← Quay lại trang sách

Chương 11

Đúng tám giờ rưỡi Mason ghé vào văn phòng ‘Hãng thám tử Drake’, nằm ngay trên tầng có văn phòng Mason.

“Paul có trong không?” ông hỏi cô gái ngồi cạnh tổng đài.

“Trong đó,” cô kia đáp, “và đang chờ ông, ông Mason ạ.”

“Tốt,” Mason nói, “hãy bảo anh ấy ghé qua văn phòng tôi. Tôi có cuộc hẹn vào chín giờ, và Della phải đến đấy kịp vào tám rưõi.”

Mason về đến văn phòng của mình và trông thấy là Della đã chờ ông.

“Chào Della. Đợi tôi lâu chưa?”

“Chừng mươi phút.”

“Hôm qua với cô là một ngày khá nặng nề.”

“Với tôi ư? Chính anh bị một ngày nặng nề, anh mới là người chơi trốn tìm với lũ đười ươi chứ. Đêm anh không bị những cơn ác mộng đày đọa chứ?”

Mason cười mát, “Tôi không bị ác mộng đày đọa, nhưng tôi không thể thiếp đi nổi. Vẫn có gì đó khác lạ trong lũ đười ươi… có gì đó để nghiền ngẫm, khi nó nhìn ta và bắt đầu tự đấm vào ngực.”

“Paul Drake đến rồi chứ?”

“Phải. Lúc đi ngang, tôi đã ghé vào văn phòng anh ấy. Rồi xem, chúng ta sẽ có thể đào được tin về kẻ giết người hay không? Tốt làm sao nếu đưa được tin còn nóng sốt cho trung uý Tregg, rồi lúc ấy chúng ta xem ông ta sẽ làm gì.”

Della gọi vào Cục cảnh sát và được biết rằng trung uý Tregg không có ở đó.

“Thử gọi cho trung sĩ Holcomb xem,” Mason nói.

“Anh quá rõ là lão ấy hận anh thế nào rồi kia mà,” Della cảnh báo.

“Có gì đáng sợ đâu,” Mason đáp, “chúng ta chỉ nghe Holcomb nói gì thôi. Tôi cần thông tin.”

Một phút sau Della gật đầu. Mason cầm lấy ống nghe.

“Xin chào,” Mason nói. “Tôi rất muốn nhận được tin tức về thân chủ của tôi, ông trung sĩ ạ.”

“Ông cần điều gì?”

“Tôi muốn biết,” Mason đáp, “cần phải viết hay không kháng nghị về việc bắt giữ trái phép Jozephine Kempton, dù sao các ông cũng định thả bà ấy.”

“Chúng tôi đã thả bà ấy rồi.”

“Thực sự ư? Nhưng tôi chẳng hề biết.”

“Ồ, thì bây giờ ông biết rồi đấy thôi. Bà ấy được tự do khoảng nửa giờ trước đây. Tôi cố gọi điện thoại cho ông, nhưng không thể. Số văn phòng của ông không có trong danh bạ điện thoại. Ông là nhân vật đặc biệt mà. Bà Kempton không biết có thể tìm số của ông ở đâu, tôi cũng không biết. Điện thoại luật sư thứ hai của bà ấy, James Etna, thì có trong số. Tôi đã gọi cho ông ta. Ông ta nói sẽ ghé qua đón bà ấy.”

“Và các ông đã trả tự do cho bà ấy?” Mason hỏi.

“Đúng”

“Nghĩa là, các ông không nghi bà ấy nữa chứ?”

“Thế ai nói với ông là chúng tôi nghi bà ấy? “

“Thôi được,” Mason nói mệt mỏi, “không thì tức là không vậy.”

Ông treo máy.

Della nhìn ông dò hỏi.

“Holcomb nói là họ đã thả bà ấy,” Mason báo.

Paul Drake gõ cửa bằng ám hiệu.

Della mở cửa.

“Sao nào,” Paul Drake nói, “tôi thấy các vị tươi rói như dưa chuột ấy nhỉ? Giống như được ngủ đẫy. Thế hãy ngó tôi xem nào. Khó lắm tôi mới đứng nổi. Tôi thấm đẫm cà phê ngang bằng với thông tin.”

“Tuyệt vời,” Mason nói. “Ngồi đi. Cà phê có thể dành lại cho mình, còn thông tin thì tung ra đi.”

Paul Drake, một người cao ngồng với bộ mặt nhợt nhạt như xác chết, khó hiểu kiểu một tay chơi poker dày dạn, được rèn luyện kĩ qua nhiều năm tháng cách che giấu bất kì cảm xúc nào. Với vẻ trịnh trọng, ông ngồi xuống chiếc ghế bành da lớn, êm khó tưởng và lấy tư thế yêu thích của mình, gác cặp chân dài qua một tay vịn, tựa lưng vào tay vịn thứ hai.

Ông ngáp to khủng khiếp, lôi trong túi ra cuốn sổ ghi chép và nói, “Tôi cho là anh muốn tôi vào đề ngay từ bây giờ.”

“Đúng vậy.”

“Benjamin Addicts,” Paul Drake lên tiếng, cố tình kéo dài từng lời, “theo lời đồn đại, năm mươi hai tuổi. Theo một số nguồn tin, ông ta có em trai, Herman Addicts bốn mươi sáu tuổi. Có thời họ là một cặp không rời nhau, cả hai không có học vấn tốt, xuất thân từ một gia đình nghèo. Herman bỗng nhiên biến mất. Benjamin cam đoan rằng ông ta không hề biết là chú em hiện giờ ở đâu. Có thể, đó là sự thật. Có lời đồn đại rằng Herman dính vào một vụ ẩu đả, giết chết ai đó và…”

“Kết thúc với chuyện đó đi. Paul,” Mason cắt ngang ông ta một cách gay gắt. “Anh là thám tử, anh cần gì những lời đồn thổi ấy? Tôi cần các sự kiện. Anh biết điều gì chính xác nào?”

“Thực tế, Perry ạ,” Drake nói, “tôi chẳng rõ cái quái gì cả. Addicts là triệu phú. Ông ta có công việc kinh doanh khổng lồ gắn với khai thác khoáng sản quý. Ông ta sống ở đây mười sáu năm, còn trước đó không một ai rõ, - chẳng biết nơi ông ta sinh ra, chẳng biết ông ta gom được cả đống tài sản ở đâu và bằng cách nào.”

“Anh muốn nói rằng đến cả nhà băng của ông ta cũng không biết về điều đó ư?” Mason hỏi lại ngờ vực.

“Không ai biết được chuyện đó. Ông ta luôn luôn từ chối trả lời bất kì câu hỏi nào. Ông ta thường nói: ‘Tôi đâu có hỏi vay nợ các vị. Tôi mua và bán bằng tiền mặt’.”

“Nhưng vẫn còn thanh tra thuế vụ?”

“Ông ta nói với họ rằng ông ta bị mất trí nhớ. Điều đầu tiên Addicts nhớ lại được, đó là ông ta không biết vì sao lại có hai nghìn đôla trong túi.”

“Paul, chả lẽ họ tin được chuyện phịa đáng ngờ như thế?”

“Không, tất nhiên. May ra họ đã kiếm được vân tay ông ta. Trước đây chúng chưa bị lưu giữ ở đâu cả. Chưa có số liệu nào về ông ta tại Ủy Ban Điều Tra Liên Bang.”

“Anh có thể áng chừng ông ta có bao nhiêu không?”

“Khoảng hai đến ba triệu tiền mặt. Ông ta có thu nhập lớn không tưởng nổi, tài sản nằm ở những nơi khác nhau nên khá khó khăn để đánh giá chính xác. Nhưng có gì đi nữa, ông ta được đảm bảo khá tốt, điều đó cho phép thoả mãn tất cả những gì cần chợt nảy ra trong đầu ông ta.”

“Và điều gì chợt nảy ra trong đầu ông ta?” Mason quan tâm.

“Toàn bộ mọi ảo thuật là chỗ đó,” Drake nói. “Vấn đề là về tài sản hai hoặc ba triệu đôla, ông ta để lại di chúc. Vậy thế này: Có lẽ, có tranh chấp về nó trên cơ sở rằng Benjamin Addicts bị bệnh tâm thần.”

“Bởi vì ông ta làm thử nghiệm với lũ đười ươi ư?” Mason hỏi.

“Tôi có cảm giác, mọi việc sâu xa hơn nhiều,” Drake nói.” Giống như, Benjamin Addicts sợ chính bản thân đến kinh hoảng. Riêng tôi tin chắc rằng ông ta đã dự định giết ai đó, mà cũng có thể là đã giết ai đó rồi.”

“Cái gì đẩy anh tới ý nghĩ ấy?”

“Ông ta cố một cách tuyệt vọng để chứng minh rằng thiên hướng đối với việc giết người ở con người là bản năng bẩm sinh. Ông ta khẳng định rằng, nền văn minh có thể nén cái bản năng ấy và làm cho nó thiu ngủ, đặc biệt nếu đứa trẻ được dạy dỗ trong bầu không khí an toàn. Khi diễn ra cuộc đấu tranh khắc nghiệt vì sự sinh tồn, như ông ta cho thế, bản năng chém giết được bộc lộ rõ. Ông ta cũng khẳng định rằng, khi con người chúng ta bị đưa vào trạng thái thôi miên thì có thể gây án mạng, mà không hề ý thức được là đang làm gì, còn khi hồi tỉnh sau trạng thái thôi miên, sẽ không nhớ về điều đó, không nhớ bất cứ hồi ức nào.”

“Có khả năng ông ta cố bảo vệ bản thân khỏi sự buộc tội trong một vụ án mạng thời quá khứ,” Mason nói.

“Hoặc trong tương lai,” Drake nhận xét.

“Nhưng một nhân cách khác thường như thế cần phải gợi lên ở ai đó mong muốn đào bới quá khứ của ông ta chứ! Nghe được một chuyện như thế, thì tay tống tiền nào cũng sẵn sàng phí đi mấy năm, chỉ cốt hé mở được bí mật.”

“Điều đó thì chính xác,” Drake đồng tình. “Chính phủ đã mất vì ông ta một số thời gian để làm rõ được vấn đề quốc tịch. Còn mọi thứ khác đều sa vào ngõ cụt. Ông ta tẩy sạch mọi tội lỗi khi tuyên bố: ‘Tôi không thể nhớ được gì cả về quãng đời quá khứ của mình, tôi cũng chẳng thèm đau đầu về điều đó. Rút cục, hiện tại quan trọng hơn, đó mới là điều làm tôi quan tâm’.”

“Nói ngắn gọn, ông ta chi phí cả một gia tài nhằm chứng minh học thuyết của mình,” Mason nói.

“Đúng vậy, cố gắng chuẩn bị sự bào chữa cho bản thân.”

“Dĩ nhiên,” Mason tiếp tục, “là ông ta không thể thử nghiệm với con người.”

“Sự thể là thế. Ông ta đã mua đàn khỉ và cố dạy chúng giết chóc, cố thôi miên chúng để chúng thực hiện các mệnh lệnh được khơi gợi cho chúng.”

“Và ông ta cố đạt được điều đó như thế nào?”

“Bằng mọi biện pháp có thể. Ông ta có mấy người dạy thú và một nhà tâm lí thôi miên. Tôi đã trò chuyện với ông này, đó là một người tên Blevins. Alan Blevins.”

“Blevins ở đâu tối hôm trước?”

“Ở nhà mình.”

“Ông ta không ghé vào Stounhenge à?”

“Tất cả những người làm công việc thử nghiệm với lũ khỉ đã bị sa thải gần một tuần trước,” Drake nói. “Addicts đã thanh toán chi phí cho cả nhóm.”

“Tại sao?”

“Ông ta tuyên bố rằng các thử nghiệm của ông đã hoàn tất thành công.”

“Thế riêng ông ta thì làm gì?”

“Ở đây có đôi điều bắt đầu được sáng tỏ. Blevins có thể cho toàn cảnh trọn vẹn hơn cả. Dĩ nhiên, Perry ạ, lão Blevins này không muốn hợp tác. Tôi buộc phải liên lạc với lão vào khoảng ba giờ sáng và báo rằng vụ việc đã trở nên cực kì nghiêm trọng.”

“Đành thế,” Mason nói, “nếu không phải đười ươi giết Addicts, thì biện lí khu buộc phải tốn vô khối thì giờ để thu thập bằng chứng, ai là kẻ thực sự đã làm việc đó. Nhưng anh phải kịp làm rõ về Addicts tất cả những gì anh có thể.”

“Tài liệu chỗ tôi thừa đủ. Tôi kể với anh chính là về những gì tôi còn chưa rõ thôi.”

“Luật sư của Addicts, Sydney Hardvic, chắc rõ đôi điều sâu kín nhất của Addicts.”

“Tôi không rõ ông ta biết chi tiết đến mức nào, nhưng ông ta sẽ không kể gì đâu.”

“Addicts đã đặt rất nhiều tiền vào các mỏ vàng, sau đó kinh doanh dầu lửa. Ông ta mở tài khoản ở khoảng một tá ngân hàng, thêm nữa, ông ta xoay chuyển nhiều vụ việc mà chỉ sử dụng tiền mặt. Cục thuế không thích mọi chuyện đó. Họ liên tục theo dõi ông ta. Nhưng tay quản lí của ông ta, Mortimer Hershy, có thể tráo các con số tài đến nỗi gã lỡm hết bất cứ ai gã muốn. Natan Fallon thua đứt gã trong lĩnh vực này, thêm vào đó y có quan hệ căng thẳng với Addicts. Không nghi ngờ, Fallon có khả năng bị tống ra khỏi cửa.”

“Tốt hơn, hãy làm rõ, Paul, đêm trước Fallon ở đâu,” Mason đề nghị.

Drake mỉa mai nhìn vị luật sư.

“Quỷ tha ma bắt, theo anh, tôi đã làm gì suốt cả đêm?” Ông ta hỏi. “Tôi đã gắng làm rõ tất cả những gì mà cảnh sát biết, và thoạt đầu điều đó không nhiều lắm. Natan Fallon ở Las Vegas, và y đúng là ở đấy không hề rời đi đâu cả. Hershy ở Santa Barbara. Tôi kiểm tra gã rất kĩ, cảnh sát cũng thế.”

“Thế còn gì đó quan trọng nữa không?”

“Bao nhiêu tuỳ thích. Nhưng mà có điều tôi không hiểu đây. Addicts không tin cậy ai tuyệt đối trong các hoạt động kinh doanh của mình. Ông ta có những bí mật đối với cả Fallon lẫn Hershy.”

“Anh chỉ trích ông ta vì điều đó à?”

“Không hề.”

“Và đó là bí mật loại nào?”

“Ví dụ, Addicts có thể bỗng dưng biến mất. Một trong những thành viên đoàn thủy thủ con tàu buồm của ông ta vốn tức giận ông chủ vì Addicts đã sa thải anh ta, đã kể với tôi về điều đó. Anh ta kể là Addicts thường xuyên đi lên tàu, thế nhưng đến thời điểm cuối cùng thì xuống bờ và con tàu ra đi không có ông ta. Trên tàu có điện thoại để liên lạc với bờ. Addicts gọi cho thuyền trưởng và trao cho ông này các chỉ thị đi đâu.. v.v. Sau đó họ bỏ neo gần Catalina, và chính ở đây Addicts lại xuất hiện trên tàu, làm ra vẻ suốt thời gian ông ta ở trên tàu, ngồi khoá chặt trong buồng mình và làm việc.”

Mason mím môi băn khoăn, “Ai biết rõ điều này, Paul?”

“Chỉ mỗi thuyền trưởng, mà thuyền trưởng thì giữ mồm của mình chặt hơn so với cả loài nhuyễn thể.”

Mason ngẫm nghĩ một lát, rồi nói, “Nhưng ông ta đã gọi đâu đó từ xa. Ông ta phải trả thanh toán cho các cuộc nói điện thoại. Đó là điều anh cần làm. Bằng mọi cách kiếm cho được các bản thanh toán điện thoại cho số điện thoại trên tàu và bắt đầu kiểm tra ông ta gọi đi từ đâu. Cần làm rõ, ông ta đã ở đâu khi trốn cả Fallon lẫn Hershy. Anh nghĩ sao, Paul, có thể là điều này gắn với đàn bà chăng?”

“Xét mọi nhẽ, ông ta không có phụ nữ nào,” Drake nói, “nhưng chắc chắn ông ta là nghệ nhân vĩ đại về các vụ gian dối tài chính, đặc biệt với tiền mặt, ông ta luôn đánh lừa Cục thuế vụ.”

“Anh có ảnh ông ta không?”

“Tất nhiên.”

“Hãy kiểm tra các quyết toán điện thoại, và chúng ta sẽ xem kết quả sẽ làm rõ được gì.”

“Được rồi,” Drake nói. “Còn giờ thêm điều nữa. Ông ta…”

Tiếng gõ cửa khẽ, cắt lời Drake.

Della hé cửa, ngó vào phòng, sau đó mở rộng ra và nói, “Chào các anh. Gì mà hôm nay các anh đến sớm thế?”

Etna và bà Jozephine Kempton bước vào phòng.

Mason giới thiệu họ với Paul Drake và quay về phía Etna, “Công việc thế nào?”

“Mọi việc đều tuyệt,” Etna nói với vẻ long trọng. “Chúng ta thoát khỏi rất nhẹ nhàng, ngài Mason ạ.”

Bà Kempton gật đầu và môi nở rộng nụ cười. “Họ đặc biệt nhã nhặn với tôi.”

Mason nhíu trán.

“Bà đã kể gì với họ?” ông hỏi vẻ ngờ vực.

“Tôi không kể gì với họ cả. Tôi làm tất cả chính xác như ngài đã chỉ dẫn.”

Mason nhìn bà chăm chú, sau đó đột ngột quay về phía Paul Drake, “Xin lỗi, Paul, nhưng chúng tôi buộc phải đề nghị anh rời khỏi đây. Tôi không muốn nói là chúng tôi không tin anh, nhưng vì theo quy định rằng thân chủ bàn bạc các vấn đề của mình với luật sư trước mặt người thứ ba, sẽ bị mất quyền được luật pháp quy định xem cuộc trò chuyện như thế là bí mật tuyệt đối. Dĩ nhiên, điều luật không được áp dụng với Della với tư cách là thư kí của tôi, nhưng rất tiếc lại bị áp dụng với anh.”

“Ồ thật tuyệt,” Drake nói. “Có lẽ, tôi sẽ có thể được nhấm nháp dù là tí chút. Tôi đã ngấy đến tận cổ cà phê, bánh kẹp thịt hun khói mà tôi nuốt chửng không nhai giữa các hồi chuông điện thoại rồi. Tôi sẽ xuống dưới, ngồi bên bàn, ăn uống giống như một thằng người đây.”

Drake bước ra khỏi phòng.

Mason quay lại Etna và bà Kempton.

“Mời ngồi,” ông nói. “Còn bây giờ, thưa bà Kempton, tôi muốn nghe từ bà sự thật, sự thật thuần túy, và không gì cả ngoài sự thật.”

“Nhưng tôi đã kể sự thật với ngài mà.”

Mason lắc đầu.

“Ngài Mason,” bà kêu lên tức giận, “lẽ nào ngài nghĩ rằng tôi có thể nói dối ư?”

“Tôi biết cảnh sát,” Mason nói. “Tôi biết phương pháp làm việc của họ. Trong nhà không hề có ai, trừ bà và kẻ bị giết. Bà khước từ kể về điều đó, còn giờ đây cam đoan với tôi rằng cảnh sát đã thả bà.”

“Nhưng nó là như thế thật. Họ đã thả tôi. Thậm chí họ còn cử người đến căn hộ của tôi lấy quần áo cho tôi nữa.”

“Nghĩa là thế nào?” Mason hỏi.

“Họ nói với tôi rằng phải đưa quần áo của tôi đi để nghiên cứu kĩ trong phòng thí nghiệm, họ bao giờ cũng làm như thế trong các trường hợp khi nhân chứng có mặt tại hiện trường, đó là tính hình thức thông lệ. Họ nói rằng, cho đến ngày mai tôi vẫn chưa thể nhận lại được quần áo và nếu tôi không muốn chờ, thì họ có thể cử một nữ đồng nghiệp đến căn hộ của tôi và cô kia sẽ đem lại tất cả những gì tôi cần.”

“Và rồi họ đã làm thế?”

“Vâng.”

“Bà đưa cho họ chìa khoá căn hộ mình?”

“Nó nằm trong phong bì của tôi, họ thu hết và xếp vào một phong bì.”

“Và bà đã kí vào giấy, rằng bà không phản đối nếu họ vào nhà của bà?”

“Vâng.”

“Và gì sau đó?”

“Sau đó họ đem quần áo của tôi lại. Tất cả họ đều nhã nhặn đến ngọt xớt. Họ nói rằng lấy làm tiếc về sự tạm giữ bắt buộc này, rằng họ đã xác định được ai đã giết ông Addicts, và toàn bộ tất cả mọi nghi ngờ được cởi khỏi tôi.”

“Ai nói với bà điều đó?”

“Cô giám thị.”

“Gì xảy ra sau đó?”

“Ồ,” bà nói, “họ hỏi tôi là tôi định làm gì, và tôi đáp - gọi điện thoại cho ngài.”

“Từ bao giờ?”

“Sáng sớm hôm nay.”

“Bà tiếp đi.”

“Hình như, không ai biết tìm ngài bằng cách nào trước khi ngài đến văn phòng của mình, nhưng họ có số điện thoại ở nhà ông Etna. Tôi biết ông ấy đã phải dậy rồi, và bảo họ gọi cho ông ấy.”

“Và ông ấy đến và đưa bà về?” Mason hỏi.

“Vâng.”

Mason ngước nhìn Etna. Ông kia gật đầu.

“Ngay từ phòng giam?” Mason hỏi.

“Ồ, không phải hoàn toàn thế,” Etna nói cho rõ thêm. “Tôi gặp bà ấy tại gara phía dưới.”

“Tại gara?”

“Vâng.”

“Gara nào?”

“Gara cảnh sát, nơi mà họ…”

Bà Kempton cắt ngang ông. “Ngài còn nhớ ở đấy họ có trạm gara ngay sau cái chỗ họ cho chúng ta xuống xe. Vì tôi không muốn quấy rầy ai, nên tôi nói với các nhân viên cảnh sát rằng tôi đi xuống dưới chỗ gara và đợi ông Etna - để ông ấy ghé vào đó.”

“Và bà đợi được ông ấy tại chỗ đó?”

“Vâng, chính tại cái chỗ họ đưa chúng ta tới vào tối hôm trước, nơi chúng ta bước ra khỏi xe ấy.

Mason quay về phía Etna, “Nhưng ông thì không thể đi xe vào đó chứ?”

“Không, tất nhiên, tôi dừng xe từ ngoài và đi bộ đến cửa. Tôi vẫy tay, và bà Kempton chạy ra. Mà sao? Điều đó có ý nghĩa gì chăng?”

“Phải, tôi tính sẽ nghe thấy chính điều đó.”

“Tôi không nắm bắt được,” Etna nói.

“Bà Kempton,” Mason nói, “bà giấu gì đó với chúng tôi.”

“Ngài có ý gì vậy?”

“Bà giấu chúng tôi điều gì đó cực kì quan trọng, một sự kiện mà…”

Bà cắt lời ông và lắc đầu, “Tôi đã kể với ngài chính xác tất cả, ngài Mason ạ.”

“Và ông Etna chở bà thẳng đến đây?”

“Bà ấy muốn hỏi ngài mấy câu,” Etna nói.

Bà Kempton gật đầu, “Ngài Mason ạ, nếu con người chết đi, điều gì sẽ xảy ra với các tài khoản nhà băng của anh ta… tôi có ý nói những tấm séc chưa trả tiền của anh ta ấy?

Mason nhún vai, “Séc sẽ chẳng có giá trị gì nữa sau khi con người chết đi. Tài khoản của anh ta bị đình chỉ. Chỉ cần nhà băng nhận được tin báo về cái chết của khách hàng, họ ngừng ngay việc trả tất cả mọi tấm séc.”

“Thế nếu trên séc có chữ kí đảm bảo của thủ quỹ nhà băng?”

“Các séc do thủ quỹ kí,” Mason nói, “sẽ được nhà băng trả tiền. Nhà băng không chết.”

“Thế nếu nó… tôi chỉ tò mò…”

“Tại sao bà tò mò chuyện ấy?” Mason hỏi.

“… là vì nó gắn với các biện pháp mà ông Addicts kinh doanh. Ngài cũng biết, ngài Mason ạ, ông ta xoay chuyển rất nhiều vụ, vẫn sử dụng tiền mặt. Làm những mánh khóe gian lận, ông ta có thói quen trả bằng tiền mặt hoặc séc nhà băng. Ông ta thường mua séc ở các nhà băng khác nhau, còn sau đó kí chuyển nhượng chúng.”

“Và bà quan tâm séc nhà băng với chữ kí chuyển nhượng của ông ta có còn hiệu lực hay không, nếu ông ta chết trước khi séc được trả tiền?”

“Chính xác.”

“Nhưng tại sao?”

“Tôi muốn biết để xác lập cho mình một khái niệm rõ nét.”

“Séc nhà băng phải được trả, còn bây giờ, nào bà hãy kể chuyện gì đã xảy ra đằng ấy đi.” Mason nói.

“Được,” bà đồng ý. “Tôi sẽ kể với các ngài toàn bộ sự thật, và khi ấy các ngài sẽ có thể khuyên bảo tôi nên làm điều gì. Chắc gì tôi còn dám kể về điều này cho ai đó nữa, bởi vì mọi thứ trông có vẻ…”

“Bà đã nói gì với cánh nhà báo?” Mason cắt lời bà.

“Không gì cả.”

“Họ đã trò chuyện với bà?”

“Chưa. Trong đồn cảnh sát người ta nói với tôi là sẽ thả tôi ra từ sáng sớm và các nhà báo chắc chẳng biết gì về điều đó. Họ cho tôi lấy lại sức.”

Mason quay lại Etna.

“Sự việc mỗi phút lại càng có bước chuyển quái dị thêm.”

“Phải, nhưng rút cục, cảnh sát cũng có thể thể hiện tính bặt thiệp chứ,” Etna nói.

“Tất nhiên, có thể,” Mason đồng ý, “nhưng không vì bất cứ giá nào lại dựng tất cả các nhà báo chống lại mình cả.”

“Nhưng lần này họ đã xử sự chính như thế.”

“Quỷ tha ma bắt, đó là điều làm tôi lo sợ đấy,” Mason hạ giọng nói. “Hãy tiếp đi, bà Kempton. Hãy kể cho chúng tôi chuyện gì đã xảy ra. Trước hết, sao bà lại có mặt tại Stounhenge?”

“Ông Addicts đã gọi điện thoại cho tôi.”

“Gọi đi đâu?”

“Về nhà tôi.”

“Sao ông ta biết số điện thoại của bà?”

“Điều đó tôi không rõ.”

“Ông ta nói gì với bà?”

“Rằng muốn gặp tôi.”

“Ông ta có nói lí do muốn gặp không?”

“Ông ta muốn tự mình xin lỗi vì sự bất công ông ta gây ra đối với tôi. Ông ta muốn báo với tôi một điều rất quan trọng.”

“Ông Etna biết về cuộc trò chuyện ấy không?”

“Không. Ông Addicts bảo tôi đừng nói với ai về điều đó và đến nhà ông ta vào sáu giờ chiều.”

“Vào sáu giờ?”

“Vâng. Ông ta nói rằng ông còn mấy cuộc gặp gỡ quan trọng và trước sáu giờ ông ta bận, còn sau đó ông ta có cuộc hẹn vào sáu giờ bốn mươi lăm. Vậy nên tôi phải đến đó chính xác vào sáu giờ.”

“Và bà đến vào đúng sáu giờ?”

“Vâng.”

“Bà đi vào nhà như thế nào?”

“Tôi qua cánh cửa trên Rouz street, 546.”

“Nó mở sẵn à?”

“Không, bị đóng.”

“Thế bà làm sao vào được?”

“Tôi có chìa khoá của mình.”

“Bà muốn nói rằng suốt cả thời gian ấy chìa khoá vẫn ở chỗ bà?”

“Tôi vốn có chìa khoá cho riêng mình, và không ai đòi hỏi tôi trả lại nó.”

“Addicts biết về điều đó?”

“Ông ta hỏi tôi có chìa khoá hay không, và tôi đáp rằng có. Ông ta nói điều đó là tốt, và bảo tôi đi thẳng qua cửa sau và vào văn phòng ông ta trên tầng hai. Mà thực ra, có gì trong đó ghê gớm đâu, ngài Mason? Tôi đã làm thế hàng trăm lần, khi phục vụ ở đấy.”

“Lúc đó bà đang phục vụ ở đấy,” Mason nói. “Đó hoàn toàn là việc khác hẳn.”

“Ôi trời ơi, tôi không thể tính đến điều là một người bận rộn như ông Addicts sẽ xuống cầu thang và đi qua hết hành lang chỉ để mở cửa cho tôi vào, thêm nữa tôi lại có chìa khoá và tôi biết rất rõ đường đi.”

“Thế ở đấy chẳng có ai hơn nữa để có thể mở cửa cho bà vào ư?”

“Không. Ông ta một mình trong nhà.”

“Ông ta đã nói thế khi gọi điện thoại ư?”

“Vâng.”

Mason trầm ngâm một chút, “Đó chính là ông ta? Bà nhận ra giọng ông ta chứ?”

“Tất nhiên. Thậm chí ông ta còn đùa về việc ông lắp bắp không rành mạch do bị băng bó.”

“Ông ta gọi cho bà lúc nào?”

“Chừng hai giờ rưỡi.”

“Và bà ra đi ngay đến đó?”

“Vâng. Tôi ngồi lên xe buýt, chiếc vẫn dừng ở góc Oliv street đúng sáu giờ kém mười. Các ngài thấy đấy, tôi nhớ rất rõ lịch trình của các xe buýt, bởi thường xuyên đi đến đó mà.”

“Mặc xác nó, điều đó chính lại không làm tôi để ý,” Mason nhăn trán chán chường. “Nào bà nói về điều chủ yếu đi. Khi bà đến nơi, ông ta còn sống chứ?”

“Vâng,”

“Ông ta đã nói gì với bà?”

“Thế mới cóchuyện, ông ta chưa kịp nói gì cả. Ông bị giết đúng vào thời khắc khi tôi bước vào…”

“Ai giết ông ta?”

“Con đười ươi.”

Mason thở dài, “Nào nào, bà Kempton. Dù sao ta cũng nên dừng lại trên nền tảng hiện thực.”

“Ngài Mason, tôi xin ngài, ngài phải tin tôi. Tôi nói sự thật hoàn toàn. Tôi trông thấy bằng chính mắt mình. Ông Addicts nằm trên giường, còn con đười ươi mấy lần thọc dao vào ông ta.”

“Con đười ươi đó là thế nào?”

“Ngài Mason, tôi không thể khẳng định dứt khoát đó chính là con đười ươi nào. Một trong số những con lớn nhất, nhưng tôi không biết thật chính xác. Ngài thấy đấy, điều có vẻ phi lí, nhưng con đười ươi trong trạng thái thôi miên đã giết ông ta.”

Mason chăm chú nhìn bà.

“Chả lẽ ngài không tin tôi sao, ngài Mason?”

“Nếu tôi tin,” Mason nói, “thì các vị bồi thẩm cũng sẽ không chịu tin cho.”

“Tại sao lại không nhỉ?” bà Kempton nổi nóng, “rút cuộc, đó chính là điều trong nhiều năm ông Addicts cố để đạt tới cơ mà. Ông ta muốn luyện được một con đười ươi mà ông ta có thể thôi miên và…”

“Thôi được,” Mason nói. “Bà nói tiếp đi. Chúng ta đừng để mất thì giờ vào những tranh cãi vô bổ. Tôi muốn biết chuyện gì đã xảy ra.”

“Tôi bước vào phòng. Lúc đầu tôi chưa nhận ra ông Addicts. Tôi gọi ông ta, còn sau đó trông thấy ông ta nằm trên giường. Tôi có cảm giác rằng ông ta ngủ, nhưng ngay đó từ một góc phía buồng tắm, bước ra một con đười ươi. Nó đã bị thôi miên, ngài Mason ạ.”

“Bà đã hai lần nhắc lại điều đó. Sao bà biết được?”

“Qua biểu hiện của mắt. Con đười ươi nhe nanh ra với tôi, nó đi lại gần chiếc giường với bước đi vụng về đặc trưng của nó và… nó nhe nanh suốt thời gian, dường như tận hưởng việc được đổi vai với kẻ đã hành hạ nó.”

“Thế bà làm gì?”

“Tôi hét lên và ngất xỉu.”

“Bà có thấy lũ đười ươi tha thẩn khắp khu nhà không?” Mason hỏi. “Chúng nó đã không có ở đó khi bà đi theo hành lang ngang qua các cũi?”

“Không, mọi thứ vẫn nguyên trật tự. Hai con đười ươi to ngồi trong cái cũi mà sau đó hóa ra là bị mở, và còn thêm một con,” con đười ươi hiền nhất, trong cũi khác.”

“Nghĩa là có ai đó đã kịp thả những con đười ươi ấy trong khi bà…”

“Con đười ươi làm việc đó.”

“Con nào?”

“Con đã giết ông Addicts.”

“Sao bà biết?”

“Tôi tin chắc điều đó, ngài Mason ạ. Tôi đã ở bên cạnh chúng khá lâu rồi nên biết thói quen của chúng. Các cũi được đóng chốt từ bên ngoài, và mỗi khi con đười ươi được thả ra, lập tức nó mở các cũi khác. Nó làm việc đó trước tiên.”

“Hãy tiếp đi,” Mason nói.

“Vâng,” bà Kempton nói, “Khi tôi tỉnh lại, con đười ươi nhỏ được thuần dưỡng đang ngồi cạnh tôi - nó luôn luôn thân thiện với tôi. Nó rít lên khe khẽ, thể hiện mối thân thiện của mình và liếm mặt tôi. Tôi nghĩ chính nó đã giúp tôi tỉnh lại.”

“Bà sợ không?”

“Không sợ lắm. Tôi lập tức nhận ra con đười ươi này khi vừa mở mắt ra.”

“Và gì sau đó?”

“Sau đó,” bà Kempton nói, “tôi lên tiếng nói với nó, và nó mừng rỡ khi thấy mọi sự với tôi đều ổn. Nó vỗ vỗ lên má, vuốt tóc tôi với tâm trạng vui sướng.”

“Thế sau nữa thì sao?”

“Sau đó tôi đứng dậy, ngó nhìn và thấy rằng ông Addicts đã chết. Tôi nhận thấy từ lưng ông ta chuôi dao thò ra. Lúc ấy tôi đến máy điện thoại và cố gọi ông Etna, nhưng vô hiệu, Tôi thử gọi cho ngài và cũng không thể, vào lúc hoàn toàn tuyệt vọng thì cuối cùng cô Della trả lời tôi,”

“Tại sao bà không gọi cho cảnh sát?”

“Bởi vì tôi không biết xử trí thế nào, ngài Mason ạ. Tôi không có lòng tự tin. Thế nhỡ ngài bảo tôi rời khỏi ngôi nhà đó và không thú nhận với ai rằng tôi đã có mặt ở đấy? …. tôi hoàn toàn không có khái niệm phải làm gì.”

“Suốt thời gian đó con đười ươi khổng lồ ở đâu?”

“Điều thứ nhất mà tôi đã làm,” bà Kempton nói, “đó là đóng hết tất cả các cửa mà con đười ươi lớn kia có thể lọt vào phòng làm việc của ông Addicts.”

“Thế con đười ươi thuần dưỡng của bà?”

“Tôi để nó cùng với tôi ở trong phòng. Nó hoàn toàn không nguy hiểm. Nó như một đứa trẻ thôi mà. Thấy tôi nó mừng đến nỗi tôi không thể đuổi nó đi. Nó vỗ tay…”

“Tiếp đi,” Mason động viên bà.

“Và,” bà nói, “tôi đã hứa đón ngài ở phía dưới, cạnh cửa ra phố Rouz street, 546. Tôi không dám liều ra hành lang, nhưng sau đó một chốc, tôi cho rằng sẽ chẳng có gì đáng sợ - đó chính là vào thời điểm tôi chờ sự xuất hiện của ngài. Tôi khẽ khàng hé cửa ra hành lang và ngó ra ngoài. Xung quanh lặng như tờ, tôi lẻn ra tiền sảnh, và sau… giống như có gì đó nện vào đầu tôi. Điều cuối cùng đọng lại trong trí tôi - đó là một chùm tia lửa to tướng toé ra từ mắt. Sau đó tôi không còn nhớ gì nữa cho đến tận lúc tỉnh dậy ở trên sàn trong phòng, và ngay đó tôi trông thấy ngài đứng đối mặt với con đười ươi, tôi hiểu rằng với ngài có thể sẽ xảy ra điều bất hạnh.”

“Tại sao?”

“Vì đó là một trong số đười ươi dữ tợn nhất. Nó nguy hiểm một cách thực sự. Không bao giờ có thể đoán chắc điều gì sẽ nảy ra trong đầu nó. Theo tôi, nó bẻ gãy cửa hoặc gì đó đại loại, bởi tôi nhớ, tôi nhìn thấy cánh cửa bị đập vỡ và cho rằng chính tiếng răng rắc ghê sợ đó đã giúp tôi hồi tỉnh.”

“Bà cứ tiếp,” Mason nói.

“Mọi thứ còn lại ngài đã biết. Tôi hiểu chúng ta đang ở trong mối hiểm họa khủng khiếp, và tôi đã giải thích với ngài cần phải làm gì.”

“Đó là câu chuyện kì dị nhất, phi lí nhất mà trong đời tôi được nghe thấy!” Mason kêu lên.

“Tôi rất tiếc, ngài Mason ạ, nhưng đó là sự thật.”

“Toàn bộ sự thật?”

“Vâng, toàn bộ, và tôi đề nghị ngài giúp đỡ.”

Mason đứng lên và dùng bước đo căn phòng. Sau một phút ông nói, “Theo tôi, chỉ có một phần trăm cơ may, rằng điều đó là sự thật. Nhưng dù là ai đi nữa đã đánh bà nốc ao, hắn đã phải kéo bà ngược trở lại vào phòng. Khi tôi nhìn thấy bà lúc ấy, tôi có cảm giác rằng bà kể rất thật. Nhưng giờ ở đây thì tôi không thể tin vào tai mình nổi.”

“Ngài Mason, ngài không tin tôi ư?”

“Không.”

Bà Kempton nổi giận, “Tôi kể cho ngài chính xác điều đã xảy ra ở đấy.”

“Thôi được,” Mason nói, “nếu lưu ý đến bối cảnh ở đấy, thì tôi cho rằng, trong tám hoặc mười trường hợp, toàn bộ câu chuyện này có thể thành ra sự thật, nhưng ai sẽ tin cho chuyện đó? Các bồi thẩm không tin, chánh án không tin, các tay nhà báo cũng không tin nốt.”

“Tôi không hiểu, tại sao ai đó lại phải nghi ngờ những lời của tôi. Rút cuộc, ông Addicts đã chú tâm dạy lũ đười ươi của mình cho việc đó mà. Ông ta cố thôi miên chúng, cho chúng tín hiệu để giết người và….”

“Đó là sự điên rồ!” Mason nói.

“Không có điên rồ gì ở đây cả!” bà kêu lên. “Nếu ngài muốn biết ý kiến của tôi, thì trong quá khứ đã có gì đó khủng khiếp xảy ra với ông Addicts. Ông ta luôn luôn sợ rằng ông ta có thể bị ép buộc giết người đâu đó ở ngoại quốc, và theo tôi, ông Addicts định chứng minh rằng ông đã bị ai đó thôi miên và dù tác động thôi miên dần dần biến đi, thế nhưng ông ta vẫn không thể nào phục hồi lại nổi trí nhớ của mình.”

Mason đi qua căn phòng và dừng lại cạnh cửa sổ.

“Phải,” ông thốt ra chậm rãi, “nếu nhìn trường hợp này từ quan điểm các sự kiện thì rõ ràng không thể bàn cãi. Nhưng cứ thử tưởng tượng rằng chúng ta dùng sự kiện trên để bào chữa ở tòa án, trước các vị bồi thẩm xem.”

“Đừng lo, ngài sẽ không phải làm việc đó đâu,” bà nói. “Cảnh sát đã làm sáng tỏ với con đười ươi đó, vì thế họ đã thả tôi ra và xin lỗi vì sự tạm giữ. Tôi không hiểu, tại sao ngài lại lo lắng đến thế về tòa án, các bồi thẩm, thưa ngài Mason. Tôi tin tưởng rằng không ai buộc tôi vào tội gì cả.”

“Đó chính là điều phi lí nhất, là mê sảng trong toàn bộ câu chuyện này,” Mason nói. “Bà ở một mình trong nhà có người bị giết. Nếu bà kể cho họ về chuyện đã xảy ra và viết lời khai, thì họ còn có thể thả bà trong khi đang tiến hành việc điều tra. Nhưng bà lại không hề kể gì với họ, đúng không?”

“Tôi không hề nói gì với họ.”

“Thôi được, đủ rồi,” Mason cắt lời bà. “Tôi không muốn nghe thêm gì nữa, khi chưa tìm được cách kiểm tra những lời của bà. Quỷ tha ma bắt, khi ta bắt đầu đánh giá điều đó dưới góc độ các sự kiện đã rõ, mọi thứ quy tụ lại nhiều hoặc ít, nhưng câu chuyện man rợ đến mức, thậm chí chả hi vọng gì có ai đó sẽ tin vào nó.”

“Không còn những lời giải thích nào khác nữa, ngài Mason ạ. Trong nhà không còn ai, ngoài ông Addicts, tôi và lũ đười ươi.”

“Chính thế đó,” Mason nói, “và khi biết ông Addicts luyện lũ vật của mình như thế nào, không ai có thể ngăn cản một người có tính toán, đâm dao vào ông ta khi ông ta đang ngủ, còn sau đó thì cam đoan ông ta bị đười ươi giết.”

“Nhưng tôi có động cơ gì để xử sự như vậy?”

“Điều đó mới đẩy tôi vào ngõ cụt,” Mason nói. “Tôi không thể hiểu những động cơ nào buộc bà đi đến đó, khi chưa trao đổi với James Etna hoặc chưa gọi điện thoại cho tôi.”

“Tôi nghĩ cần phải làm việc đó, nhưng ông Addicts đề nghị tôi không nói với ai gì cả.”

Mason đã định nói gì thêm, nhưng ngay đó có tiếng gõ cửa to và hách dịch.

“Mở cửa ra, Mason,” giọng trung sĩ Holcomb ra lệnh. “Cảnh sát đây.”

Mason gật đầu với Della. Cô mở cửa ra.

Trung sĩ Holcomb, cười đắc thắng, nói, “Thế nào, Mason, đây chính là cái trường hợp mà chúng tôi chờ đợi. Chính là một trong những điều mà chúng tôi thực sự cần. Đi thôi, bà Kempton. Bà sẽ đi với chúng tôi.”

“Tôi đi với các ông?” bà hỏi lại. “Nhưng tại sao? Các ông vừa thả tôi cơ mà?”

“Thực tế là đã thả,” Holcomb đồng tình, “còn bây giờ bà đi cùng chúng tôi trở lại, và lần này bà sẽ bị buộc tội cố ý giết người.”

Holcomb và hai cảnh sát xông vào văn phòng, tóm lấy hai tay bà Kempton, và bà chưa kịp phản kháng thì tay bà đã bị còng bập vào.

“Chúng ta sẽ gặp nhau tại nhà thờ Mason ạ.” Holcomb nói.

“Một phút,” Mason thốt lên, đứng chặn giữa các cảnh sát và cửa. “Các ông có lệnh bắt giữ người đàn bà này không?”

“Nó đây.” Holcomb rút từ túi ra tờ giấy gấp nhỏ.

Mason bước lên trước.

Hai cảnh sát tóm lấy vai ông đẩy khỏi cửa. Trung sĩ Holcomb đẩy bà Kempton ra hành lang.

Mason xông ra cửa.

Một cảnh sát xô ông lùi lại.

“Nếu ông muốn, hãy viết đơn kiện đi,” anh ta nói, “nhưng đừng cố cản trở cảnh sát thực thi nghĩa vụ của mình.”

Viên cảnh sát thứ hai và viên trung sĩ vội vã kéo bà Kempton đi theo hành lang.

“Ở đây thì anh đúng,” Mason nói, “tôi sẽ phát đơn kiện!” Mason kêu lên tức tối.

“Thế thì tuyệt rồi!” viên cảnh sát mỉa mai. “Hãy soạn ra vài bản luôn thể.”

Mason quay lại phía Etna, “Ông hãy đi kiểm tra tất cả mọi giấy tờ, nếu ở họ có gì đó không hợp lệ, chúng ta sẽ đâm đơn kiện.”

Etna gật đầu và đi đến thang máy.

“Hãy đi theo cầu thang,” Mason nói và quay lại văn phòng. “Nhanh nhanh lên, Della, hãy giúp tôi lục soát hết mọi chỗ xem có microphon giấu ở đây không. Nếu họ nghe trộm các chuyện tuyệt mật của luật sư với thân chủ thì chúng ta sẽ dựng nên một chuyện mà thậm chí trong cơn ác mộng họ cũng không thể thấy.”

Mason và Della bắt tay vào tìm kiếm cẩn thận toàn bộ văn phòng.

Chưa qua một giờ họ đã phải thừa nhận sự thất bại của mình. Cả hai đã xem hết mọi ngóc ngách, ngó ra sau các bức tranh. Họ xê dịch bàn ghế, nâng thảm, kiểm tra từng li mép trên tường.

“Thế nào?” Della hỏi.

“Tôi không hiểu gì cả,” Mason nói. “Họ đã tìm được gì đó mà chúng ta không biết.”

“Đó có thể là gì được nhỉ?”

“Tôi sẽ lộn cổ xuống ngay tại đây, nếu tôi biết.”

“Anh nghĩ, bà ta sẽ kể với cảnh sát cũng chính điều đã kể với chúng ta chứ?”

“Tôi hi vọng không,” Mason nói.

Vị luật sư đi lại cạnh cửa sổ và đứng cau có nhìn ra đường phố sôi động.

Bất ngờ ông quay người lại.

“Della,” ông nói, “thường thì, đôi khi ta trở nên quá đa nghi không?”

“Anh có ý nói gì?”

“Bà Kempton kể với chúng ta câu chuyện có vẻ siêu tự nhiên và kì quái, và vì lí do đó chúng ta đã không tiếp thu nó một cách nghiêm túc.”

“Anh có ý rằng, có thể bà đã kể sự thật?”

“Còn một phương án nữa.”

“Thế nào?”

“Chúng ta hãy cùng nhìn mọi thứ từ góc độ thế này,” Mason nói. “Giả sử, cô cần giết Benjamin Addicts, và cô muốn để mọi thứ trông có vẻ là ai đó đã làm chuyện này, còn cái bóng ngờ vực cũng không rơi vào cô.”

“Nào?” cô hỏi.

“Lúc đó,” Mason nói, “chắc cô sẽ mời Jozephine Kempton đến nhà. Hẳn cô sẽ làm để cho không một tòa án nào tin vào chuyện bà ta kể. Sau đó cô đi và giết Benjamin Addicts và có thể hoàn toàn tin chắc rằng Jozephine Kempton sẽ bị tuyên án có tội.”

“Chúa ơi, nhưng làm sao để bà ta kể ra mọi chuyện này?” Della hỏi.

“Hãy đánh giá toàn bộ câu chuyện một lần nữa,” Mason nói, “hãy đánh giá một cách tỉnh táo, từ quan điểm một nhà phân tích. Có thể xác định thế nào với điều bà Kempton đã kể?”

“Đó là sự điên rồ!” Della kêu lên không nghĩ ngợi, “điều đó giống như… cơn ác mộng nào đó.”

“Thế đấy,” Mason nói, “đó chính là ác mộng.”

“Anh định nói gì vậy, sếp?”

“Nào ta phân tích các sự kiện có liên quan đến vụ việc. Addicts thuê mọi người cố tác động đến lũ thú bằng thôi miên.”

“Và sao?”

“Bà Kempton bị mất trí nhớ hai thời đoạn. Lần thứ nhất bà cho rằng bà bị ngất. Lần thứ hai bà có cảm giác là có ai đó đánh vào đầu bà.”

“Anh tiếp đi,” Della nói.

“Ta giả sử,” Mason nói, “ai đó đã dìm bà Kempton vào trạng thái thôi miên, hắn khơi gợi bà toàn bộ câu chuyện mà bà buộc phải tin khi trí nhớ hồi phục lại.”

Della mở to hai mắt.

“Sếp,” cô kêu lên, “tôi sẵn sàng thề rằng, mọi sự chính là thế! Điều đó lí giải mọi sự đã diễn ra và…”

Bất thần lòng hăng say nóng bỏng của cô phụt tắt, giọng ngắc ngứ và cô bặt im.

“Tiếp đi,” Mason nói.

“Nhưng mà,” cô nói vẻ nghi ngại, “chắc gì các bồi thẩm tin vào câu chuyện thôi miên này hơn so với chuyện với lũ đười ươi.”

“Với các số liệu mà chúng ta có, thì chắc gì,” Mason nói, “nhưng đây mới là khởi đầu công việc điều tra thôi.”

“Có thể thôi miên người đàn bà và khơi gợi cho bà ta một cơn ác mộng rối rắm đến thế, khi tỉnh dậy bà ta vẫn nhớ nó như những sự kiện xảy ra trong thực tế hay không?”

“Tôi nghĩ, có,” Mason nói. “Tôi định kiểm tra điều này. Thôi miên - đó là một cái trò mà tôi biết rất ít về nó. Thế nhưng điều đó không giải thích được, sao cảnh sát lại tự tin đắc thắng như vậy khi đến bắt giữ bà Kempton. Chắc chắn họ đã phát hiện được gì đó. Trong một hai ngày tới chúng ta sẽ biết được nhiều hơn. Trong chuyện này chúng ta còn chưa rõ nhiều bước xoay chuyển.”

“Và có thể phần nào rơi vào ngõ cụt,” Della nhận xét vẻ nghiêm trọng cường điệu.