardvic với tôi hôm nay là đã quá đủ chuyện rồi.” Y mở cửa ra vào. “Mà ngài Hardvic đây rồi. Mời vào, mời vào cho!”
Hardvic, một người đàn ông cao gầy độ tuổi sáu mươi, với cái mũi dài, cằm nhọn, lông mày rậm và cặp mắt xám tinh anh, dừng lại ở cửa bắt tay Fallon. Từ gọng kính của ông trông rõ dải dây đen rủ xuống. Trong tai phải của ông có máy nghe.
“Chào ông, ông Fallon,” ông nói. “Hôm nay sức khoẻ của Benny thế nào?”
“Benny không khoẻ lắm,” Fallon đáp, “và không thể tiếp ông được.”
“Cái gì?” Hardvic kêu lên sửng sốt. “Không thể tiếp tôi ư? Nhưng điều đó rất quan trọng. Tôi đã nói với ngài ấy về những khó khăn vừa nảy sinh, mà vì chúng, cần để di chúc của ngài ấy…”
“Có những thứ còn quan trọng hơn,” Fallon nói đầy ý nghĩa, chỉ ngón tay cái về phía Mason và Della. “Chỗ chúng ta đây có vụ khó chịu nho nhỏ.”
“Ông có ý gì vậy?” Hardvic hỏi, đến giờ mới chú ý đến Mason và Della.
“Chỗ chúng ta có sự đụng độ không lớn với luật pháp,” Fallon giải thích. “Đây là Perry Mason.”
“A mà đúng, quỷ thật,” Hardvic nói. Khuôn mặt ông rạng rõ một nụ cười. Ông đi lại gần và chìa bàn tay xương xẩu mạnh mẽ của mình trao đổi với Mason cái bắt tay thân tình.
“Cô Della, thư kí của tôi,” Mason giới thiệu.
Hardvic nghiêng mình, “Tôi thật vui được làm quen với cô, cô Della ạ. Nào, Mason, cái gì dẫn ông đến đây thế?”
“Tôi đến đây,” Mason nói, “theo yêu cầu của ngài Addicts, và hoàn toàn vì một lí do khác. Như ông Fallon đã giải thích với ông, đơn giản là chúng tôi phát hiện ra các cứ liệu chứng minh rằng: Trường hợp trộm cắp được gán cho bà Jozephine Kempton, bà quản gia, trong thực tế do một con khỉ gây ra.”
Nụ cười vụt tắt trên mặt Hardvic, ông quay về phía Fallon.
“Điều đó xảy ra thế nào, Natan?” ông hỏi.
“Ngài Mason đến đây để gặp Hershy và tôi hoàn toàn vì một lí do khác. Chúng tôi đề nghị ngài ấy điều chỉnh một vấn đề tài chính.”
“Về vấn đề nào?” Hardvic hỏi gay gắt, và câu hỏi của ông nghe như tiếng roi quất.
“Về các nhật kí của Helen Cadmus.”
“Tôi có đọc thấy trên báo,” Hardvic nói. “Và đó cũng là lí do thứ hai mà tôi muốn bàn bạc với ngài Addicts.”
“Chúng tôi đã đề nghị ngài ấy nhận tiền vì chúng.”
“Bao nhiêu?”
“Ba nghìn.”
“Rồi sao?”
“Ngài ấy từ chối.”
Hardvic nhíu trán và quay về Mason, “Thực thế ư, ông luật sư? Thế mà tôi cho rằng ông sẽ vui mừng trao những quyển nhật kí đó cho ai cũng được chỉ cốt người ta hoàn lại chi phí cho ông vì việc mua chúng.”
“Nếu như họ kiềm chế hơn dù chỉ một chút, chắc tôi đã trao cho họ nhật kí rồi,” Mason nói. “Nhưng họ lo sợ đến chết khiếp, và tôi rất muốn biết vì lí do gì.”
“Chúng tôi chỉ ngại những lời đồn đại xằng bậy,” Hershy nói.
Mason không phản đối Hershy, nhưng nụ cười hoài nghi lạnh lùng của ông đã đủ hùng biện. Hershy nhắm mắt lại.
“Hãy tiếp đi,” Hardvic nói.
Natan Fallon báo thêm một số chi tiết, “Sau khi xem qua các nhật kí ấy, Mason chợt nảy ra ý nghĩ ngó vào cái lọ đá ở đây, ở tiền sảnh. Chính ông cũng thấy chúng tôi đã tìm được gì trong đó. Mọi thứ đang nằm trên sàn, Benny đã lấy chiếc nhẫn kim cương, nhưng ở đây vẫn còn đồng hồ platin, hộp phấn, đôi thứ đồ quý hiếm, một cái ví căng phồng, có khả năng có tiền. Nói thật ra, tôi nghĩ rằng đó là ví của tôi.”
Hardvic đi lại gần và nhìn các vật tìm thấy bày ra trên sàn.
“Hãy chờ một phút, về cái ví giờ tôi sẽ nói chính xác với các vị,” Fallon hứa.
Y cúi xuống nhặt ví lên, mở nó ra và với nụ cười, y cho Hardvic xem mảnh nhựa gắn phía trong với tên của y.
“Ồ chính xác,” y nói, “của tôi. Nó biến mất một thời gian trước đây.”
“Bao nhiêu tiền trong đó?” Hardvic hỏi.
“Khi tôi mất nó, ở đấy có ba mươi hai đôla,” Fallon đáp. Y ngó vào bên trong ví, nói, “Mọi thứ ổn cả,” và vội vã đút nó vào túi.
“Tốt nhất hãy kiểm lại và tự khẳng định là không mất gì cả,” Mason đề nghị.
Fallon lạnh lùng nhìn ông, “Mọi thứ đều nguyên.”
“Điều đó làm tình huống phức tạp thêm,” Hardvic thốt ra. “Mason, thế ông thì có liên quan gì đến mọi thứ đó?”
“Điều đó làm tôi tò mò.”
“Tôi hiểu. Nhưng để làm gì? Ai thuê ông?”
“Không ai,” Mason nói và bổ sung: “Ít nhất, tại thời điểm này.”
“Nếu thế,” Hardvic nói, “nhân chuyện này, tôi có một đề nghị quyến rũ: Với những chuyện vừa xảy ra, tôi cho rằng ngài Addicts sẽ thuê ông giúp tôi trong quá trình tố tụng sẽ phải tiến hành vào ngày kia. Vụ tố tụng mà trong đó, có khả năng sẽ ổn… Thế nhưng, tôi nghĩ tôi sẽ bàn bạc với ông các chi tiết pháp lí sau khi hợp đồng được kí kết.”
“Rất tiếc,” Mason nói, “tôi sẽ không nhận một đề nghị nào tương tự từ phía ngài Addicts.”
“Ông ngầm ý là bà Kempton đã thuê ông?”
“Không hoàn toàn như thế,” Mason nói, “Tôi may ra được biết đôi điều về vụ này, và tôi đã trò chuyện với luật sư của bà ta.”
“Hay lắm,” Hardvic nói, “chúng ta sẽ cùng thẳng thắn, ông Mason ạ. Hãy đừng nói gì với bà Kempton và các luật sư của bà ta trước khi chúng tôi, may ra đạt được thoả thuận với bà ta.”
Mason mỉm cười và lắc đầu.
“Ông muốn nói rằng ông định chia sẻ thông tin với họ?”
“Tôi muốn nói rằng tôi định báo với James Etna từ hãng ‘Etna, Etna và Duglas’ về ghi chép trong nhật kí và về những thứ tìm thấy ở đây.”
“Việc đó chẳng dẫn đến điều gì tốt đẹp đâu,” Hardvic nói. “Nó chỉ có hại thôi.”
Mason nhún vai.
“Nào chúng ta cùng thẳng thắn xem xét vấn đề từ quan điểm luật pháp,” Hardvic tiếp tục. “Chỉ hai trường hợp, khi người ta cáo buộc một người khác phạm tội, không chịu một trách nhiệm nào cả. Trường hợp thứ nhất - đó là nếu nhân vật này thực sự có lỗi trong việc gây ra tội ác. Luật về tội vu khống ở nước ta khác hẳn các luật tương tự của nhiều nước khác. Ở ta cái phù hợp với sự thật là lời biện minh miễn bàn cãi cho những tuyên bố, mà có thể được đánh giá là vu khống và phỉ báng.”
“Cảm ơn ông vì cuộc tư vấn vừa rồi,” Mason nói.
Hardvic mỉm cười.
“Tôi không định tư vấn cho ông. Tôi hướng sự chú ý của ông đến tình huống hình thành nên từ quan điểm luật pháp. Và loại trường hợp thứ hai, ông Mason ạ, - đó là sự nhầm lẫn thực lòng. Bây giờ chúng ta giả sử rằng ngài Addicts buộc Jozephine Kempton phạm tội ăn cắp. Ngài ấy có thể có hai cách biện minh. Trong trường hợp, nếu bà ta có lỗi thực sự, ngài ấy có thể chứng minh với tòa lẽ phải của mình và điều đó sẽ là sự biện minh trọn vẹn đối với ngài ấy. Trong trường hợp, nếu bà ta không có lỗi, nhưng ngài ấy khẳng định rằng bà ta có lỗi, ngài ấy chỉ cần chứng minh rằng sự nhầm lẫn của ngài ấy là vô tình. Nói khác đi, ngài ấy thực tình tin chắc vào lẽ phải của mình khi đưa thông tin như thế cho người thứ ba, người thể hiện mối quan tâm chính đáng đối với sự vụ này. Điều đó sẽ cởi bỏ trọn vẹn lời cáo buộc trong tội phỉ báng.”
Mason vươn vai, ngáp và nói, “Tôi không có một chút mảy may muốn bàn bạc các vấn đề pháp lí, khi mà tôi chưa được trả tiền vì chuyện đó. Mà tôi thì còn chưa có ai thuê, và không hiểu sao tôi còn có cảm giác là sẽ chẳng ai thuê.”
“Tất nhiên, ông Mason ạ,” Hardvic nói, “các hoàn cảnh đã tạo nên việc ông rơi vào một tình huống khá kì quặc. Nếu tôi hiểu đúng ông - lần đầu tiên ông bắt đầu nghi ngờ rằng các vật được nhắc đến có thể nằm trong lọ đá, khi đọc xong các ghi chép trong nhật kí của Helen Cadmus?”
“Hoàn toàn chính xác.”
“Các ghi chép được viết bằng chính tay cô ấy?”
“Thực ra, ông luật sư ạ, tôi không biết.”
“Lẽ dĩ nhiên, các ghi chép loại này không thể là chứng cứ nghiêm túc,” Hardvic nói. “Tòa sẽ không thể xem xét chúng một cách nghiêm túc được. Đó đơn thuần là những chữ được viết bởi tay Helen Cadmus. Chúng có thể là sự tự biện minh được chuẩn bị sẵn từ trước.”
“Ông định nói gì?” Mason hỏi.
“Thì cô ấy cũng có thể tự mình lấy các đồ vật này và giấu chúng trong lọ, còn sau đó cố tình ghi chép vào nhật kí để phòng trường hợp nếu bị nghi ngờ, hẳn cô ấy có thể vin vào nhật kí của mình. Ghi chép chắc sẽ khẳng định lời tuyên bố của cô ấy về việc con khỉ giấu các đồ vật. Ồ, Mason, hoàn toàn rõ ràng là tôi không cần giải thích với ông việc cô ấy có thể chuẩn bị lời biện minh cho bản thân như thế nào.”
“Tôi nghĩ rằng, ông không cần phải giải thích một điều gì đó với tôi,” Mason nói.
Hardvic quay lại phía Natan Fallon, “Tôi cho rằng, tốt nhất chúng ta bàn vấn đề này với ngài Addicts.”
“Ngài ấy nhờ chuyển cho ông rằng không thể tiếp kiến ông,” Fallon tuyên bố không lay chuyển. “Ngài ấy bị thương. Hôm qua con đười ươi mà ngài ấy thuần dưỡng suýt đã giết ngài ấy. Chuyện đó xảy ra trước mắt tôi.”
Hardvic nhíu trán.
“Đành vậy, Natan ạ, tôi nghĩ rằng không cần giữ ông Mason và cô Della lại làm gì. Theo tôi hiểu, họ đã chuẩn bị ra về.”
“Vâng, đúng thế.”
“Chúc buổi tối tốt đẹp,” Hardvic nói nhạt nhẽo khi bắt tay Mason và nghiêng người chào Della một lần nữa.
“Tôi sẽ gọi cho người canh cổng,” Fallon nói, “để anh ta cho ngài ra, ngài Mason ạ. Tôi cho là báo trước một lần nữa cũng không thừa, để ngài đi thẳng trên đường ra cổng. Không dừng lại, và cầu trời, đừng bước ra khỏi xe. Chào các vị.”
“Xin chào,” Mason nói.