Chương 6
Della bước vào văn phòng và báo, “Thưa sếp, khách anh hẹn gặp vào mười giờ đã đến.”
Mason rời mắt khỏi giấy tờ rải trên bàn.
“Bà Kempton phải không?”
“Vâng! Bà Jozephine Kempton và luật sư của bà, James Etna.”
“Ấn tượng của cô thế nào về họ, Della?”
“Trong bà Kempton có gì đó bí ẩn. Bà ta gầy, tuổi chừng năm mươi với khuôn mặt hoàn toàn không hiểu thấu, y như mặt một tay chơi poker. Có thể kết luận rằng cuộc đời không nuông chiều bà lắm và bà đã quen nhìn mọi thứ một cách triết lí.
“Thế à?”
“Ông ta đơn thuần là một luật sư trẻ tốt, nhiệt tình. Là người mến mộ anh và không che giấu rằng khả năng gặp được anh làm ông ta xúc động.”
“Thôi nào, mời họ vào đi,” Mason nói, “và xem họ có thể kể gì với chúng ta.”
Della bước ra phòng tiếp khách và đi vào cùng hai khách thăm.
James Etna, một người đàn ông độ tuổi ba nhăm, lao nhanh về phía trước và tóm lấy tay Mason.
“Ngài Mason, tôi đơn thuần không đủ sức diễn tả điều đó có nghĩa lớn thế nào đối với tôi. Phải nói với ngài rằng, đêm qua ngài xử sự với tôi thật tuyệt vời, đơn giản là kì diệu. Sau cuộc trò chuyện của chúng ta, tôi nhận thức được điều đó đầy đủ.”
“Chà, tôi mừng là đã giúp được dù chỉ tí chút,” Mason nói. “Thế đấy, theo tôi hiểu, đây là bà Kempton?”
Bà Kempton mỉm cười, nụ cười của bà mệt mỏi và dịu dàng, “Chào ngài Mason.”
“Ngài biết chuyện gì đã xảy ra không?” Etna tiếp tục, thả bong bóng nước dãi vì hân hoan. “Ngài chưa kịp treo ống nói thì Hardvic đã gọi. Ông ta nói với tôi là rất muốn xin lỗi vì hồi chuông muộn màng như thế, nhưng buổi sáng ông ta rất bận, theo ý ông ta, có thông tin quan trọng đến mức sẽ làm tôi quan tâm.”
“Ồ, dĩ nhiên rồi,” Mason gật đầu.
“Vâng, rồi ông ta đề nghị tôi năm ngàn đôla để tôi xóa nhòa vụ việc, năm ngàn đôla đấy!”
“Ông đã đồng ý?” Mason hỏi, hạ thấp giọng, bởi câu chuyện diễn ra trước mặt của thân chủ Etna.
“Chả lẽ tôi giống một thằng đần ư?” Etna kêu lên. “Ngày hôm qua chắc tôi đã xóa vụ án chỉ cần với ngàn rưởi. Nói thật, thậm chí tôi còn đồng ý xóa vụ án khi đã lấy được từ ông ta lời hứa sẽ không viết thêm những bức thư buộc tội thân chủ tôi ăn cắp, nhưng đêm qua, khi đã biết điều tôi biết, không đời nào tôi chịu chấp nhận ngay đề nghị đầu tiên của họ, thậm chí nếu họ đề nghị hơn năm nghìn đôla.”
“Khá lắm,” Mason khích lệ. “Và gì sau đó?”
“Ồ, ông ta ngập ngừng hồi lâu và lập bà lập bập mãi cho đến khi tăng giá đến bảy nghìn rưỡi.”
“Còn ông?”
“Tôi từ chối.”
“Và gì tiếp theo? “
“Tiếp theo ông ta hỏi thẳng, tôi có nhận được tin tức gì từ ngài không.”
“Và ông trả lời ông ta thế nào?”
“Tôi nói sự thật với ông ta. Tôi đáp rằng có, ‘thực tế, tôi đã nhận được những tin tức xác định từ ngài Mason và ngài Mason hứa cho tôi biết nếu phát hiện được thêm gì đó mà có vẻ thú vị đối với tôi trong vụ này’.”
“Và gì nữa sau đó?”
“Sau Hardvic nói: ‘Khá lắm! Tôi cho rằng ngài Mason chẳng có quyền gì can thiệp vào vụ này. Những gì xảy ra, quỷ tha ma bắt, chẳng dính líu đến ngài ta, nhưng lưu ý đến tình huống vừa xảy ra và việc ngài ta đã can thiệp vào, và bởi nhẽ thân chủ của tôi muốn xử sự công bằng, tôi đề nghị ông hai mươi nghìn đôla. Đó là mức tối đa mà chúng tôi có thể đề nghị ông. Trong trường hợp ngược lại, chúng tôi sẽ bảo vệ đến cùng cái sự kiện: Nói đến sự nhầm lẫn vô tình của ngài Addicts, và cho rằng các tin tức do ngài ấy báo là phù hợp với hiện thực’.”
“Và ông đã xử lí thế nào?” Mason hỏi.
“Cả hai tay tôi tóm lấy đề nghị ấy,” Etna nói. “Tôi đáp là chúng tôi chấp nhận nó.”
“Hợp lí lắm,” Mason khích lệ, “tôi nghĩ chắc nhất Hershy đã nói thật và đó thực sự là đề nghị cuối cùng của họ.”
“Tôi cũng cân đo như thế. Bởi từ quan điểm pháp lí, thực sự còn phải xem xét lâu, và chắc sẽ nảy sinh vô số vấn đề. Về sự chân thành của ông ta, sự thiếu hoặc hiện diện ý đồ độc ác, hay có phải là sự nhầm lẫn vô tình hay không, và nhiều thứ khác nữa.”
“Phải, nhưng như chính ông đã nói tối qua, khi đã mở hết các con bài trước tôi,” Mason phản đối, “khi tay cự phú tắm trong tiền bạc và có khả năng thỏa mãn bất kì ý muốn kì quặc nào của mình, hạ xuống cái mức tự đi săn đuổi một phụ nữ kiếm miếng ăn bằng sức lao động và đang cố gắng tìm việc làm một chỗ nào đó, thì tự ông biết đấy, các vị bồi thẩm sẽ nhìn điều đó như thế nào.”
“Tất nhiên tôi hiểu, nhưng cái chính là Hardvic cũng biết. Tôi cho rằng chắc có thể hi vọng được đền bù lớn hơn theo phán quyết của tòa, nhưng họ cũng có thể đưa ra kháng cáo, vụ việc hẳn sẽ được chuyển sang một tòa án mới và… cuối cùng, chúng tôi thoả mãn với hai mươi ngàn đôla. Đúng không, Jozephine?”
Bà Kempton mỉm nụ cười nhẫn nhục mệt mỏi của mình, trong lúc đó bà nhìn Mason chứ không phải luật sư của mình.
“Thoả mãn, thoả mãn đủ,” bà đồng tình.
“Tôi cho rằng ngài cần biết,” Etna nói, “tôi đưa quyết toán đòi Jozephine năm ngàn đôla, còn mười lăm ngàn giữ lại cho bà.”
“Tuyệt lắm,” Mason ủng hộ.
“Và từ số mười lăm ngàn ấy một phần nào đó tôi muốn trả cho ngài,” bà Kempton nói. “Theo tôi, là tôi phải làm điều đó. Nếu như không có ngài, thưa ngài Mason…”
Mason lắc đầu.
“Nhưng ngài đã phải làm việc nhiều khi nghiên cứu vụ này. Ngài tìm tòi trong các nhật kí, và nhờ quyết đoán của ngài…”
“Không, không, xin mời ngồi,” Mason nói với bà. “Nào chúng ta cùng lập tức chuyển ngay sang giọng điệu thân tình đi. Tôi chẳng cần một cent nào từ bất cứ ai trong hai vị. Tôi vui là các vị đã kí kết được một giao kèo có lợi. Tôi cho rằng đó là công lao luật sư của bà. Tôi đồng ý với ông Etna rằng dù các vị cũng có thể tính đến nhiều hơn theo phán quyết của các bồi thẩm, nhưng nếu như các vị kéo Addicts ra tòa, ông ta sẽ chiến đấu đến cùng - cho đến các ngạch tòa án cao nhất. Cuối cùng, ông ta sợ nhất là bị cười nhạo trên báo chí - như một gã nhà giàu không cho một phụ nữ dung dị tìm kiếm cách để sống.”
“Tôi cũng nghĩ thế,” Etna nói.
“Còn bây giờ,” Mason tiếp tục, “cả bà cũng có thể làm được gì đó cho tôi, bà Kempton ạ.”
“Bất cứ điều gì, thưa ông.”
“Tôi cần biết toàn bộ những gì trong khả năng bà biết về Helen Cadmus.”
“Ồ… cô ấy hơi… tôi không biết diễn đạt bằng lời điều đó như thế nào…”
“Không sao, bà cứ kể như bà có thể. Nếu tôi hiểu đúng, cô ấy có hơi kì quặc?”
“Trong cuộc đời cô ấy có một tấn kịch tình cảm đáng sợ nào đó, và tôi tin chắc điều đó.”
“Bà làm việc với cô ấy lâu không?”
“Chừng hai năm.”
“Và bà bị sa thải khá nhanh sau khi cô ấy biến mất?”
“Sau hai ngày.”
“Sự sa thải bà, theo bà có một chút gì đó gắn với Helen Cadmus hoặc với sự biến mất của cô ấy không?”
Bà Kemptom lắc đầu, “Ông ta đuổi tôi vì tội trộm cắp.”
“Hãy cố nhớ lại kĩ hơn xem,” Mason nói. “Nào, chúng ta cùng thử làm sáng tỏ vấn đề này nhé. Rốt cuộc có phải sự trùng hợp hoàn cảnh ngẫu nhiên việc mà…”
“Không,” bà nói, “ông Addicts đơn thuần là choáng váng khủng khiếp bởi điều đã xảy ra với Helen. Tôi có cảm giác, ông ta si mê cô ấy, và tôi còn có cảm giác rằng…”
“Đợi đã,” Mason ngắt lời bà, “bà nói, ông ta si mê Helen. Bà cho rằng giữa họ có gì đó?”
“Tôi không biết. Trước tiên là họ có quan hệ chủ và người làm thuê, còn sau thì mới đến quan hệ thân tình. Nhưng tôi không nghĩ… Benjamin Addicts không phải là người dễ thể hiện cảm xúc của mình một cách công khai.”
“Thôi được, vậy đầu tiên ta nói về Helen đã.”
“Helen rất đẹp và cô biết về điều đó. Cô ấy rất hãnh diện về hình thể của mình. Cô ấy thích chụp ảnh và tự ngắm mình trong gương. Tôi thì tôi biết rõ lắm. Trong phòng cô ấy có chiếc gương lớn, và mấy lần tôi nhìn thấy cô ấy… nói chung, cô ấy tự hào về thân thể mình.”
“Thế bà có thể nói gì về chiếc gương ấy?” Mason hỏi lại.
“Cô ấy thường hay đứng trước gương và ngắm nghía bản thân.”
“Thế từ đâu mà bà biết?”
“Thỉnh thoảng tôi mở cửa vào phòng cô ấy, và tôi bắt gặp cô đứng trước nó.”
“Bà muốn nói rằng cô ấy thích ăn vận tô điểm và ngắm nghía bản thân của mình trong gương?”
“Toàn bộ áo quần của cô ấy có kích cỡ không lớn hơn chiếc tem thư,” bà Kempton cười mỉm.
“Cô ấy lõa thể?” Mason hỏi.
“Không, không trần truồng. Nhưng các bộ đồ tắm của cô… Cô ấy thích lấy hai hoặc ba mẩu vải vuông và đính chúng lên người sao cho chúng biến thành chiếc áo tắm yêu kiều. Tất nhiên, sẽ chẳng ai mặc chúng mà tắm, mà mang chúng cũng chẳng thể lâu được.”
“Thế cô ấy mặc chúng trên tàu buồm chứ?”
“Thỉnh thoảng.”
“Và trước những người lạ?”
“Ồ, ít ra, trước những ai cô ấy quen. Cô ấy không… không, đúng hơn thì tôi muốn diễn đạt thế này - tính khiêm tốn quá đỗi không phải là đặc trưng của Helen. Là một cô gái không định kiến và rất thích tắm nắng. Cô có thân hình tuyệt vời, tôi chưa được bắt gặp cái gì tương tự. Cô tắm nắng mãi cho đến khi được phủ một lớp rám nắng đều, màu đồng thau.”
“Dĩ nhiên, nếu không tính vết bộ đồ tắm chứ?”
“Đó chính là điều làm cô băn khoăn nhất: Làm sao không còn lại những vệt trắng trên thân thể. Không, ngài Mason ạ, trên mái tàu, cô ấy có một chỗ nơi cô thường tắm nắng, và cô tắm khoả thân hoàn toàn. Cô ấy muốn có lớp rám đều khắp toàn cơ thể. Tôi thậm chí còn nghĩ rằng cô ấy tự hào về sự rám nắng của mình hơn so với hình… với hình thể của mình. Mà thể hình của cô thì hoàn toàn ổn, mọi thứ đều hoàn hảo.”
“Bà có thấy lạ lùng, khi một cô gái như thế lại tự kết liễu đời mình không?”
“Tôi đã ở trên tàu.”
“Trên chính con tàu buồm đó?”
“Vâng.”
“Tôi thực muốn biết về điều đó chi tiết hơn. Bà có thể kể gì cho tôi không?”
“Tôi sẽ kể hết với ngài tất cả những gì tôi nhớ. Ông Addicts quyết định đi Catalina. Ông luôn mang theo Helen và cũng thường xuyên đem theo cả tôi trong các chuyến du lịch.”
“Ai quán xuyến việc nhà khi không có bà?”
“Chỗ chúng tôi có cả một biên chế người phục vụ đến vào ban ngày. Tôi thực hiện việc giám sát chung và chỉ đạo họ. Ngoài ra, tôi theo dõi trật tự trên tàu, và hãy tin tôi, ngài Mason ạ, công việc không phải thuộc loại nhẹ nhàng đâu, thậm chí là trên tàu Anh mà tất cả thủy thủ của thế gian đã kì cọ bóng loáng bên ngoài. Nhưng bên trong ấy mà, trong các khoang, và…, nói ngắn gọn là: rửa ráy, đổ gạt tàn, quét rác tồn lại trong khoang chung sau tiệc nhậu, đầu mẩu thuốc lá, chai wishky rỗng và đại loại như vậy. Đó là công việc nặng nhọc.”
“Có ai giúp bà không?”
“Không, tôi tự xoay xở với chuyện ấy. Ngài hiểu rằng, trên một con tàu buồm lớn thì vẫn không nhiều chỗ lắm và không có khả năng lấy lên tàu cơ số lớn những người phục vụ, đặc biệt là phụ nữ. Đàn ông có thể ngủ cùng với nhau trong một chỗ, nhưng với phụ nữ lại khác. Mỗi người trong chúng tôi phải có ngăn riêng.”
“Thôi được, giờ ta quay lại các sự kiện ngày hôm ấy.”
“Ông Addicts quyết định đi Catalina. Ông ra các chỉ thị cần thiết qua điện thoại, và con tàu đã sẵn sàng. Ông định rời bến vào hai giờ trưa, nhưng ông bị giữ lại bởi những việc khẩn cấp nào đó bất chợt nảy sinh, và ông không thể đến tàu trước năm giờ. Nhưng vào thời gian đó bắt đầu có những trận bão khủng khiếp và đối với những tàu nhỏ người ta đã treo biển cảnh báo bão. Mặc dù thế, ông Addicts vẫn ra lệnh tiến ra biển.”
“Chuyện gì xảy ra sau đó?”
“Ồ, bắt đầu trận bão biển thực sự. Rốt cuộc chúng tôi đành cho thuyền buồm neo tại chỗ và chờ bão qua. Chúng tôi đã không thể đến được Catalina trước sáng ngày hôm sau.”
“Bây giờ là câu hỏi: Bà đi xe đến tàu buồm chứ? “
“Vâng.”
“Bà đến đó với ông Addicts?”
“Vâng.”
“Và Helen đi đến cùng với các vị?”
“Không, cô ấy đi trước… mà tôi không biết chính xác nữa, áng chừng một giờ trước đó. Cô ấy đến trên chiếc xe thể thao mui trần và lên tàu một mình. Cô ấy cần đánh máy gì đó. Chính đó là điều trước hết gây ra sự chậm trễ. Nảy sinh những vấn đề không thể trì hoãn, và ông Addicts đọc cho cô ấy cả một đống giấy tờ, tôi có cảm giác, vấn đề nói về những hợp đồng nào đó và những bức thư mật kèm theo chúng.”
“Hãy tiếp đi.”
“Cô ấy đi lên tàu. Ông Addics lưu lại để chuẩn bị thêm những tài liệu gì đó nữa, sau đó chúng tôi đã đi cùng nhau.”
“Trên tàu có những người lạ không?”
“Không. Chúng tôi định lấy lên tàu mấy người nữa ở Catalina, nhưng khi rời bến trên tàu chỉ có thủy thủ đoàn, Helen và tôi.”
“Bà trông thấy Helen lần cuối vào lúc nào?”
“Vào ngày… xin đợi cho một chút… tôi không nhìn thấy cô ấy. Trên đường đi đến đó, ông Addicts quyết định sửa chữa gì đó trong thư hoặc hợp đồng, hay là gì ấy, ông đã đưa cho cô ta, khi chúng tôi vừa lên tàu, ông ta đi thẳng đến ngăn buồng cô ấy. Ông đọc chính tả cho cô trong vòng… tôi không biết chính xác… chừng nửa giờ.
“Sao bà biết là ông ta đọc chính tả gì đó?”
“Tôi nghe thấy giọng ông ta. Buồng Helen nằm sát cạnh buồng tôi. Chúng được nối liền bằng phòng tắm. Tôi nhớ lại, khi tôi đi rửa mặt, và nghe tiếng ông Addicts đọc. Rõ ràng, ông ta không tin vào ghi chép tốc kí, mà đọc thẳng trên máy chữ, bởi vì tôi nghe ông đọc, còn Helen gõ máy chữ.
“Gì xảy ra sau đó?”
“Ở đấy có cảng và vũng tàu bên ngoài. Chúng tôi rời đi, nhưng trên biển sóng lớn khủng khiếp, và ông Addicts ra lệnh chờ ở vũng tàu ngoài, cho đến khi gió lặng và biển yên lại. Nhưng nó không chịu yên cho. Ông Addicts gọi cho bạn bè ông tại Catalina. Những người kia không thể chờ thêm. Con tàu buồm của ông Addicts là con tàu biển lớn mà trên đó có thể tiến hành thậm chí cả một cuộc chu du vòng quanh thế giới, vậy nên ông ấy vẫn quyết định ra khơi và đi với tốc độ trung bình.”
“Ông ta đọc bao lâu?”
“Tôi cho rằng cho đến lúc độ lắc lư của tàu còn cho phép Helen đánh máy. Điều đó thật khủng khiếp.”
“Bà có nghe ông ta đọc sau khi tàu đã ở ngoài khơi không?”
“Ồ, có.”
“Và việc đó tiếp diễn lâu không?”
“Tôi không thể nói với ngài. Tôi là một thủy thủ không ra gì. Tôi bỏ đi ngủ.”
“Ngủ ư?” Mason hỏi lại.
“Vâng. Tôi có những viên thuốc mà tôi thường uống khi sóng lắc mạnh, và chúng giúp rất tốt, nhưng do đó mà rất buồn ngủ… Tôi…”
“Bà không ăn bữa tối hôm ấy?”
“Ăn tối ư? Trời ơi, tất nhiên là không rồi! Tôi cảm thấy mình rất tồi tệ, nhưng sau khi thuốc tác động, tôi đi ngủ, và còn nghĩ rằng sẽ tỉnh giấc trước nửa đêm. Thời tiết vẫn tồi tệ như cũ. Tôi uống thêm một viên và thiếp đi, và áng chừng… chính xác tôi không thể nói… khoảng bảy hoặc tám giờ sáng tỉnh dậy và thấy rằng mặt biển bình lặng. Vào thời điểm ấy chúng tôi đã ở gần đảo.”
“Và cái gì sau đó?”
“Ngay sau đó chính là lúc chúng tôi phát hiện ra rằng Helen biến mất. Ông Addicts đi xuống ngăn của cô ấy và… tôi cho rằng, những gì còn lại thì ngài đã biết rồi. Giường cô ấy còn chưa trải ra.”
“Sóng có thể vô tình cuốn cô ấy khỏi thành tàu không?” Mason hỏi.
“Vâng, tất nhiên, có thể.”
“Có khả năng cô ấy đi lên boong tàu không?”
“Cô ấy có thể… Nhưng bão lớn và khi chúng tôi chưa neo tại chỗ, sóng lắc dữ lắm. Tôi thì ở phía dưới, trong ngăn của mình, nhưng sau đó các thủy thủ đã kể lại với tôi. Tôi nghĩ rằng sóng quất lên boong tàu. Trong eo biển nói chung là sóng mạnh.”
“Được rồi,” Mason nói, “à, Helen viết nhật kí. Bà biết về điều đó không?”
“Biết.”
“Vậy thì,” Mason nói, “tôi có bốn quyển nhật kí. Quyển thứ năm bị mất. Helen đã phải bắt đầu nó chừng hai tuần trước khi biến mất. Tức quyển thứ tư kết thúc chính xác vào hai tuần trước cái chết của Helen. Bà cho là thế nào, cô ấy có thể bỏ viết nhật kí không?”
“Không, tôi tuyệt đối tin chắc là cô ấy không bỏ viết. Cô ấy có một cái túi, và cô thường mang nhật kí theo người. Tôi nhớ, đã có lần tôi định khuyên cô ấy tỉnh trí lại.”
“Nhưng tại sao? Có gì xấu trong việc cô ấy viết nhật kí?”
“Không, chả có gì như thế cả, nếu con người đơn thuần chỉ ghi lại ngắn gọn họ từng ở đâu, đã làm gì hoặc gì đó dưới dạng như thế. Nhưng Helen say nhật kí của mình đến nỗi cô ấy phí cho nó hàng nhiều giờ liền. Nhiều giờ mà cô ấy có thể sử dụng hợp lí hơn. Ví dụ, tiếp xúc với những người khác.”
“Đó là điều tôi đặc biệt quan tâm đấy,” Mason nói, “và điều đó tôi muốn biết rõ hơn. Ai là bạn của cô ấy?”
“Ngài Mason ạ, tôi có cảm giác cô ấy không có bạn.”
“Thế thì cô ấy để ý kĩ lưỡng về vẻ bề ngoài của mình - đạt cho tới độ rám nắng tuyệt hảo ấy để làm gì?”
“Cô ấy là người hiếu danh. Muốn đến Hollywood làm diễn viên và nghĩ rằng sớm hay muộn cũng sẽ xuất hiện khả năng ấy nhờ các mốỉ quen biết của ông Addicts.”
“Addicts có những người quen ở Hollywood?”
“Không, không có, thế mới là chuyện. Tất nhiên, nhờ địa vị của mình, hẳn ông ấy hoàn toàn có thế móc nối ở đấy các cuộc làm quen, nhưng vấn đề là ở chỗ, ông Addicts… Tôi thực không muốn bàn luận về chủ cũ của mình, ngài Mason ạ, nhưng ông Addicts là người không quảng giao. Tôi nghĩ rằng, ảnh hưởng cực kì mạnh đến cách sống của ông ấy là… tôi cho rằng, ngài đã rõ chuyện gì xẩy ra với ông ta rồi chứ?”
“Và cái gì đã xảy ra với ông ta vậy?”
“Ông ta đã giết người.”
“Ở đâu?”
“Đâu đó ở nước ngoài. Hình như ở Australia.”
“Ông ta đã bị kết án chứ?”
“Vâng. Tôi chỉ biết chính xác việc ông Addicts đã giết người và ông ta rất gắn bó với em trai mình, và có vẻ ông Addicts… Ồ, nếu ngài quan tâm đến ý kiến của tôi… ông ta sợ.”
“Sợ gì?”
“Sợ chính bản thân. Sợ kiểu như lời nguyền của gia đình, ở ông ta có gì đó dường như là tố chất thiên về giết người, cũng như ở em trai của ông ta. Tôi nghĩ, ông ta có lí giải bằng cách nào đó.”
“Và vì thế ông ta mới thử nghiệm với lũ khỉ?”
“Vâng, chủ yếu với đười ươi. Ông ta nói rằng đười ươi gần gũi nhất với con người về các đặc điểm tâm lí, vượn thì quá thân thiện, vì thế chính đười ươi làm ông quan tâm.”
“Và ông ta nhốt chúng ở trong cũi?”
“Tất nhiên, các cũi dành cho chúng rất vững, bởi vì…”
“Chúng có người huấn luyện riêng?”
“Có mấy người huấn luyện thú và một nhà tâm lí học, người…”
“Và tất cả những người này sống ở đâu? Ai chuẩn bị thức ăn cho họ?”
“Họ sống ở nhà họ. Còn làm việc thì trong cánh gà cách biệt của tòa nhà ngoảnh mặt ra phía khác. Họ đến đó và rời đi khi nào họ cho là cần. Họ bị cấm một cách nghiêm khắc đi ra khu vườn vây quanh biệt thự. Họ có thể đi vào tòa nhà chính qua một hành lang, nhưng chỉ khi họ được gọi.”
“Ban đêm ai theo dõi lũ đười ươi?”
“Không ai cả. Chúng bị nhốt trong các cũi kim loại đáng tin cậy.”
“Thế nhỡ ban đêm xảy ra hỏa hoạn?”
“Về điều đó nghĩ đến cũng đã ghê sợ rồi. Nhưng nếu đã đến cơ sự ấy, ngài thử nghĩ sẽ là gì, nếu hỏa hoạn xảy ra ban ngày. Không thể chỉ đơn thuần mở cũi nhốt lũ đười ươi và nói: ‘Nào, hãy rời khỏi đây đi’”
“Những con đười ươi ấy dữ lắm à?” nheo mắt, Mason hỏi.
“Theo tôi, rất dữ. Tôi chỉ đùa với một con, con bé nhất. Nó quý tôi. Một số trong lũ chúng xử sự tốt với mọi người, còn một số thì không… Các cuộc thử nghiệm riêng biệt được tiến hành chỉ cốt đẩy chúng đến điên loạn. Chúng được luyện lấy thức ăn từ hòm khi chuông vang lên. Vào những lúc khác chúng nhận được những cú điện giật nếu cố mở hòm ra. Sau đó người luyện thú thay đổi toàn bộ các tín hiệu, họ giải thích điều này là… như ‘sự mất định hướng’. Tôi không thích điều đó. Và Helen cũng vậy.”
“Thôi được,” Mason kết luận, “dù đằng ấy có gì đi nữa, nhưng tôi quan tâm nhất là điều bà báo về cuốn nhật kí. Xin cảm ơn nhiều.”
“Helen là người rất kín đáo, ngài Mason ạ,” bà Kempton nói. “Cô ấy có tính kiêu hãnh cực lớn. Vì nó cô sẵn sàng hi sinh tất cả. Trong quá khứ cô có một mối tình bất hạnh.”
“Cô ấy kể điều đó với bà ư? “
“Quỷ thần ôi, tất nhiên là không rồi. Mà cũng có cần thiết thế đâu, mọi sự cũng sáng tỏ như ban ngày.”
“Điều đó thể hiện ở đâu?”
“Cô ấy, rõ ràng đã say đắm ai đó mà không được đáp trả, người… đôi khi ở tôi thoáng qua ý nghĩ rằng đó là người thuộc tầng lớp thượng lưu, kẻ cho rằng cô không xứng đôi phải lứa với anh ta. Và Helen dường như hiến cả cuộc đời mình nhằm chứng minh cho anh ta rằng cô tự mình có thể đạt được thành công trong cuộc đời, còn điều duy nhất trong đó hẳn làm cô thực sự có thể thành đạt, ấy là… gì đó kiểu như đóng phim. Cô ấy thực sự xinh đẹp.”
“Giống như bà đúng,” Mason nói, “tôi trông thấy mấy cái ảnh của cô ấy. Bà có biết ai chụp cho cô ấy không?”
“Có lẽ là ông Addicts. Ông ta liên tục bấm chụp tất cả, và nói chung, ông ta chụp được các bức ảnh khá đẹp.”
“Cả trên tàu ông ta cũng có máy ảnh à?”
“Cả trên tàu, cả ở nhà đều có máy ảnh, và ở đâu mà thiếu chúng cơ chứ. Ông ta có vô số máy đủ mọi nhãn hiệu.”
“Thế về mối tình bất thành của Helen, từ đâu bà có thông tin như vậy?”
“Điều đó thì đơn giản như hai nhân hai ấy mà. Cô ấy là một cô gái bình thường, khả ái, nhưng chả thích thú gì hướng đến cuộc sống xã hội. Cô ấy làm việc, viết nhật kí, tắm nắng. Thậm chí cô ấy có cả đèn thạch anh chuyên dùng cho những ngày mưa mù mịt.”
“Và đó là toàn bộ cuộc sống của cô ấy?’”
“Vâng, và công việc. Tất nhiên, cô ấy không có những giờ làm việc xác định. Cô ấy luôn luôn phải sẵn sàng cho mọi trường hợp, nếu bỗng dưng người ta cần đến cô, và lẽ dĩ nhiên, cô tháp tùng ông Addicts, dù ông ta có đi đâu chăng nữa.”
“Và điều đó thường xuyên xảy ra không?”
“Vâng. Chỗ ông ta, trên mỏ than, bao giờ cũng sẵn nhiều chuyện xảy ra. Người ta gọi điện thoại cho ông về chuyện hầm mỏ của ông hoặc gì đó nữa, và ông ta bật đi ngay, vứt đồ đạc lên xe, khởi hành tức khắc, đôi khi cùng Hershy, đôi khi cùng Fallon, đôi khi một mình, tất nhiên nếu không tính Helen. Cô ấy tháp tùng ông ta trong tất cả các chuyến đi.”
“Cuối cùng cho phép hỏi bà một câu nữa. Bà có cảm thấy có gì kì quặc trong cái chết của Helen hay không?”
“Tất nhiên rồi.”
“Tôi có ý nói: Bà cái cảm giác là cô ấy không thể đi tự tử?”
“Tức cô ấy ngẫu nhiên bị cuốn ra khỏi thành tàu ấy à?”
“Tôi mong bà trả lời câu hỏi của tôi,” Mason nài nỉ.
“Ngài Mason ạ,” bà đáp, “tôi không bao giờ nói điều gì có thể đẩy ai đó vào tình trạng khó xử. Tôi biết quá rõ, các tin đồn bắt đầu lan toả như thế nào và chúng có thể đầu độc ai đó suốt cả cuộc đời, nhưng… vào chỗ cảnh sát hẳn tôi không để vụ việc đơn giản như thế.”
“Tại sao?”
“Tại vì… vì tôi tin chắc, Helen không thể nào tự tử, và tôi biết chắc có ai đó đã lấy mất nhật kí của cô và vứt ra ngoài thành tàu.
“Sao bà biết điều đó?”
“Tại vì nhật kí của cô ấy bị mất, mà tôi lại biết chính xác là nó luôn luôn ở bên cô.”
“Do đâu bà biết nó bị mất?”
“Sau khi tôi có việc phải ở trong ngăn buồng Helen - để thu dọn và gom nhặt đồ đạc của cô ấy cho nhân viên thừa hành của tòa án. Chúng tôi cùng đến đó và xem xét mọi thứ rất kĩ lưỡng. Ông ta xếp toàn bộ quần áo và vật dụng cá nhân vào một hộp, còn sách vở vào hộp khác.
“Cô ấy còn họ hàng không?”
“Không ai có thể biết gì về cô ấy, tỉ như cô ấy xuất thân thế nào và tương tự.
“Natan Fallon nói lấp lửng rằng ông ta là họ hàng xa của cô ấy,” Mason nói.
“Natan Fallon ư?” bà Kempton kinh ngạc kêu lên.
Mason gật đầu.
“Ôi, cô ấy căm thù gã thậm tệ. Đúng hơn, gã là họ hàng không phải đối với Helen, mà là đối với cái lũ khỉ trong các cũi kia.”
“Thế bà không cảm thấy rằng họ có thể đã quen nhau trước khi cô ấy nhận chỗ này và…”
“Ngài muốn nói rằng cô ấy thu xếp được chỗ làm nhờ gã?”
“Phải.”
“Trời ơi, dĩ nhiên là không rồi. Cô ấy căm thù NatanFallon.”
“Thế bà có thái độ thế nào với ông ta?”
“Tôi cho rằng không nên thù hận ai cả.”
“Và bà không thích ông ta?”
“Dĩ nhiên, không.”
“Fallon có theo đuổi…”
“Gã có cố theo đuổi cô ấy không ư? Tất nhiên là có. Thoạt đầu gã dính lấy cô, cho đến khi cô ấy đặt gã vào đúng chỗ bằng cách quyết liệt nhất. Gã là một trong số những kẻ lượn lờ xung quanh ta, cố vô tình chạm vào ta, chạm khuỷu tay, áp vào cho gần hơn. Thoạt đầu gã sẽ đụng vào tay ta, sau đó sẽ vỗ lên vai, còn sau nữa sẽ tóm lấy đầu gối. Lúc thuận lợi gã sẽ lập tức ôm lấy ta ngay. Tay gã không biết sự bình yên. Gã thô bỉ… thế nào ấy. Đôi khi muốn nhổ vào mặt gã.”
“Biết sao được, tôi cho rằng từ bà tôi đã biết được tất cả những gì tôi muốn,” Mason nói, “bà đã làm tôi chú ý hết sức khi kể về cuốn nhật kí bị mất.”
“Điều đó cũng làm tôi rất kinh ngạc. Cô ấy chắc hẳn không thể nhảy ra khỏi thành tàu với nó.”
“Thế còn gì đáng kinh ngạc nữa không?”
“Còn.”
“Chính là gì?”
“Cái tài liệu quan trọng mà cô ấy đánh máy cho ông Addicts. Điều đó làm tôi rất kinh ngạc, và tôi thường ngẫm nghĩ: Đã có chuyện gì xảy ra với nó?”
“Bà có ý nói gì?”
“Nó không có trong buồng của Helen, và tôi không nghĩ là Addicts đã cầm theo người khi rời khỏi đó. Theo tôi, cô ấy còn phải đánh máy lại nó cho kịp vào sáng hôm sau. Họ dừng công việc khi bão biển mạnh lên.”
“Thôi được, ta cứ giả sử rằng cái chết của cô ấy không phải là chuyện tự tử và đó không phải là trường hợp bất hạnh,” Mason nói.
Bà nhìn ông chằm chằm.
“Lúc ấy chỉ còn lại vụ giết người.”
“Lúc ấy chỉ còn lại vụ giết người,” Mason khẳng định.
Khuôn mặt bà vẫn giữ nguyên như cũ, hoàn toàn lãnh đạm, hai hàm răng mím chặt.
“Sao bà im lặng vậy?” Mason hỏi bà.
“Nhưng tôi có định nói gì đâu.”
Mason đứng lên và bắt tay bà, “Thôi vậy, tôi vui là đã có thể làm được chút gì đó có lợi cho bà, và vui rằng bà đã đạt được thỏa hiệp, bà Kempton ạ.”
James Etna túm lấy tay Mason và lắc nó một cách nhiệt thành, “Tôi đơn thuần không đủ sức diễn tả toàn bộ lòng biết ơn của chúng tôi đối với ngài, của tôi và của thân chủ tôi. Tôi… đơn giản là không tìm được lời để nói với ngài, điều đó quan trọng đến nhường nào đối với cả hai chúng tôi.
“Không có gì,” Mason nói, “tôi rất vui làm được điều đó vì các vị.”
“Không, không, điều đó là vô cùng hào hiệp từ phía ngài.”
“Tiện thể,” bà Kempton nói, “tôi, ngay chính tôi cũng mất đôi thứ ở đằng ấy. Ngài có thể nói giùm tôi, trong cái lọ kia đã tìm thấy những gì, tất nhiên, nếu ngài biết? Đằng ấy có chiếc hoa tai với hạt ngọc trai thế này không?”
Bà chìa cái hoa tai, và Della gật đầu đầy biểu cảm.
“Đằng ấy có một chiếc hoa tai y hệt thế này,” cô nói, “tôi nhớ rất rõ là đã chú ý đến cái cách các hạt ngọc trai kết lại thành một chùm nhỏ như thế nào.”
“Ồ, cảm ơn cô!” bà Kempton kêu lên. “Tôi thật vui mừng! Cặp hoa tai này mẹ tôi cho tôi, và tôi đã rất buồn khi một trong cái hai bị mất. Tôi…”
“Bà nói với ai về vật bị mất không?” Mason hỏi.
“Không.”
“Tại sao?”
“Tôi nghĩ… tự tôi không biết tại sao nữa. Hãy tự sống và để người khác sống với, phương châm của tôi đấy, và tôi không muốn áp dụng điều gì đó có thể gây ra những vấn đề không cần thiết.
“Bà nghĩ bà đánh mất nó?”
“Tôi biết chắc rằng tôi không làm mất, bởi cả hai chiếc hoa tai nằm trong tráp của tôi, còn khi tôi định đeo chúng, thì chỉ còn một chiếc.”
“Nghĩa là bà nghĩ rằng ai đó đã lấy nó?”
“Tôi… tôi không biết đã nghĩ gì nữa.”
“Và bà không nói gì với ai cả?”
“Không.”
“Thôi được,” Mason nói, “ít ra, nó cũng nằm trong đống lộn xộn lăn ra từ chiếc lọ. Tôi nhớ là đã trông thấy chiếc hoa tai ngọc trai, còn cô Della hoàn toàn tin chắc rằng cái hoa tai cùng cặp với cái của bà.”
“Tôi tin chắc tuyệt đối,” Della khẳng định.
“Cảm ơn hai vị vô cùng,” bà Kempton nói và tặng hai người một nụ cười niềm nở bình thản.
James Etna có vẻ không định thả tay Mason ra, “Đây là một trong những trường hợp thú vị nhất trong thực tiễn của tôi, ngài Mason ạ. Tôi hi vọng lúc nào đó trong tương lai được làm quen với ngài, nhưng không dám thậm chí là nghĩ ngài sẽ giúp tôi trong vụ việc loại như thế này… Tôi đánh giá cao điều đó.”
“Tôi vui đã có thể giúp gì đó cho ông,” Mason nói.
Họ ra khỏi văn phòng.
Della nhìn vị luật sư.
“Thế nào rồi?” cô hỏi.
“Cô bạn nhỏ bé của chúng ta lại tung ra các ảo thuật của mình,” Mason nói.
“Anh ý nói đến Số Mệnh?”
Mason gật đầu.
“Thế lần này Số Mệnh đã nghĩ ra gì thế?”
“Tôi cho rằng,” ông nói, “có một nguyên do nào đó bỗng dưng gây cho tôi quá quan tâm đến nhật kí của Helen Cadmus.”
“Biết sao được,” Della mỉm cười, “nghĩa là Số Mệnh cần anh giúp điều tốt lành cho bà Jozephine Kempton, và anh đã giúp bà. Nếu anh muốn biết ý kiến của tôi, thì tôi có thể thề rằng thù lao năm ngàn đôla có ý nghĩa không ít với ngài luật sư trẻ kia.”
“Có khả năng là cô đúng,” Mason nói, “nhưng giống như chúng ta chưa nhận được câu trả lời.”
“Nhưng tại sao không? Anh đã xem xét hết mọi nhẽ rồi mà và… tôi có cảm giác, sự biến mất của Helen Cadmus làm anh băn khoăn nghiêm trọng.”
“Phải, tôi rất băn khoăn về sự mất tích bí ẩn của Helen Cadmus.”
“Anh cho rằng đó không phải là vụ tự tử?”
“Trong đáy lòng tôi không sao rời nổi ý nghĩ,” Mason nói, “rằng đó có thể là một vụ giết người.”
“Nhưng chỉ có một người, Benjamin Addicts, là có thể giết cô ấy.”
“Hoặc anh bạn Natan Fallon của cô ấy,” Mason nói. “Đừng quên những điều về ông ta.”
“Và…” Della ngắc ngứ.
“Phải,” Mason mỉm cười nói, “hãy tiếp đi.”
Della lắc đầu.
Mason nở nụ cười rộng hơn.
“Ôi Chúa ôi,” cô nói, “tôi thực không muốn thậm chí là nghĩ đến về điều đó, nhưng khi đã bắt đầu đi điều tra một vụ án mạng, lúc ấy không được quên về người đàn bà có căn buồng thông nhau và có khả năng đi sang chỗ Helen vào bất cứ lúc nào qua phòng tắm chung và là người đã cam đoan đã uống thuốc làm bà ta ngủ suốt đêm… Trời ơi, sếp ạ, tư duy của tôi đã trở nên đơn giản và đồi trụy, tất thảy chỉ tại vì tôi làm việc cho một gã luật sư vô liêm sỉ.”
“Tư duy của cô trở nên rành mạch và lôgíc,” Mason sửa lại cho cô.
“Sếp! Nhưng anh thì không nghi ngờ bà ấy chứ?”
“Nếu có việc với vụ án mạng,” Mason nói, “phải nghi ngờ tất cả.”
“Nhưng đã rõ đó là vụ giết người hay không đâu?”
“Chưa rõ,” Mason đồng tình, “và tôi nghi ngờ rằng tôi có muốn làm rõ điều đó hay không nữa. Nhưng mà thật lạ - không hiểu sao đôi khi tôi có cảm giác là mọi người để lại sau mình một thứ gì đó kiểu ý tưởng ngoại cảm, mà có thể tự nó bay vào đầu ai đó. “
“Hoặc nếu anh tin vào thuyết thông linh,” Della đỡ lời, “thì có thể hình dung, có khả năng, Helen Cadmus, khi biết về khả năng điều tra tội phạm của anh, đang gửi cho anh xung lực nghi ngờ và có thể…
“Thôi đủ.” Moson nhếch mép cười, “hoặc tôi buộc phải đến gặp bà đồng.”
“Anh nói đúng,” Della nói nghiêm túc, “với các tình thế đã hình thành, tôi cũng hiếu kì được nghe xem bà đồng nói gì.”
“Tôi cảm thấy rằng điều đó, bằng cách nào gắn với ngoại cảm, bà đồng có thể đọc được các ý nghĩ của tôi, đánh trệch hướng tôi đi, cản trở làm những kết luận chính xác.”
“Chắc gì bà đồng có thể dẫn anh tới sự bối rối nhiều hơn so với anh gây ra cho tôi,” Della nhận xét. “Thậm chí kiến đang bò trên sống lưng tôi đây này. Mà đúng thật: có gì đó trong… tôi không biết, anh đã tự khởi đầu về chuyện đó… gì đó lạ lùng trong người đàn bà này.”
“Cô có ý nói về bà Kempton?”
“Vâng.”
“Một dạng phụ nữ khá khác thường,” Mason nói, “nhưng không đến nỗi hiếm lắm đâu, vẫn gặp họ khá thường xuyên, đặc biệt trong số các bà quản gia. Đó là những người mà do việc mất mát người thân, do li hôn hoặc vì nguyên nhân nào khác, đã mất đi ngôi nhà của chính mình, nhưng vẫn rất muốn được làm công việc gia đình. Lúc đó họ tự xin làm thuê và bắt đầu thu vén cho ngôi nhà lạ của ai đó, và khi làm việc này, họ buộc phải nén những tình cảm thực của bản thân, luôn luôn bị bao bọc bởi một bầu không khí ức chế.”
Della co ro người lại.
“Tốt nhất thì tôi đừng nghĩ về điều đó. Thậm chí tôi bị buốt cả sống lưng.”
“Đành thế,” Mason nói, “nào ta hãy ngừng suy nghĩ về điều đó và bắt tay vào việc thôi.”