Chương 7
Vào tối ấy Mason và Della lưu lại văn phòng đến khuya. Tiếng réo không dừng của tổng đài ngoài phòng tiếp khách làm họ sao nhãng khỏi công việc.
“Tôi tin là chúng ta đã tắt nó rồi mà,” Mason nhận xét.
“Nó vẫn cứ réo.” Della nói, “anh nghe thấy không?”
“Chắc là một tay lạc quan nào đó gọi,” Mason nói. “Tống đài kêu với các khoảng dừng ngắn và đã đến những năm phút. Hãy ra nghe xem ai đằng ấy đi, Della.”
“Tôi không biết ai đoán ra tận lúc này mà chúng ta vẫn còn trong văn phòng.”
“Phải, thực thế. Nhưng hãy nhớ, chuyện xảy ra với James Etna thế nào chứ? Chúng ta đã cố thử vận may… Hãy đi xem ai đấy, Della.”
Della nối mạch với tổng đài.
“Alô,” cô nói và nhíu mày. “Vâng… Ai?… tất nhiên, bà Kempton ạ.”
Cô vẫy tay gọi Mason, hướng để ông chú ý và chỉ vào điện thoại. Mason thận trọng nhấc ống nghe từ máy của mình.
Giọng bà Kempton trong ống nghe gần như điên loạn, “Tình thế khủng khiếp, mà tôi không sao gọi nổi ông Etna! Tôi không biết làm gì cả. Tôi cần bàn bạc với ai đó. Tôi cần… Tôi cần ngài Mason một cách tuyệt vọng! Tôi gọi… có ai đó phải giúp tôi với chứ! Tôi không hiểu chuyện gì đang diễn ra ở đây. Tôi đang trong một trạng thái kinh hoàng.”
“Bà đang ở đâu thế?” Della hỏi.
“Tôi ở Stounhenge, trong dinh thự Benjamin Addicts, và ở đây đang xảy ra gì đó thực quái đản.”
Mason tiếp vào câu chuyện, “Perry Mason đây, bà Kempton. Giờ hãy nói với tôi, chuyện gì đang diễn ra chỗ bà thế?”
“Chỉ không phải qua điện thoại, ngài Mason ạ. Thật là khủng khiếp! Tôi cần sự giúp đõ.”
“Tôi cho rằng bà cần gọi cảnh sát, bà Kempton.”
“Không, không, không, chỉ không phải cho cảnh sát thôi. Ít nhất, trong khi tôi chưa nói chuyện được với luật sư của tôi. Tôi cố gọi đến ông Etna, để ông ấy tìm ngài. Ngài là người duy nhất có thể giúp được tôi thôi, ngài Mason ạ. Nhờ ngài tôi có khá đủ tiền để trả công giúp đõ của ngài. Đơn giản là tôi phải gặp được ngài.”
“Bà không thể rời khỏi đó được sao?”
“Tôi không muốn… Ở đây có gì đó mà… tôi cần được bàn bạc với ngài. Tôi cần lời khuyên của ngài.”
“Làm sao mà bà có mặt ở đấy?”
“Ngài Mason, ôi xin giúp cho! Tôi không thể giải thích tất cả chuyện đó qua điện thoại, nếu như ngài đến được đây. Tôi van ngài, hãy đến đây, ngài Mason! Tôi cam đoan với ngài chưa bao giờ có gì quan trọng hơn lời cầu xin này trong đời tôi. Tôi đang phát điên.”
“Thôi được,” Mason nói. “Tôi sẽ đến. À, thế ông Addicts đang ở đâu?”
“Ngài Mason.” bà ta tiếp tục, không để ý đến cầu hỏi của ông. “Xin ngài hãy làm chính xác tất cả những gì tôi nói. Cổng chính vào biệt thự nằm trên Oliv street. Ở đấy có cảnh sát và lính gác, nhưng còn một lối vào, từ Rouz street dành cho những người làm việc với các con vật sử dụng. Cạnh cửa này không có lính gác. Ở đấy có cánh cửa nhỏ. Tôi sẽ đón ngài cạnh cửa này. Tôi nghĩ ngài cần độ mười lăm phút để đến được đây, ngài Mason ạ. Xin ngài vội lên cho, và đến càng nhanh càng tốt. Ngài có thể đi ngay không?”
“Tôi đi ngay lập tức,” Mason nói, “hãy đón tôi cạnh cửa sau. Nó ở trên Rouz street, như tôi hiểu.”
“Trên Rouz street, đối diện ngay với chỗ trên Oliv street, nơi có cái cổng sắt lớn. Đó là một căn nhà xấu xí giống với gara. Trên cửa có số 546, không có dấu hiệu gì khác. Chỉ cánh cửa ấy với số 546 hướng ra Rouz street. Hãy lại gần nó và vặn tay cầm. Tôi sẽ chờ ngài ở đấy - nếu tôi có thể và xin ngài vội lên cho.”
“Thế có thể xảy điều gì, nếu bà không đủ khả năng đón tôi?” Mason hỏi.
“Có,” bà ta đáp và bất thần gác máy.
Mason gõ ngón tay lên ống nghe, sau đó ngước nhìn Della. Cô đặt ống nghe của máy song song xuống, đi lại gần Mason và đứng cạnh.
“Cô nghĩ, người ta cắt chúng ta chứ, Della?”
“Theo tôi, bà ta vứt ống nói.”
“Đành vậy,” Mason nói, “hình như tình huống đã nóng đến đỉnh điểm.”
“Nhưng, sếp này, bà ta cần đến cái gì ở đấy nhỉ? Bà ấy đã dàn xếp ổn thỏa mọi sự với Addicts rồi cơ mà.”
“Có khả năng, bà ta có âm mưu tống tiền ông ta bằng vụ án mạng Helen Cadmus,” Mason phỏng đoán. “Cô cũng biết, bà ta là người khá lạ lùng. Bà ta đã lắng nghe vô cùng chăm chú tất cả những gì chúng ta nói về Helen Cadmus và nhật kí của cô ấy.”
“Trong trường hợp như vậy,” Della nói, “chúng ta đi thôi. Chúng ta có thể bàn bạc điều đó trên đường đi và…”
“Tại sao cô lại nói ‘chúng ta’?” Mason cắt lời cô. “Đằng ấy, giống như đã bắt đầu một vụ lộn xộn lớn…”
“Đừng có nghĩ là anh có thể thoát khỏi tôi bây giờ đâu nhé,” cô phản đối. “Tôi là hạt dẻ cứng. Đi thôi… Nào đi thôi, chúng ta cần phải gấp lên.”
Cô bay đi khắp văn phòng, tắt điện, vớ mũ chụp lên đầu, trao mũ của Mason cho ông và mở toang cửa.
“Tôi chạy trước và gọi thang máy,” cô nói và vượt qua Mason, nhón chân chạy nhanh trên hành lang dài của tòa nhà.
Khi Mason đến gần thang máy, Della đã chờ ông cạnh buồng thang máy mở sẵn.
“Khá lắm,” Mason khen cô.
Người gác đêm trực bên thang máy nhận xét, “Giống như các vị rất vội đi đâu đó.”
“Đúng thế,” Mason khẳng định.
Khi buồng thang hạ xuống tầng một, Mason kí nhanh vào cuốn sổ đánh dấu thời gian rời văn phòng.
Họ chạy đến bãi xe. Nhảy vào xe của Mason, Mason nổ máy và vẫy tay chào người phục vụ bãi xe, đi ra ngõ phố nhanh đến nỗi các lốp xe rít lên phản đốỉ.
Đến cuối ngõ, Mason hãm xe một chút - đúng đến mức để điều khiển được tay lái, và quay đột ngột sang phải ra đường phố, nhấn bàn đạp tăng tốc đến hết cỡ. Họ phóng qua ngã tư đầu tiên khi có đèn vàng sau một thoáng đèn đỏ tắt.
“Nếu chúng ta bị buộc dừng lại và giải thích với cảnh sát giao thông,” Della nói, “điều đó có thể giữ chúng ta lại lâu đấy.”
“Điều đó thì chính xác,” Mason đồng tình, “nhưng tôi có một linh cảm rằng lần này thực sự phải vội lên.”
“Thế nếu,” Della nhận xét, “chúng ta không đến kịp, lúc ấy cũng chẳng đáng đi.”
“Cũng chính xác,” Mason nói khô khan.
“Sếp, anh sao đấy, định nhận bừa lấy vụ này à?”
“Cô ngầm ý gì vậy?”
“Anh nhận bà ấy là thân chủ của mình thậm chí cả trong trường hợp nếu bà ấy… mà anh hiểu tôi có ý gì rồi chứ?”
“Phải. Tôi không biết,” Mason nói. “Trong Jozephine Kempton có gì đó lạ lùng. Tôi không biết chính là gì nữa. Khi trò chuyện với bà ta, tôi có ấn tượng rằng bà rất muốn làm rõ ta đang nghĩ gì, và đồng thời ở bà không có lấy một chút ý định nhỏ cho phép người khác nhận biết các ý nghĩ của bà. Điều đó làm nhớ đến trò chơi poker chuyên nghiệp. Ta có cảm giác là bà biết hết mọi quân bài của ta, còn về các lá bài của bà thì tuyệt đối không rõ, thêm vào đó, ta lại có nỗi e sợ mơ hồ rằng đó là những con át.”
“Anh có thể dính vào một câu chuyện tệ hại vì bà ấy, nếu hành động theo cảm hứng.”
“Đúng vậy,” Mason đồng tình. “Chính vì thế mà tôi định đánh giá tình huống trước khi tôi quyết nên tiếp nhận điều gì. Trong vụ này có cái gì đó, Della ạ, trong toàn bộ chuyện này, đánh động lòng hiếu kì của tôi.”
“Để anh biết.” Della nhận xét khô khan, “chúng ta vừa mới vượt qua dấu hiệu dừng bắt buộc.”
“Tôi biết,” Mason đáp, “nhưng trên đại lộ chả có xe nào, và tôi không xem là cần phải thực thi cái hình thức vớ vẩn ấy,”
Della ngả người ra lưng ghế, tì một chân vào lá chắn nhằm đảm bảo an toàn cho mình tránh sự hãm phanh đột ngột, và nói, “Tôi cảm thấy, nhận xét cuối thể hiện hoàn toàn chính xác tính cách của anh đấy.”
Khi họ lại gần Stounhenge, Mason nói, “Có lẽ tôi nên quành một vòng nhanh quanh biệt thự từ hướng cổng chính.”
“Gã vệ sĩ sẽ nhận ra chúng ta.”
“Tôi không định dừng lại trước cổng. Tôi chỉ đi ngang qua thôi, đủ chậm để có cái nhìn bao quát sơ qua và làm rõ mặt tiền ngôi biệt thự ra sao.”
“Nhưng từ ngoài đường có thấy nó đâu, lẽ nào không phải thế?”
“Tôi cảm thấy vẫn nên ngó qua.”
Vị luật sư đi trên Oliv street cố giảm nhẹ phanh, khi đến ngang hai cột đá bề thế.
Cánh cổng sắt nặng nề đóng chặt.
“Sao tôi không thấy gã vệ sĩ nào cả.” Della nói.
“Nếu tôi dừng xe, tôi nghĩ, chắc gã sẽ lập tức vọt ra ngay đấy,” Mason mỉa mai và tăng tốc, quay ra lối rẽ bên phải.
Đi trên đường ngách, họ đến cái điểm mà từ đó có thể quan sát rõ toàn bộ phần mái biệt thự phía bắc.
“Đằng ấy đèn sáng rực, cứ như trong nhà thổ vậy,” Della nhận xét.
Mason hãm phanh.
“Hàng rào mắt cáo bằng lưới kim loại bền vững cao mười foot,” ông nói. “Trên chóp nó tỏa hình chữ Y và hai bên kéo căng dây thép gai. Điều đó nghĩa là dây thép lơ lửng phía trên mặt đất và cả từ bên này lẫn bên kia đều không thể trèo qua nổi. Ông Addicts khá là lo lắng cho sự bất khả xâm phạm đối với sở hữu riêng của mình.”
“Thế nếu ông ta… sếp, xem kìa! Nhìn phía kia!”
“Phía nào?”
“Cửa sổ trên của mặt tiền kia kìa. Anh thấy một người không? Anh ta đang trèo qua cửa số và…”
“Đó không phải là người,” Mason nói, “đó là đười ươi.”
Sững sờ, họ ngồi và im lặng theo dõi cái bóng của con đười ươi khổng lồ vẽ trên nền cửa số chiếu sáng. Con vật vươn cánh tay dài, dường như sờ soạng gì đó, rồi nhảy xuống và lẩn mất giữa những cành lá sẫm màu của tán cây rộng nhánh. Sau một thoáng con đười ươi lại xuất hiện, trườn xuống dưới theo các nhánh cây, và chưa qua mấy giây, đèn pha đã dội ánh sáng chói rực cả khu vực, còi báo động rền rĩ xáo động, còn lũ chó sặc sụa tru lên điên loạn.
“Có gì đằng ấy thế nhỉ?” Della ngạc nhiên.
“Rõ ràng, con đười ươi nhảy xuống đất,” Mason nói, “và cắt ngang tia vô hình đưa thiết bị điện vào hoạt động thắp sáng đèn pha, bật còi báo động và thả lũ chó săn ra ngoài. Chúng ta xem điều gì sẽ xảy ra bây giờ.”
Một hoặc hai giây ông ngồi bất động, dõi theo sự việc đang diễn ra rồi bất thần nổ máy.
Della ngạc nhiên nhìn ông.
“Sếp, tôi hi vọng giờ đây anh không định cố lọt vào nhà nữa chứ?”
“Chính tôi đang định làm việc đó đây.”
“Chúng ta ở lại đây và đợi các sự kiện diễn biến tiếp có hay hơn không?”
“Biết đâu sẽ hay hơn, nếu chúng ta có mặt ở đấy trước khi một trong số các sự kiện ấy diễn ra,” Mason nói.
Ông quành sang Rouz street.
Dãy hàng rào cao với dây thép gai lùi khỏi đường để lại khoảng không dành cho bãi xe rải bê tông phía trước gara. Ngôi nhà hai tầng nằm cách con đường khoảng hai chục foot, nên phía trước nó có đủ chỗ để đánh xe vào hoặc quay đầu xe.
Trên cửa ngôi nhà hai tầng thấy rất rõ các con số 546. Mason dừng xe ngay trước cửa, nhảy ra và bấm nút chuông. Nghe rõ bên trong vang lên tiếng chuông điện, nhưng vô ích - không một dấu hiệu nhỏ nhất của việc có ai đó chú ý đến hồi chuông.
“Sếp à,” Della nói vẻ lo âu, “bà ấy hứa là sẽ đón anh ở đây. Mà khi đã không đón, thì ở đây ta chẳng làm gì nổi. Chúng ta có thể gọi cảnh sát hoặc…”
Mason lắc đầu và lại nhấn chuông.
“Trong ấy có gì đó xảy ra,” ông nói, “cái gì đó đã ngăn cản bà ấy. Ít nhất, một trong số đười ươi khổng lồ đã thoát ra ngoài.”
“Sếp ơi, chúng có thể xé anh ra từng mảnh. Anh hãy nhớ con đười ươi ấy to như thế nào trên nền cửa sổ chiếu sáng và sau nó đã nhảy thế nào để tóm lấy cành cây…”
Cô rùng mình im bặt.
“Hiểu cả rồi,” Mason nói, “vì thế nên kiến bò trên da cô, nhưng trong ấy nhất định là có chuyện. Giọng bà Kempton nghe thấy nỗi khiếp hãi đích thực.”
“Thì đấy, hoàn toàn rõ ràng, không ai phản ứng lại tiếng chuông. Có lẽ bà ấy đã đi đâu rồi cũng nên.”
Mason giật nắm đấm cửa.
“Cửa không khoá,” ông nói.
“Sếp ơi, không nên!”
“Hãy chờ trong xe,” Mason ra lệnh cho cô. “Nếu tôi không quay lại sau năm phút, hăy đi đến máy điện thoại gần nhất và gọi cảnh sát.”
“Không, không, tôi đi với anh. Tôi…
“Cô sẽ đợi trong xe,” Mason nói. “Cô có năm phút…”
“Sếp, tôi đi với anh.”
“Dù sao cô cùng không giúp gì được. Sự có mặt của cô sẽ chẳng ích lợi gì.”
“Có thể có và không, nhưng dù thế vẫn tốt hơn so với ngồi trong xe và chờ, trong khi…”
“Không,” Mason cắt lời cô. “Cô sẽ chờ trong xe. Khi hết năm phút, nếu tôi không ra hãy gọi cảnh, đừng chờ tôi và đừng chậm trễ. Lập tức phóng xe đi tới máy điện thoại gần nhất và hãy gọi cảnh sát.”
“Nếu anh không quay lại sau năm phút, thì gọi cả một đạo quân cũng vô ích,” cô nói. “Anh hiểu điều đó cũng rõ như tôi thôi.”
“Cô sẽ chờ trong xe,” Mason nhắc lại.
“Đơn thuần anh cố giữ tôi tránh khỏi sự nguy hiểm thôi,” cô phản đối.
“Đó là mệnh lệnh,” Mason đáp và mở cửa đi vào nhà.
Không cần dài dòng, ông dập cửa lại phía sau mình. Bên trong cửa có chốt, và Mason chốt lại phòng trường hợp nếu Della bất chấp chỉ dẫn cố đi theo ông. Ở đây đọng mùi khó chịu nặng nề đặc trưng cho những nơi giam giữ súc vật. Mason có cảm tưởng ông rơi vào một chuồng thú.
Qua hành lang ngắn ông đi tới cánh cửa mở sẵn và lọt vào một phòng làm việc được trang bị những chiếc bàn viết, tủ và máy chữ. Trên tường treo khoảng một tá biểu đồ.
Mason đi cắt ngang phòng làm việc, mở cửa và phát hiện ra là đang ở trong một hành lang bê tông có cả dãy cũi kéo dài nằm dọc một bên. Ngồi trong cũi là đười ươi, vượn và các loài khỉ khác nhau. Các con vật giống như đang trong trạng thái bị kích động tột độ.
Tất cả các ngọn đèn đều bật sáng, và hành lang tràn một màu loá mắt. Tại đầu xa của hành lang ông trông thấy cửa hai cái cũi sắt lớn mở toang. Chần chừ trong một khoảnh khắc, ông bước tiếp theo hành lang, ngó thẳng trước mặt và cố đi sao cho đều bước để không biểu lộ nỗi hoảng sợ của mình trong bất kì trường hợp nào.
Trông thấy ông, lũ khỉ nhốn nháo trong cơn kích động man dại. Một con đười ươi vỗ tay khi vị luật sư đi ngang cũi của nó. Tiếng động giống như súng máy nhả đạn bất thần. Nỗ lực hết sức, Mason tiếp tục thản nhiên đi về phía trước, cố không lộ ra sự hồi hộp của mình.
Vừa lúc ông đối diện cái cũi lớn với cửa bằng những thanh thép dày, con đười ươi đang ngồi ở góc cũi xa với một tiếng gào ma quái bỗng nhảy về phía ông, đập vào các thanh thép mạnh đến nỗi sàn nhà rung lên. Sau tích tắc, cánh tay lông lá dài đã thò qua khe sắt cố tóm lấy vị luật sư. Ông bật lùi ra sau, Những ngón dày ngắn của con đười ươi tóm trượt theo áo vét của ông khi cố bấu vào, nhưng không trúng.
Mason áp sát vào tường. Con vật khổng lồ nhìn chằm chặp vào ông trong sự cuồng nộ và sau đó, bất thần thả các thanh cũi sắt, nhe nanh và bắt đầu đấm thình thịch vào ngực mình. Vẫn nép vào tường, Mason thận trọng di chuyển tiếp.
Con đười ươi lớn cố tóm ông một lần nữa, nhưng các ngón tay nó không chạm đến áo ông, cách chỉ vài tấc. Bỗng con đười ươi bỗng cười sằng sặc. Mason như bị mê hoặc cắm mắt vào thân hình đen, cái mõm đen với hai mắt ti hí dữ tợn giễu cợt và cái mồm đỏ rộng hoác của nó với hai hàm răng nhe ra ghê tởm.
“Này, bà lão,” Mason thốt ra, “ta thực không biết ngươi đơn thuần định đùa giỡn với ta và dọa một chút hay ngươi thực sự muốn tóm lấy ta và xé nát ra từng mảnh, nhưng ta sẽ không liều mạng kiểm tra điều đó đâu.”
Con đười ươi tiếp tục đấm vào ngực.
Trong chiếc cũi tiếp theo có con vật mà theo Mason, giống như hắc tinh tinh, tiếp nữa là các cũi với những loài khỉ nhỏ nào đó, còn sau rốt là hai cũi trống với cửa mở rộng.
Trong đầu Mason nảy sinh một linh cảm không lành, những con vật khổng lồ thoát khỏi cũi hoàn toàn chưa lâu và đã lọt vào dinh thự qua chính cái cửa ở cuối hành lang mà như Mason nhận thấy, không bị đóng và đang chầm chậm hé ra.
Ông liếc nhìn đồng hồ. Đã qua hơn một phút từ thời điểm ông để Della lại ngoài phố. Mason đẩy cánh cửa. Như ông dự đoán, nó dẫn thẳng vào tòa nhà chính với những tấm thảm dày trên sàn. Đèn chùm pha lê trên trần rủ xuống, và cầu thang cuốn dẫn lên tầng hai.
Mason đi chậm lại, ngẫm nghĩ có nên quay lại hay không.
“Ê!” ông hét lên.
Thậm chí chính ông cũng cảm thấy giọng mình không đủ tự tin.
Bất thần từ tầng hai vọng lại tiếng rầm rầm khủng khiếp, cả một loạt cú đập dội nhanh không thể mô tả và có cảm giác, làm rung chuyển cả nhà.
“Bà Kempton, mọi chuyện ổn chứ?” Mason kêu to.
Tiếng sầm sầm lặng đi.
“Bà Kempton!” ông lại gọi. “Này bà Kempton!”
Tiếng sầm sầm lặp lại với sức mạnh trước đó, nhưng lần này giống như là gần hơn, cạnh chính cầu thang.
Mason lao lên cầu thang, nhảy hai bậc một. Cầu thang dẫn vào hành lang trên. Nhìn kĩ đến cuối hành lang, Mason trông thấy nguồn gốc của sự ầm ĩ. Con đười ươi lớn đang treo mình, quặp cánh tay trái dài vào phía trên cánh cửa mở. Hai chân và tay còn lại đánh điên cuồng xuống nền tiền sảnh.
Nhận thấy Mason, con đười ươi thả cánh cửa, ngừng đánh trống và chạy thẳng tới vị luật sư bằng bước chạy quều quào lạ lùng.
Mason đứng như bị đóng đinh. Con đười ươi tiến lại gần hơn. Mason lo lắng ngoái nhìn lại và hiểu rằng trước khi ông kịp chạy qua một nửa cầu thang, con đười ươi sẽ đuổi kịp ông.
Mason chìa lòng bàn tay hướng về phía trước. Con đười ươi dừng lại, vươn thẳng lên và bắt đầu đấm vào ngực bằng nắm đấm mạnh đến nỗi cả hành lang đầy tiếng vọng gợi nhớ tiếng trống liên hồi kì trận.
Mason chầm chậm đi thụt lùi, bàn tay cố sờ sau mình tìm mép thanh vịn kim loại.
Con đười ươi bất thần dừng đánh vào ngực mình và ghim mắt vào Mason như mèo nhìn chuột. Tay vị luật sư bất ngờ va vào không phải thanh vịn kim loại, mà là nắm đấm cửa. Ông xoay nắm đấm. Cánh cửa không khoá, mở ra về bên trong phòng. Ông tuồn vào cửa, đóng nhanh nó và tìm một cái để chèn thì bắt gặp then cửa nặng, ông lập tức lấy nó cài vào.
Từ hành lang không vọng lại tiếng động gì cả. Mason phát hiện là đang ở trong một phòng lớn, xét theo bài trí, thì đây là buồng ngủ lẫn phòng làm việc. Từ sau bình phong lộ ra mép giường, trên giường ông nhận thấy ngay một cái chân đàn ông.
Bài trí căn phòng gồm một cái bàn viết lớn, hai cái tủ, một chiếc két tròn giống như viên đạn thần công, những giá sách và nửa tá ghế bành lớn. Trên tường treo các bức tranh và mấy tấm ảnh lồng khung.
Mason định vòng qua chiếc bàn lớn, nhưng dừng lại khi trông thấy thân hình co quắp của một người đàn bà nằm nghiêng với cái đầu ngửa ra sau trên sàn nhà. Tay trái của bà ta bóp chặt áp vào thân, tay phải với các ngón xoè, xoãi ra trên thảm.
Ánh sáng mờ dọi vào mặt người đàn bà, Mason lập tức nhận ra bà ta. Đó là bà Kempton. Mason chạy vòng qua tấm bình phong và cúi xuống chiếc giường.
Trên đó - mặt úp xuống, trong một tư thế bất tiện - một người đàn ông nằm sóng soài. Từ lưng ông ta thò ra cán con dao nhà bếp lớn. Lưõi dao xuyên vào đến tận cán. Trên tường trông rõ những tia máu, máu thẫm tấm khăn phủ giường, Mason cúi xuống thấp hơn, ông nhận thấy trên cổ người đàn ông còn một vết thương toác ra nữa. Rõ ràng chẳng cần phải thử bắt mạch - người đàn ông đã chết là không còn nghi ngờ gì cả.
Mason đi về phía bà Kempton nằm trên sàn. Ông vừa lại gần bà, thì cả căn phòng bỗng rung lên vì một cú nện mạnh khủng khiếp dội lên cánh cửa. Sau đó lặng yên trong tích tắc. Một bức tranh đóng khung treo trên tường khi lắc lư vì cú đánh, dừng yên lại chỗ cũ.
Sự im lặng chỉ kéo dài nửa giây, sau đó bất thần lại vang lên cú đập vào cửa. Lần này cánh cửa bật ra khỏi bản lề và rơi đánh rầm vào phòng.
Con đười ươi to lớn mà Mason đã thấy ở cuối hành lang, đứng bất động bên khung cửa, cắm mắt vào Mason.
Mason thử trấn an nó bằng giọng nói.
“Đợi một chút nào, cậu bé,” ông nói. “Cái chính, cậu đừng xúc động. Bình tĩnh, bình tĩnh nào!”
Con đười ươi đứng im, nhìn Mason chằm chằm. Chiếc bàn viết lớn ngăn con đười ươi trông thấy bà Kempton đang nằm sóng soài trên sàn, cũng chính nguyên nhân đó mà Mason đã không trông thấy bà khi bước vào phòng.
Thời khắc thật căng thẳng. Mason nghe tiếng đập của chính tim mình và thấy con đười ươi đang theo dõi một cách chăm chú nhất cử nhất động của ông.
“Nào, nào, bình tĩnh, cậu bé,” Mason nói.
Con đười ươi cúi về phía trước, đặt một chân lên cánh cửa bị đánh võ toang, sau đó bỗng thu chân về, dường như suy nghĩ lại. Hai chi trước dài của con vật vươn ra phía trước, con đười ươi tì nhẹ các móng tay trái vào khung cửa nát lởm chởm.
Mason cố dùng ánh mắt mong trấn tĩnh con vật dù là chỉ ít nhiều. Một thời gian nào đó cả hai đứng bất động. Mason bắt đầu nói, cố để giọng ông vang lên tự nhiên.
“Quỷ tha ma bắt ta đi, nếu ta biết phải nói gì trong tình huống này,” ông nói ngọt ngào hướng về con đười ươi. “Cậu cần gì ở ta. Ta nghi ngờ rằng nếu ta tiến về phía trước, thì có thể sẽ bị giết, thế nhưng nếu ta cố chạy trốn, thì bị giết là cái chắc. Còn đứng tại chỗ và không có quyết định gì…”
Bỗng Mason nghe giọng nói của bà Kempton từ phía sau, yếu ớt nhưng khẩn khoản.
“Đừng nhìn nó, ngài Mason,” bà nói. “Hãy cúi xuống sàn nhà và bắt đầu làm một điều gì đó, gì cũng được. Hãy lôi trong túi ra các đồng xu, dao nhíp, đồng hồ, tất cả những gì lấp lánh. Hãy bắt đầu xếp chúng thành hình thù gì đó.”
Mason, vẫn còn nhìn con đười ươi, hỏi ra sau, “Với bà mọi chuyện ổn chứ? Tôi sợ rằng bà…”
“Đừng quan tâm đến tôi, hãy làm điều tôi nói đi. Nhanh lên!”
Mason nghe thấy bà Kempton động đậy trên sàn hòng ngồi lên.
Trong túi quần bên phải của Mason có mấy đồng xu nhỏ. Ông lôi chúng ra và bắt đầu xếp ra sàn, chăm chăm cúi xuống phía trên chúng. Sau một thoáng Mason nhận thấy con đười ươi bước lên trước, và trông thấy nó chăm chăm nhìn các đồng xu được ông xếp trên sàn với vẻ cố gắng cường điệu.
Bà Kempton đã ngồi lên được, sau đó quỳ lên hai đầu gối.
“Ngài không còn gì nữa à?” bà hỏi. “Bút máy có nắp sáng? Đồng hồ? Dù là gì đó.”
Mason tháo đồng hồ đeo tay và đặt nó xuống sàn vào giữa vòng những đồng xu, nhận thấy lúc đó đã qua đúng năm phút rưỡi từ thời điểm ông bỏ Della lại ngoài cửa. Nếu cô thực hiện đúng chỉ dẫn, thì giờ đây cô đã phải đi đến chỗ điện thoại gọi cảnh sát rồi.
“Còn bây giờ,” bà Kempton nói, “hãy lùi chậm ra phía sau, đừng rời mắt khỏi các đồng xu. Đừng nhìn con đười ươi. Hãy lùi ra sau. Chậm rãi lùi ra sau đi. Khi ngài lùi, nó sẽ lại gần và cố hiểu ngài làm cái gì ở đấy. Chúng hiếu kì khủng khiếp. Tôi hi vọng, nó sẽ chợt muốn chơi với các thứ ngài bỏ lại trên sàn.”
Mason chậm rãi đứng lên.
“Đừng nhìn đười ươi,” bà Kempton báo trước. Mason tiếp tục nhìn xuống phía dưới, nhìn những đồng xu, chiếc bút máy nắp sáng loáng và chiếc đồng hồ đeo tay xếp ở trên sàn.
“Hãy tiếp tục lùi đi,” bà nói. “Chầm chậm lùi ra sau về hướng tôí.”
Mason gắng thực hiện các chỉ dẫn của bà. Bà cầm lấy tay ông, và ông cảm thấy sức nặng thân thể bà khi bà tì vào cánh tay ông để đứng thẳng lên.
Con đười ươi không rời mắt khỏi các vật bày ở trên sàn, nó cúi xuống chính xác y như Mason vừa làm trước đó.
“Nhanh lên,” bà Kempton nói. “Chỉ có điều đừng chạy đấy. Cứ mặc nó điên đầu với bài giải đó. Hãy đi nhanh lên.”
“Chuyện gì đã xảy ra?” Mason hỏi.
“Tôi không biết,” bà Kempton cắt lời ông. “Trước tiên cần thoát ra khỏi đây. Hiểm họa chết người đang đe dọa chúng ta. Con đười ươi này rất nguy hiểm. Nếu nó biết rằng chúng ta sợ nó, hoặc bỗng nó có cảm giác là chúng ta chạy trốn nó… Ôi, xin nhanh lên cho!”
“Trên giường có xác chết,” Mason nóí.
“Tôi biết,” bà đáp, “đó là Benjamin Addicts. Ông ta bị đâm.”
“Ai đâm ông ta?”
“Dừng nói chuyện đã. Hãy im lặng đi theo tôi, xin ngài đấy.”
Bà dẫn ông đi ngang qua giường vào buồng tắm.
“Lại đây, nhanh lên.”
Bà dập cửa và khoá lại, mở cánh cửa khác - ở phía đối diện buồng tắm, - dẫn vào phòng ngủ tiếp giáp với buồng tắm.
“Hãy vội lên cho,” bà nói.
Giờ đây bà chạy, vừa chỉ đường cho Mason. Mason theo sát bà.
“Thế nếu con đười ươi này…”
“Chỉ có Chúa mới biết con đười ươi nghĩ gì trong đầu,” bà Kempton nói. “Chưa biết còn có thể xảy ra điều gì nữa. Tất cả lũ đười ươi hành động hoàn toàn không thể lường trước, mà với lũ vật này người ta còn làm các thử nghiệm tâm lí nữa. Thần kinh chúng đã rệu rã hoàn toàn.”
“Nhưng vì Chúa, thế bà đã làm gì ở đây?”
“Tôi sẽ kể với ngài sau.”
Bà chạy qua phòng và đứng cạnh cửa, nghe ngóng. Sau đó bà mở cửa, thò đầu ra hành lang, ngoái nhìn nhanh các phía và thì thầm, “Giống như đường tự do. Chúng ta phải chạy qua hành lang vào phòng khách phía trước… Tốt hơn ngài nên tháo giày ra.”
Mason cởi giày và thấy rằng trong khi họ nói chuyện bà Kempton đã kịp cởi giày của bà.
“Chúng ta cần phải chạy thật nhanh,” bà nói, “nhưng đừng để chúng nghe thấy tiếng bước chân chúng ta. Nếu chỉ cần nghe thấy tiếng chân chúng ta chạy, chúng sẽ nhận ra những dấu hiệu rối loạn nào đó. Có thể đang diễn ra gì đó khủng khiếp.”
Bà lẻn ra hành lang, Mason theo sau bà. Cả hai cùng chạy theo cầu thang cuốn dẫn xuống phía dưới, vào phòng khách, mà lúc đến lần đầu ông đã ngắm nghía bài trí của dinh thự.
Bỗng Mason nghe tiếng ầm ĩ xa xa loang ra thành tiếng còi báo động rền rĩ đơn điệu và tiếng chó sủa gần như điên loạn. Trong thoáng giây, tiếng sủa đạt đỉnh điểm, rồi sau đổi sang tiếng rít đồng thanh - như tiếng rít của con chó bị ô tô húc bắn sang một bên vậy.
“Đó là gì vậy?” Mason hỏi.
“Tôi đã nói với ngài là không biết rồi,” bà Kempton nói. “Chúng ta cần phải thoát nhanh ra khỏi đây!”
Bà xuống khỏi cầu thang và chạy vào phòng khách. Mason đi ra phía cửa chính.
“Không, không, không phải ra đó,” bà Kempton cảnh báo.
Bà đi qua phòng bên cạnh vào phòng ăn, rồi từ đó sang quầy uống, sau đi ra bếp và nói, “Chúng ta đành liều thôi. Đây là lối qua khu nuôi thú. Mỗi Chúa biết, đã có con khỉ nào quay lại hay chưa thôi.”
Bà mở cánh cửa. Mason bước liền theo sau bà ra hành lang và trông thấy các cửa cũi sắt trống vẫn mở toang. Dường như, những con thú bỏ chạy giờ không có trong hành lang.
“Đi thôi,” Mason nói và chạy vượt lên trước.
“Hãy dè chừng con đười ươi kia,” bà cảnh báo và dừng lại trong tích tắc để đi giày. Mason dừng lại đột ngột đến nỗi lao bắn vào tường. Và một lần nữa, khi ông đến ngang cái cũi, con đười ươi với cú nhảy man rợ lao đến ông, đập thân vào các thanh thép. Hai bức tường trong hành lang rung lên do cú đập đáng sợ bởi cái thân khổng lồ bay vào cửa cũi.
Mason ngoái lại và thấy bà Kempton đứng chết lặng, áp sát vào tường.
Cánh tay dài lông lá của con đười ươi vươn qua các thanh chắn cũi, trong sự điên cuồng man dại cố tóm được bà, nó với tới chỉ thiếu có mấy tấc.
Trong khuôn viên lũ chó lại tuôn tiếng sủa, dường như đang xua ai đó lên cây. Chuông báo động réo không ngừng.
Mason mở cửa, ngó ra ngoài và nói, “Bây giờ thì chạy nhanh khỏi đây.”
Họ chạy ra Rouz street. Không khí ban đêm có vẻ ngọt ngào, ngây ngất sau cái mùi hôi hám đáng sợ của cái hành lang chất chặt cứng những cũi sắt.
Sau lưng họ tràn ngập ánh sáng loá mắt của vô số đèn pha soi rõ từng tấc đất lãnh địa xung quanh dinh thự. Một con chó rít lên vì đau, tiếp theo sau đó vang lên một đợt sủa dồn dập.
Mason ngoái nhìn đường phố. Bởi đồng hồ ông đã bỏ lại cho con đười ươi đùa giõn, ông không có khái niệm, đã trôi qua bao nhiêu thời gian từ lúc Della đi gọi cảnh sát.
“Chúng ta có thể đụng phải ai đó,” ông nói, “vậy nên hãy xử sự sao cho giống như chúng ta là những người qua đường bị hoảng hốt bởi sự hỗn loạn này. Chúng ta sẽ đi nhanh, nhưng cố không chuyển thành chạy. Còn bây giờ hãy kể cho tôi, chuyện gì đã xảy ra.”
“Ôi” bà nói, “đó là cả chuyện dài. Có một vấn đề mà tôi phải nhanh chóng tư vấn với luật sư và…”
“Ai giết Addicts?” Mason nóng nảy ngắt lời bà.
Bà tăng nhanh nhịp bước.
“Nào hãy đợi!” Mason bảo. “Ai đã giết…?”
Ông chưa kịp nói hết, bởi vì từ lối rẽ phóng ra một chiếc xe cảnh sát, hai ngọn đèn đỏ nhấp nháy phóng ra hai luồng sáng đỏ màu máu.
Các đèn pha giật từ màn đêm ra hai cái bóng của Mason và bà Kempton, và ngay đó ngọn đèn pha cực mạnh rưới lên họ một luồng sáng loá mắt.
Còi báo động vang lên.
Bà Kempton với vẻ lo lắng nhìn Mason.
“Hãy đứng bình tĩnh,” ông nói.
Giọng nói từ chiếc xe cảnh sát quát, “Giơ tay lên!”
Mason giơ hai tay lên trời.
Chiếc xe cảnh sát hãm phanh và dừng lại bên cạnh họ. Mason nhìn những tia lấp lánh trên khẩu súng xanh màu ánh thép,
“Cái gì xảy ra ở đây thế, ma quỷ sao không bắt các người đi?” một giọng hỏi.
“Thì chính tôi cũng rất muốn biết điều đó,” Mason đáp lại.
“Các người thì hẳn phải biết. Các người đã đào tẩu tháo thân từ ngôi nhà đó.“
Mason nói, “Chỉ cần các ông xác định rằng tôi không có vũ khí, tôi sẽ rút từ túi ra cái ví của tôi và các ông sẽ biết tôi là luật sư, và tôi là một trong những người đã gọi cảnh sát.”
“Ồ, đó là Perry Mason!” một giọng khác kêu lên trong xe cảnh sát. “Ông sao đấy, đã ở trong ngôi nhà này à, Mason?”
“Phải, tôi đã ở trong đó,” Mason nói, “và cần tuyên bố với các ông rằng trong phòng ngủ tầng hai có một người chết đang nằm. Ông ta rõ ràng bị đâm và xét qua tính chất các vết thương và qua vết cán dao thò ra từ lưng ông ta, tôi có thể nói với sự tin tưởng và khẳng định rằng, đó không thể nào là vụ tự tử. Lời tuyên bố của tôi là thế.”
Ánh đèn pha tắt. Một trong số cảnh sát hỏi, “Thế ai đi cùng với ông đấy?”
“Bà ấy tên là Jozephine Kempton,” Mason đáp, “bà là thân chủ của tôi, và tôi được ủy quyền trả lời tất cả các câu hỏi nhân danh bà.”
“Nào, không cần bắt đầu câu chuyện bằng giọng điệu ấy.”
“Chúng tôi đã bắt đầu chính bằng giọng ấy rồi.”
“Bà ta định giấu giếm gì đó với chúng tôi à?”
“Theo tôi rõ, không.”
“Vậy tại sao bà ta không tự mình kể lấy?”
“Bởi vì, rất may, bà có những quyền xác định. Tôi muốn được trò chuyện riêng với bà trước khi quyết định bà cần nói gì, còn giờ thì không đáng nói. Tôi cũng muốn lưu ý các ông rằng, nếu tôi là luật sư duy nhất giải quyết vụ này, thì tôi sẽ đem hết nỗ lực để làm sáng tỏ tất cả các sự kiện có liên quan đến tình huống vừa xảy ra, và hẳn sẽ tuyên bố rõ quan điểm của bà. Nhưng rất tiếc, tôi chỉ là một trong hai luật sư của bà.”
“Thế ai là người thứ hai?”
“James Etna từ hãng ‘Etna, Etna và Duglas’.”
“Và ông ta ở đâu rồi?”
“Ấy,” Mason nói, “chính chúng tôi cũng rất muốn biết được điều đó sao cho nhanh hơn.”
“Được lắm, thế thì hãy vào xe đi,” một cảnh sát nói. “Bây giờ một xe khác sẽ đến. Nếu người đàn bà này không định nói gì cả, chúng tôi phải giữ bà ta như một nhân chứng quan trọng. Ông biết điều đó quá rõ.”
“Tuyệt lắm,” Mason đáp. “các ông thực hiện nghĩa vụ của mình, các ông cứ giữ bà ấy như một nhân chứng. Nhưng bà ấy sẽ chỉ khai khi nào tôi nói với bà. Mà tôi chỉ nói với bà sau khi tôi biết rõ bà định kể chuyện gì.”
Một cảnh sát mở toang các cửa xe phía sau.
“Mời ngồi lên ghế sau,” ông ta ra lệnh. “Quỷ tha ma bắt, các vị lọt vào đấy như thế nào? Cổng chính bị khoá và…”
“Chả có gì đơn giản hơn,” hãy cứ đi theo phố này đến khi trông thấy cánh cửa với số 546. Chỉ có điều hãy thận trọng khi vào bên trong, bởi vì có mấy con đười ươi, tâm trạng của chúng khá hiếu chiến đang tự do tung hoành ở đấy,
“Quỷ tha ma bắt những cái nhà thế này đi,” một trong số cảnh sát lầu bầu bất bình với người thứ hai. “Rút cục cái xe mười chín đâu rồi?”
“À nó đây.”
Thêm một xe cảnh sát xuất hiện cuối phố Rouz street hướng về phía họ. Tiếng còi của nó vừa mới rú buốt óc đã tắt, lặng dần trong sự lắp bắp rền rĩ.
“Thế là ổn rồi,” lái xe nói. “Tôi sẽ đi lại kia cùng số mười chín, còn cậu hãy ở lại đây và đừng rời mắt khỏi hai người này. Và đưa cho tôi khẩu súng máy đi, tôi chả khoái gì việc đi săn đười ươi.”
Mason quay về phía bà Jozephine Kempton.
“Bà nghe thấy tôi đã nói gì rồi chứ?” ông hỏi nhỏ.
“Vâng.”
“Bà sẽ không vi phạm các chỉ dẫn của tôi?”
“Xin ngài cứ yên tâm”