Chương 13
“Trời ơi,” Etna kêu lên, “ngài thực tế đã sỉ nhục ông ta, ngài Mason ạ!”
Mắt Mason thu hẹp lại, “Ông ta kể với chúng ta đôi điều có lợi, và ông ta nghi ngờ một điều gì đó mà cho đến giờ chúng ta vẫn còn chưa có khái niệm.”
“Dĩ nhiên,” Etna nói, “ông ta rõ mọi sự đến gốc rễ - cái thông tin mà chúng ta không có, và điều đó cho ông ta ưu thế to lớn.”
“Tốt thôi,” Mason nói, “thì cứ mặc ông ta giữ nó trong vòng bí mật. Bắt đầu cuộc chạy đua rồi. Chúng ta xuất phát không khá lắm, nhưng chúng ta có tốc độ lớn hơn.” Ông quay lại Della: “Hãy nối tôi với Paul Drake.”
Dela gật đầu, Mason cầm ống nghe và nói, “Paul à, tôi tham gia cuộc chạy đua của chuột rồi. Tôi cần hành động nhanh. Helen Cadmus biết về Benjamin Addicts nhiều hơn bất cứ ai đó khác, nếu không kể đến luật sư riêng của Addicts. Cô ấy biết rõ một điều gì đó làm tay luật sư này lo lắng. Tôi cần phải biết đó chính là gì. Benjamin Addicts là người độc thân. Một người đàn ông đứng tuổi, nhưng rắn rỏi, đầy sức sống và có vẻ can đảm. Cần tìm ra người phụ nữ… Chà quỷ tha ma bắt, sao tôi biết được đó là người phụ nữ nào? Và khi anh nhận được tất cả các số điện thoại mà ông ta trò chuyện với con tàu, hay kiểm tra các số ấy, và nếu đấy là số điện thoại khách sạn hay trại du lịch, hãy lập tức phái thám tử tới đó kèm theo hình, và làm rõ: ông ta có giải trí với người đẹp nào đó ở đấy không.”
Mason ném mạnh ống nói điện thoại.
“Thế ngài không có cảm giác,” James Etna nói, “ngài đã làm những kết luận quá vội vã không, ngài Mason? Tất cả đoan chắc rằng trong đời Addicts không hề có người đàn bà nào.”
***
Gorty khoá cửa ra vào phòng tiếp khách đúng vào năm giờ chiều. Vào năm rưỡi Della xếp các công văn gửi vào một cột, và Gerty giúp cô đóng dấu các phong bì. Sau việc đó Gerty đi về nhà.
Della sang văn phòng riêng của Mason.
“Mệt không, Della?”
“Không quá. Còn anh thế nào?”
Mason mỉm cười. “Tôi ngồi đọc nhật kí thôi. Đầu tôi quay cuồng vì chúng. Cô còn sức làm việc một lát nữa không?”
“Còn. Thế cần làm gì?”
“Chúng ta phải vắt ra tất cả những gì có thể từ các nhật kí này của Helen Cadmus.”
“Chúng ta đã làm việc đó rồi mà.”
“Hoàn toàn chưa. Chúng ta mới đọc các dòng. Còn giờ đây ta phải xem điều gì được viết giữa các dòng.”
Phía ngoài cửa phòng tiếp khách có tiếng gõ to và kiên quyết.
“Tôi ngó xem ai ngoài kia nhé?” Della hỏi.
Mason lắc đầu, “Không cần, Della ạ. Đã đủ với chúng ta mọi vụ khẩn cấp và việc siêu khẩn rồi.”
Cô ngồi xuống vị trí thư kí của mình. Mason đi lại bên, và ngồi ghé lên mép bàn, chạm vào tay cô.
“Tuyệt làm sao là có cô ở cạnh tôi,” ông nói.
“Tuyệt làm sao được ở bên anh,” cô đáp với nụ cười.
Tiếng đập vào cửa ngoài chuyển thành sầm sầm không dứt.
“Ai cứ cố lọt vào phòng khách của chúng ta thế,” Mason nói, “giống như anh ta tin chắc rằng ở đây có ai đó, Della ạ. Đó là tiếng gõ kiên nhẫn, thậm chí là lì lợm. Tốt nhất hãy xem ai ngoài ấy vậy.”
Della vội ra phòng tiếp khách mở cửa. Mason nghe thấy cô trao đổi với ai đó mấy lời, sau đó quay lại với số báo buổi chiều mới tinh. Trên tờ báo ghi: ‘Gửi ông Mason. Sydney Hardvic kính chào ông. Tôi muốn thuyết phục ông rằng tôi biết cách hành động nhanh’.
Della ngồi xuống bàn của mình. Mason cúi xuống phía trên vai cô trong khi cô trải báo ra bàn. Một dòng tít to tướng ngay trên cùng trang báo:
«CẢNH SÁT ÁM CHỈ VỀ KHẢ NĂNG CỦA VỤ ÁN MẠNG THỨ HAI.
Chính quyền đang thẩm vấn nhân vật bị tình nghi trong vụ giết Addicts, liên quan với sự mất tích bí ẩn của cô thư kí kiều diễm của ông ta…»
“Ông ta thật rơ trẽn làm sao!” Della kêu lên. “Đó đơn giản…”
“Tôi không hề chờ điều gì khác,” Mason đáp. “Nào, tốt hơn chúng ta xem, Della, ông ta đã đi xa đến mức nào.”
Họ cùng đọc mẩu tin.
«… Lúc này cảnh sát đang thẩm vấn bà Jozephine Kempton, nhân cái chết bí ẩn của Helen Cadmus, nữ thư kí kiều diễm mà như người ta cho là đã nhảy ra khỏi con tàu xa xỉ của Benjamin Addicts trong một đêm bão tố mấy tháng trước đây.
Chính quyền cho rằng cái chết này, như tờ báo chỉ ra, là vụ tự tử, nhưng có liên quan với vụ giết Benjamin Addicts. Vụ Helen Cadmus đã được khởi tố lại.
Ngài biện lí khu đã lưu ý rằng Jozephine Kempton được nhắc tới ở trên, tại thời điểm này đang bị giam giữ theo cáo trạng giết Benjamin Addicts, đã sống trên con tàu buồm của Addicts ở trong ngăn tiếp giáp ngăn của nữ thư kí kiều diễm. Helen Cadmus đã biến mất một cách bí ẩn trong đêm vào lúc bão biển lớn không xa bờ đảo Catalina. Bà Kempton khai với lời tuyên thệ rằng, khi uống thuốc chống say sóng có tác động gây ngủ, bà đã lên giường và ngủ thiếp đi.
Dù lúc ấy lời khai của bà không gây nên chút ngờ vực gì, ngài biện lí khu tuyên bố rằng, dưới ánh sáng các sự kiện gần đây việc điều tra liên quan với cái chết của Helen Cadmus được khôi phục.
‘Hiện thời’, ngài nói, ‘chúng tôi chưa đưa ra một sự buộc tội nào, bởi nhẽ lúc này chúng tôi chưa có đủ cơ sở để làm việc đó. Chúng tôi chỉ bình luận rằng cái chết của Helen Cadmus mà dạo đó được xem và vụ rủi ro bất hạnh trong giông bão, có thể có ý nghĩa khác hơn. Trong khi điều tra, chúng tôi đã hỏi cung bà Kempton về các sự kiện tối hôm ấy, lúc Helen Cadmus biến mất, và bà Kempton từ chối cho chúng tôi biết gì đó mới hơn. Đó là tất cả những gì tôi muốn thông báo’.»
Mason nghiến chặt răng, ánh mắt ông thành ra băng giá.
“Biết sao được,” Della nói, “Hardvic trung thực giữ lời hứa của mình.”
“Còn trung thực đến đâu hơn nữa,” Mason nói. “Tuyệt lắm, Della ạ. Hãy chờ đây một phút. Tôi ghé qua chỗ Paul. Người ta đã tuyên chiến với chúng ta, và tôi hi vọng rằng chỗ anh ấy có ít đạn dược gì đó cho chúng ta.”
“Tôi gọi cho anh ấy nhé?” Della hỏi.
“Không,” Mason nói. “Tôi ghé vào văn phòng anh ấy và tự mình xem chỗ anh ấy đang nấu món gì. Trong lúc ấy, cô hãy phôn cho các báo và nói với họ rằng, nếu họ phái đại diện của họ tới đây, tôi sẽ có tuyên bố liên quan đến vụ giết Addicts.”
“Tôi chờ cho đến khi anh nói xong với Paul, trước khi…?”
Mason lắc đầu.
“Anh muốn nói rằng, nếu chỗ Paul không có gì cho anh, thì anh vẫn sẽ phát biểu để bác bỏ một cách công khai?”
“Bác bỏ một cách công khai, Della ạ,” Mason nói, “trong trường hợp này sẽ chẳng cho chúng ta gì cả. Chúng ta phải buộc Hardvic và cả hội ông ta chuyển sang phòng thủ. Tôi cần gì đó thật gây chấn động. Nếu Paul đã chuẩn bị vũ khí cho chúng ta, tôi sẽ cho chúng vào cuộc. Nếu chưa, tôi sẽ bắn đạn giả, nhưng những viên đạn giả này sẽ gây nên cái tiếng động tới độ phía đối phương buộc phải vội vã chui vào hầm ẩn náu. Cô hãy gọi cho được các tòa soạn, và hãy phòng thủ pháo đài. Tôi sẽ quay lại ngay sau khi nói chuyện xong với Paul.”
Mason bước ra hành lang qua cánh cửa văn phòng của mình. Đi đến văn phòng ‘Hãng thám tử Drake’, ông mở rộng cửa, mắt bắt gặp cô điện thoại viên ngồi cạnh tổng đài, và hỏi, “Paul có trong phòng không?”
Cô ta mỉm cười. “Tôi đoan chắc rằng ông ấy vẫn ở trong đó.”
“Thật tuyệt vời,” Mason cười to, trong khi mắt lại nhìn một cô gái tóc sáng ngồi trong phòng tiếp khách: “Hãy chuyển cho anh ấy là tôi đang đến nhé.”
Mason bước qua cánh cửa nhỏ vào một hành lang dài dẫn tới phòng làm việc của Paul Drake, và bắt gặp Drake đang áp ống nghe vào tai. Nhà thám tử sắp ra những tờ giấy gì đó trong khi vẫn tiếp tục nói chuyện với một trong số điệp viên của mình.
Bằng cử chỉ Drake mời Mason ngồi và sau một thoáng nói vào ống nói, “Tốt. Hãy buộc bà ta kí vào sau ảnh, để không có sự ngờ vực nào về việc bà ta nhận dạng được họ. Giờ đây chắc bà ta không muốn viết bản khai với lời tuyên thệ đâu, nhưng cần ràng buộc để sau này bà ta không thế chối cãi được. Hãy xác nhận rằng bà ta thực sự nhận ra các bức ảnh.” Drake bỏ máy, mệt mỏi mỉm cười với Mason và nói: “Phỏng đoán của anh đã được khẳng định, Perry ạ.”
“Phỏng đoán nào mới được chứ?”
“Các số điện thoại Addicts dùng để gọi đến tàu và…”
“Anh muốn nói, các anh đã đánh hơi được ông ta đã ở với đàn bà?”
“Chính xác.”
“Với một phụ nữ hay nhiều người?”
“Trong cả hai trường hợp chỉ vẫn một phụ nữ - Helen Cadmus.”
Mason huýt sáo.
“Hầu như là may mắn để biết về sự kiện này. Mấy lần, khi tàu buồm đi vào cảng vào chín, mười giờ tối, Addicts rời khỏi bến, nhưng không về nhà cho đến sáng hôm sau. Tôi đã kiểm tra sổ trực tàu. Đôi lần, khi Addicts đi trên tàu, còn sau đã đổ bộ xuống Catalina và phái con tàu đi tiếp, ông ta điện thoại cho thuyền trưởng để ra chỉ thị cho ông này. Các hồi chuông điện thoại đúng là từ hai khách sạn này. Hiện thời tôi chưa kiểm tra được ngày tháng, nhưng không còn nghi ngờ gì nữa việc ông ta gọi đi từ đâu, và ở một trong hai khách sạn, bà chủ dứt khoát nhận ra họ. Bà chỉ đúng Benjamin Addicts và Helen Cadmus trên ảnh.”
“Ông ta đăng kí như thế nào?” Mason hỏi.
“Dĩ nhiên, ông ta sử dụng tên giả.”
“Họ thường ghi lại số xe hơi,” Mason nói, “ông ta…”
“Phải, ông ta cho họ số chiếc ‘Cadillac’ của mình.”
Mason trầm ngâm. Mắt ông thu hẹp lại.
“Khi vào anh có thấy trong phòng khách một cô tóc sáng không?” Drake hỏi.
“Có, là ai vậy?”
“Vừa lúc tôi định gọi anh và đề nghị cô ta chờ mấy phút. Đó là bà Blevins, vợ của nhà tâm lí học dạy thú nọ. Tôi đề nghị cô ta đến văn phòng tôi, bởi nhẽ…”
“Gọi cô ta nhanh lên,” Mason nói. “Tôi cần nói chuyện với cô ta. Còn bây giờ nghe này Paul: tôi cảnh báo một cách nguyên tắc - tôi không muốn bất cứ sự sơ suất nào sảy ra trong vụ này. Các chàng trai của anh phải kết nối chặt, thật chặt các đầu mối. Addicts ẩn dưới tên gọi thế nào?”
“Trong cả hai trường hợp cùng chỉ một tên mà thôi,” Barnuell. Ông ta đăng kí là B.F.Barnuell.
“Anh không nhớ tên thứ hai của Benjamin Addicts hả Paul?”
“Không, không nhớ.”
Mason búng ngón tay và nói, “Tôi sẵn sàng cá với mười cent,” F là Franclin. Benjamin Franelin Addicts.”
“Và sao?” Drake hỏi.
“Chắc chắn là ông ta thường đăng kí những chữ đầu tên mình, B.F. Còn bây giờ thế này, Addicts có nhiều phi vụ gắn với hầm mỏ. Ông ta thường đến Nevada. Tôi cần biết, B.F. Barnuell có dừng lại đâu đó trong khách sạn không. Hãy so sánh các số liệu trong khả năng có thể về Barnuell.
“Anh buộc phải,” Drake nói, “thanh toán một số tiền điên rồ đấy, Perry. Người của tôi…”
“Điều đó không quan trọng,” Mason cắt ngang ông ta, “lúc này tôi đang cần nhất là cái điều gì đó rất nghiêm trọng ẩn giấu đằng sau nó. Tôi không biết chính xác là gì. Có thể là trong nhật kí của Helen Cadmus cũng không có. Dù vậy, bất cứ ai có dính dáng đến Addicts chút ít, đều muốn lấy cho bằng được những nhật kí này với bất cứ giá nào. Tôi không tìm ra được gì trong nhật kí, dù đã đọc hết chúng. Nhưng những người khác chưa đọc chúng và cho rằng trong đó có gì đó rất quan trọng… Thôi được, hãy gọi bà Blevins lại đây đi.”
Drake nhấc ống nói, “Hãy mời bà Blevins đến chỗ tôi.” Ông ngả người ra ghế bành, dụi mắt bằng những ngón tay xương xẩu, ngáp và nói thêm: “Perry ạ, tôi đã chết rồi. Tôi ngồi đây suốt ngày suốt đêm…”
“Chúng ta sắp đến đích rồi,” Mason trấn an. “Chúng ta đã rơi vào một vỉa quặng vàng.”
“Tôi không biết có lợi lộc gì không cho chúng ta từ những mớ vô bổ này,” Drake bác lại. “Chàng trai giải trí với thư kí của mình - trong đó chẳng có chút gì đặc sắc cả. Chính anh biết đó là chuyện thường tình mà. Thú nhận đi, cô ta là cô bé mõ màng đến ma quái…”
“Biết, tôi biết,” Mason cắt ngang ông ta, “nhưng chúng ta đã chạm vào sợi chỉ có thể dẫn chúng ta đến đâu đó.”
“Thôi được, chỉ mong chóng lên cho,” Drake nói, “chứ không… giờ tôi sẽ chúi mõm về phía trước và…”
Cửa mở rộng. Trên ngưỡng cửa xuất hiện bà Blevins, một phụ nữ hai bảy tuổi tóc sáng với cặp mắt to xanh màu da trời. Quần áo hoàn toàn không hề che giấu các ưu điểm hình thể cô ta. Bà Blevins có thân hình hoàn hảo, và có lẽ, cô ta biết rất rõ về điều đó.
“Xin chào,” cô ta hướng về vị luật sư. “Ông là Mason. Tôi đã thấy ông đi vào. Tôi mỉm cười với ông, nhưng hình như ông không trông thấy tôi. Tôi là Phern Blevins, vợ cũ của Alen Blevins. Còn ông là Drake?”
Mason mỉm cười cúi chào cô ta, và bà Blevins đi tới chìa tay ra.
Drake hướng về Mason, “Anh sẽ nói chuyện với bà ấy hay là tôi?”
“Tự tôi,” Mason nói. “Mời bà ngồi, bà Blevins. Chúng tôi sẽ rất lì lợm trong sự hiếu kì của mình đấy.”
Biểu hiện trong cặp mắt xanh thẳm của cô ta lập tức thay đổi, cô ta nói, “Thế nếu tôi không muốn trả lời?”
“Ồ, chắc gì,” Mason nói với cô ta, “chúng tôi quan tâm đến cuộc li hôn của bà.”
“À, hoá ra điều đó!” cô ta kêu lên với vẻ nhẹ nhõm đi trông thấy. “Thế mà tôi đã sợ rằng các ông định đào bới trong đời tư của tôi.”
“Trước hết chúng tôi quan tâm đến việc,” Mason mỉm cười nói, “để làm sáng tỏ tất cả những gì đã diễn ra trong nhà Addicts”
“Ông có ý nói đến Stounhenge?”
“Vâng.”
“Tôi nghĩ đằng ấy không thiếu gì chuyện.”
“Đã bao giờ bà buộc phải ngủ qua đêm với chồng bà ở đấy chưa?”
“Ơn Chúa, chưa. Mà ông ấy cũng chẳng ngủ qua đêm đằng ấy. Ông ta làm việc tại đấy, và không gì hơn, dù đôi khi ban đêm trở về nhà khá muộn.”
“Tôi chú ý đến điều là trong đơn xin li hôn của bà, bà viện ra sự cưỡng bức về tinh thần,” Mason nói.
“Vâng, cách diễn đạt hóa ra đắc địa.”
“Bà có thể nói cho chúng tôi những chi tiết gì đó, không được bà nhắc tới trong đơn không?”
“Alen lớn tuổi hơn tôi nhiều,” cô ta nói.
“Bà là vợ thứ hai của ông ta?”
“Vâng.”
“Xin nói tiếp đi.”
“Ông ta… tôi có cảm giác, chúng tôi đã mệt mỏi vì nhau, và tôi đã chán ngấy làm một con thỏ thí nghiệm.”
Mason ném ánh mắt nhiều nghĩa sang Drake và hỏi, “Bà muốn nói là ông ta đã thôi miên bà phải không?”
“Vâng, đã thôi miên. Tôi nghĩ rằng chỉ dưới ảnh hưởng một kiểu như thôi miên tôi mới lấy ông ta.”
“Nhiều người có cảm giác như thế,” Mason nhận xét. “Có thể, bà nói cho tôi những chi tiết gì đó chăng?”
“Lúc ấy tôi làm thư kí,” cô ta nói, “và đôi khi giúp ông ta ghi chép những điều mà tôi không hiểu. Tự ông cũng biết - thôi miên gây hứng thú cho người ta. Tôi rất tò mò và hỏi nhiều về thôi miên… Lúc đó tôi cảm thấy ông ta rất đáng yêu, vào cái thời ông ta săn đón tôi ấy mà. Dù ông ta có làm gì đi nữa, mọi thứ đều có vẻ tuyệt vời.”
“Hãy tiếp đi,” Mason đề nghị.
“Tôi không biết mô tả điều đó với ông thế nào. Ở ta mắt rực sáng, và mỗi một phút bên cạnh với người đàn ông chất đầy niềm hạnh phúc phi trần thế. Sau đó ta lấy ông ta, và thay vào chỗ để cảm thấy ta hạnh phúc, thì ta bỗng phát hiện ra rằng ta đã chán điều đó đến tận cổ. Sự quyến rũ tan đi, và ta nhìn thấy rằng người đàn ông đó là kẻ tầm thường nhất. Thêm nữa, một kẻ ghen tuông, với đầu óc tư hữu luôn cố đánh hơi các bí mật của ta và sấn sổ tới với những lời buộc tội ngu xuẩn.”
“Bà tiếp tục làm việc sau khi đã lấy chồng?”
“Vâng.”
“Với chồng bà?”
“Không. Tôi có công việc cố định. Tôi đã không bỏ nó.”
“Bà có thể kể chi tiết hơn không về việc ông ta sử dụng bà với tư cách con thỏ thí nghiệm?
“Khi ông ta kể với tôi về thôi miên, ông ta hỏi tôi có muốn để ông ta thử thôi miên tôi hay không. Ông ta nhìn thẳng vào mắt tôi, và tôi cảm thấy một khoái cảm phục tùng trọn vẹn. Tôi cảm thấy rằng tôi sẵn sàng làm tất cả vì ông ta. Tôi muốn cho thấy tôi tin cậy ông ta đến mức nào, và tôi trả lời rằng tôi rất muốn.”
“Và gì sau đó?”
“Tôi không nhớ,” cô ta nói.
“Nghĩa là sao?”
“Đó chính là một trong những trò mà nhà thôi miên có thể làm được. Ông ta có thể thôi miên anh và ra lệnh, sau khi thức tỉnh anh quên sạch mọi thứ mà anh đã làm dưới ảnh hưởng thôi miên. Tôi đã thấy Alen làm hàng chục lần như thế với những người khác nhau. Ông ta có thể buộc họ làm những thứ ngu xuẩn nhất và nói điều vớ vẩn nhất và sau đó quên đi, kể cả việc họ đã bị thôi miên.”
“Những điều đó cũng đã từng xảy ra với bà?”
Cô ta gật đầu.
“Tôi nhìn ông ta và nói: ‘Nào, Alen, hãy thôi miên em…’, còn ông ta bỗng tuyên bố rằng đã thôi miên tôi rồi, tôi nghĩ đó đơn giản là lời nói đùa, và khi nhìn đồng hồ của mình tôi hiểu ra rằng ai đó đã vặn đồng hồ tôi vượt lên bốn mươi nhăm phút, hoặc đã qua đi bốn nhăm phút mà tôi không thể nhớ về chúng.”
“Và gì sau đó?” Mason hỏi.
Không đáp lại câu hỏi, cô ta lắc đầu, “Đó là sự điên rồ, dù như thế tôi vẫn muốn làm điều đó… và giờ thì tôi biết điều gì đã xảy ra rồi.”
“Điều gì?”
“Đó là sự khơi gợi sau thôi miên,” cô ta nói. “Nhà thôi miên có thể làm được như thế. Ông ta khuất phục ta dưới ảnh hưởng của mình và có thể buộc ta làm gì đó, ra lệnh cho ta trong trạng thái sau thôi miên, nghĩa là ông ta ra lệnh cho ta tỉnh dậy và quên đi rằng ta đã bị thôi miên, Qua mười hay mười lăm phút sau khi tỉnh dậy, anh sẽ làm một hành động ngu ngốc nào đó. Chính nó đã xảy ra như thế với tôi.”
“Xin tiếp đi,” Mason nói.
“Sau một ít thời gian chúng tôi cưới nhau.”
“Tác động thôi miên vẫn tiếp tục?”
“Ông ta sử dụng thôi miên, ông Mason ạ, thường xuyên hơn nhiều so với việc tôi ý thức được nó.”
“Bà có ý nói gì?”
“Đôi khi tôi nhận thấy tôi lại làm gì đó dưới ảnh hưởng của khơi gợi sau thôi miên - việc mà tôi không muốn đi sâu vào chi tiết.”
Mason chăm chú nhìn cô ta, nói, “Chúng tôi sẽ rất hàm ơn bà vì sự hợp tác với chúng tôi, bà Blevins ạ. Chúng tôi sẵn sàng bù đắp do sự bất tiện mà chúng tôi gây cho bà…”
“Vâng, ông Drake đã nói với tôi về điều đó, nhưng có những thứ không thể mua được bằng tiền.”
“Bà không thể nói rõ hơn một chút ư?” Mason hỏi.
Cô ta lúng túng.
Mason mỉm cười và nói, “Bà đã là một phụ nữ có chồng và…”
“Thôi được,” cô ta bật ra. “Tôi là một con ngu. Tôi cho phép Alen thôi miên tôi. Nếu như tôi đau đầu, ông ta dìm tôi vào giấc ngủ trong một hoặc hai phút, khi tôi tỉnh dậy, sự đau đầu biến mất và tôi cảm thấy mình được nghĩ ngơi trọn vẹn. Đôi khi, nếu bị kích động, tôi không thể ngủ nổi, ông ta thu xếp cho tôi một cuộc chữa bệnh ngắn bằng thôi miên với khơi gợi sau thôi miên. Sau đó, tôi trở nên đờ đẫn đến nổi thậm chí không giữ nổi đầu và… mọi sự cứ thế mà diễn ra. Còn sau, như tôi đã nói với ông, qua đi một thời gian, sự quyến rũ tan đi, và… tôi vẫn tiếp tục làm việc và… tôi không biết kể về điều đó thế nào đây với ông…”
“Xuất hiện người đàn ông khác?” Mason hỏi.
“Alen cho là như thế.”
“Thế trong thực tế?”
“Alen cho là tôi có một người đàn ông khác,” cô ta nhắc lại không một chút biểu cảm.
“Hãy tiếp đi,” Mason nói, “gì xảy ra tiếp theo?”
“Có lần vào buổi tối, khi Alen làm việc, bất ngờ nảy ra trong tôi một khao khát điên cuồng: viết mọi thứ về đời riêng của mình, điều mà hẳn không bao giờ tôi đi kể với bất cứ ai - viết và giấu điều viết ra xuống đáy cái hòm - và tôi không thể kìm được khỏi điều đó. Tôi đã viết đủ thứ về đời riêng của tôi rồi giấu tất cả mọi thứ đó dưới đáy hòm.”
“Và gì sau đó?” Mason nài nỉ.
“Sáng hôm sau tôi nghĩ tôi đã làm một điều ngu ngốc và quyết định lấy giấy tờ ấy ra đem đốt đi. Tôi đi vội tới chiếc hòm, và chắc ông đã đoán ra - ở đấy không có gì cả.”
“Bà nghĩ rằng đã làm điều đó do bị khơi gợi sau thôi miên?”
“Vâng. Cho đến lúc ấy tôi không biết ông ta đã kịp thôi miên tô vào lúc nào nữa, nhưng khơi gợi sau thôi miên vẫn còn hiệu quả. Như thế, tôi đã rõ rằng ông ta có những tờ giấy kia, và tất cả mọi thứ được viết trong đó ông ta có thể sử dụng như chứng cứ chống lại tôi.”
“Trong trường hợp li hôn?”
Bà ta nổ bùng, “Phải.”
“Và bà đã quyết định làm gì?”
“Quỷ tha ma bắt, Tôi suýt phát điên vì thịnh nộ, tôi nghĩ rằng tôi sẽ giết ông ta, nhưng sau đó tôi đã suy nghĩ: Có những trò chơi trong đó có thể chơi bằng hai người. Tôi đã không hề để lộ rằng tôi biết về sự biến mất của những tờ giấy đó. Tôi chờ vài ngày, và sau đó tôi xin nghỉ việc một ngày, rồi bắt tay vào lục soát khắp căn nhà, tôi đã lộn nhào ngôi nhà từ trên xuống dưới. Rút cuộc tôi cũng tìm ra chúng.”
“Ở đâu?”
Cô ta cười to, “Ông ta láu cá lắm. Ông ta xé một góc thảm phủ sàn, nhét giấy vào trong đó rồi khâu lại như cũ.”
“Và bà đã làm gì với những tờ giấy đó?”
“Đã tiêu hủy ngay lập tức, sau việc đó tôi bỏ đi khỏi nhà ông ta, đến gặp luật sư và viết đơn li hôn. Tôi đã không quay trở lại nữa và cố để sao cho Alen không bao giờ có được khả năng cắm cặp mắt xám ánh thép vào tôi.”
“Ông ta có thể thôi miên bà nhanh không?”
“Chỉ cần ông ta búng ngón tay là tôi đã rơi vào ảnh hưởng của ông ta rồi.”
“Hãy tiếp đi,” Mason nói.
“Alen cho rằng tôi nằm trong tay ông ta. Ông ta nghĩ, tôi sẽ không thể tiến hành nổi việc gì, nhưng khi ông ta đi lấy con chủ bài của mình, ở đấy chẳng còn gì nữa cả. Tôi buộc ông ta tội cưỡng bức tinh thần, và bởi ông ta lo để quá nhiều thứ nổi lên bề mặt thì… cuối cùng, tôi đã nhận được quyết định của tòa về li hôn.”
“Và lần thứ hai bà đi lấy chồng?” Mason hỏi.
Cô ta hơi đỏ mặt và nói, “Còn chưa. Quyết định hiện thời chưa có hiệu lực pháp lí.”
“Thế bao giờ nó có hiệu lực?”
“Vào tuần sau.”
“Và lúc đó bà sẽ lại định lấy chồng?”
“Vâng.”
“Lấy người đàn ông bà đã quen biết một thời gian?”
“Vâng.”
“Tôi cho rằng, ông này không phải là nhà thôi miên chứ?” Mason hỏi với nụ cười.
“Không, ông Mason ạ. Ông có thể đánh cá với bao nhiêu tiền cũng được.”
Mason mở ví, rút bốn tờ giấy bạc năm mươi đôla và nói, “Đây là hai trăm đôla, bà Blevins ạ, tiền bồi thường vì thời gian bị mất và sự khó chịu đã gây cho bà. Điều đó có ích cho bà như món của hồi môn.”
Cô ta nhận tiền, gấp chúng lại, giấu vào ví của mình và nhìn Mason bằng cặp mắt đầy hàm ơn.
“Ông Mason ạ, điều đó… thật đáng yêu.”
“Dĩ nhiên, chúng tôi đánh giá cao sự cởi mở của bà,” Mason nói, “còn bây giờ hãy nói với chúng tôi: thế có hay không, từng có lúc nào đó Alen đã thôi miên bà và buộc bà phải nhớ lại điều không hề có trong thực tế?”
“Có. Đó là một trong những tiết mục ông ta yêu thích. Ông ta thôi miên ai đó và dựng lên những điều bịa đặt đủ thứ về việc dường như đã diễn ra, sau đó ra lệnh cho con người tỉnh dậy và không suy nghĩ về điều đó trong một hay hai giờ, nhưng lưu giữ trong trí nhớ tất cả những gì ông ta đã khơi gợi. Qua hai giờ, do kết quả khơi gợi sau thôi miên anh ta bắt đầu kể về điều đó.”
“Và ông ta đạt được điều đó à?”
“Với một số người. Tất nhiên, ông Mason ạ, không phải thôi miên ai cũng được…”
“Tôi hiểu, và còn nữa: cô có biết ông ta đã từng bao giờ thôi miên Jozephine Kempton, quản gia ông Addicts hay chưa?”
“Tôi nghĩ, đã từng. Tôi nhớ, có lần ông ta đã nhắc tới việc nhờ bà ấy, ông ta đã trình diễn gì đó cho ông Addicts xem.
“Bà còn rõ thêm gì đó mà nó có thể giúp chúng tôi được không?” Mason hỏi.
“Không.”
“Thôi vậy, rất cảm ơn. Tôi nghĩ không cần phải giữ bà lâu thêm nữa, bà Blevins ạ, nhưng sau này chúng tôi có thể còn cần nói chuyện thêm với bà đấy.”
“Vào bất cứ lúc nào,” cô ta nói, “bất cứ lúc nào sau bốn giờ. Ông hãy gọi điện thoại cho tôi, và tôi sẽ đến vào khi nào tiện lợi cho ông. Chỗ ông Drake có số của tôi đấy.”
“Cảm ơn bà,” Mason nói.
Cô ta đứng lên khỏi ghế và đi ra cửa, sau đó bất thần quay một vòng, lại gần Mason và nắm lấy tay ông.
“Ông thật đáng yêu,” cô ta nói. “À, còn điều nữa, có thể nó sẽ cần cho ông. Họ thật của ông ta không phải là Addicts. Tôi biết chính xác. Alen đã có lần thôi miên ông ta và biết thực ra ông ta là Barnuell. Nếu ông cần thêm gì nữa, chỉ cần ông cho tôi biết…”
Và nhìn Mason bằng cặp mắt biết ơn, cô ta nở nụ cười rộng, sau đó mở cửa và quay phắt lại rất nhanh khi bước ra hành lang, đến nỗi cái váy cô ta tốc ngược lên với một đường lượn tròn tinh nghịch.
“Thế nào, có chút lợi lộc gì từ cô ta không?” Drake hỏi.
“Paul ạ, sau mấy phút cuối tôi thực sự biết các điều có lợi. Hãy ra lệnh để các chàng trai của anh bắt đầu làm việc tại Nivada, còn mình hãy đi về nhà, ngâm ấm người cẩn thận trong nước nóng, bò lên giường và ngủ đi.”
“Anh nói nghiêm túc đấy à?” Drake hỏi vẻ kinh ngạc.
“Không thể nghiêm túc hơn được nữa,” Mason nói và bước nhanh ra khỏi văn phòng của Drake.
Qua hết hành lang, Mason mở cửa phòng làm việc riêng của mình.
Della, đứng bên bàn của ông đang lựa chọn những giấy tờ gì đó, ngước nhìn vị luật sư.
Mason nhảy hai bước dài đến bên cô, ôm lấy cô và nhấc bổng lên khỏi mặt đất, sau đó xoay vòng và áp cô vào mình.
“Bé ạ,” ông nói, “chúng ta đã bắt gặp một vỉa vàng.”
Cô nhìn ông với nỗi buồn nhẹ, “Chỉ có thể gắn biểu lộ nỗi khoái trá này với chuyện đó.”
“Đó không phải là khoái trá,” Mason nói, áp cô chặt vào mình hơn, “đó là khát vọng.”
“Biết sao được,” cô nói, “đó là một thông tin đặc biệt quan trọng?”
“Cô gọi được cho báo chí chưa?” Mason hỏi.
“Rồi. Các phóng viên đang tới đây. Tôi nói rằng không thể trì hoãn, và họ đang phóng hết tốc lực đến đây.”
“Khá lắm,” Mason nói và nhìn chăm chú vào mắt cô.
Cô đặt hai tay lên vai ông, và khuôn mặt cô ngửa ra. Mason dịu dàng cúi xuống phía trên cô. Môi họ gắn vào nhau trong một cái hôn dài, sau đó cô đột ngột đẩy ông ra, rút từ hộp trang điểm một chiếc khăn giấy và chùi son trên môi ông.
“Sếp à,” cô kêu lên, “anh quên rằng cả đạo quân nhà báo tinh mắt có tài quan sát có thể xông vào đây bất cứ lúc nào ư?”
Mason mỉm cười, vỗ vỗ lên vai cô và nói, “Được rồi, Della a. Chúng ta sẽ cho họ một thứ mà nó sẽ lắc kha khá ngài Sydney Hardvic và đặt ngài ta vào đúng chỗ.”
“Tuyệt lắm. Tôi hi vọng là sẽ như thế. Miệng tôi thế nào? Son bị nhoè không? À, dù sao thì anh cũng có nhận ra đâu!”
“Tôi nhận ra tất cả không tồi hơn bất kì gã nhà báo tinh mắt nào,” Mason nói.
Cô cười vang, đi lại chiếc gương, chạm khẽ thỏi son lên môi và nói, “Có ai đó đứng ngoài cửa phòng tiếp khách.”
“Tôi sẽ nói với các nhà báo ở ngoài ấy,” Mason nói.
Ông bước theo sau cô ra phòng tiếp khách và chào hai nhà báo đến cùng một lúc. Trong khi ông mời họ thuốc lá, người thứ ba rồi sau người thứ tư đến.
“Nào, ngài định thông báo với chúng tôi những tin tức lớn lao gì vậy?” một phóng viên hỏi. “Tôi hi vọng đó là tin là thú vị. Nói thật, chúng tôi suýt gãy cổ trong lúc bay đến đây. Thư kí của ngài tuyên bố rằng đó là tin giật gân.”
“Nó đúng là thế, giật gân,” Mason khẳng định.
“Thế nó là gì vậy?”
“Các vị rõ về bản di chúc tự tay Benjamin Addicts viết chứ?”
“Tất nhiên. Tôi hi vọng là ông không định thông báo tin mới đó cho chúng tôi. ‘Hardvic, Carson và Redding’ đã cho tin ấy hai giờ trước đây rồi. Nó đã lọt vào số báo cuối.”
“Tuyệt vời,” Mason nói, “nhưng di chúc không có hiệu lực.”
“Ngài có ý nói gì, tại sao mà không có hiệu lực?”
“Chính tôi muốn nói về điều đó đấy,” Mason đáp. “Ông ta không để lại sự sắp đặt gì liên quan đến vợ mình.”
“Liên quan đến vợ? Benjamin Addicts là người độc thân.”
“Có những kẻ muốn cho các vị nghĩ đúng như thế.”
“Ngài muốn nói rằng ông ta có vợ?”
Mason gật đầu.
“Ma quỷ nào…? Đừng lỡm chúng tôi, Mason. Các ngài,… Benjamin Addicts là một nhân vật quá nổi bật. Tất nhiên, ông ta là típ người buồn tẻ cộng thêm bị chập mạch trong các thí nghiệm của mình với lũ đười ươi, nhưng ông ta là người đàn ông nổi tiếng. Nếu ông ta cưới ai đó, thì điều đó chắc đã lọt vào mặt báo. Tôi không nghĩ nó sẽ dấy lên một hứng thú gì đặc biệt, nhưng hẳn phải có trên báo. Nhưng cái chiếm trọn cuộc sống ông ta đó là tình trạng tín phiếu nhà băng và vườn thú riêng với những con đười ươi của mình.”
“Các vị quên rằng trong lí lịch của ông ta có những vết trống lớn,” Mason nhận xét. “Ông ta có vợ.”
“Ông ta tổ chức cưới ở đâu?”
“Ít ra cũng đã cưới ở đâu đó.”
“Nào, nào, hãy bày ra cho chúng tôi rõ ngọn ngành đi!”
“Benjamin Addicts có một người đàn bà,” Mason nói, “mà ông ta cùng sống như với vợ của mình.”
“Ông ấy sống với bà ta ở đâu?”
“Một thời gian ngay trong nhà ông ta.”
“Có phải ông muốn nói rằng Jozephine Kempton…”
“Đừng nên vội vàng như thế,” Mason nói. “Vợ ông ta là Helen Cadmus. Thưa các vị, tôi có thể trao cho các vị địa chỉ một số khách sạn trong đó họ đã sống như vợ chồng, và có thể đoan chắc với các vị rằng họ được nhận ra không hề nhầm lẫn trong các tấm hình. Các vị có thể cầm theo ảnh Helen Cadmus và kiểm tra, nếu các vị muốn.”
“Chà chà, ngài hãy bỏ quách chuyện đó đi,” một trong số phóng viên thất vọng kéo dài giọng, “toàn bộ chỉ là ông ta giõn chơi với thư kí thôi mà. Điều đó chưa có nghĩa là ông ấy đã cưới cô ta hoặc là di chúc của ông ấy vì thế mà không có hiệu lực.”
Mason nhếch mép.
“Các vị là những thám tử giàu kinh nghiệm. Vậy hãy chú ý tới sự kiện rằng: trong các khách sạn cặp đôi này đăng kí là ông và bà B.F. Barnuell.”
“Barnuell?”
“Đúng vậy.”
“Thế thì sao,” một phóng viên nói, “Để thừa nhận một đám cưới dân sự không đăng kí là hợp pháp, nhất thiết cần chứng minh…”
“Thế ai nói về đám cưới dân sự?” Mason hỏi.
“Chính ngài nói, lẽ nào không phải? Theo như tôi hiểu, tại bang chúng ta điều đó không có chút ý nghĩa nào cả. Và nếu mọi sự đều như thế, thì ông ấy phải sử dụng họ tên thực của mình…”
“Thế họ tên thực của Addicts là thế nào?” Mason hỏi.
“Tất nhiên là Addicts rồi.”
“Thế tên đó có chính xác không?”
“Ồ dĩ nhiên. Ông ấy… Hượm nào… thế từ đâu ngài đào ra cái tên Barnuell ấy?”
Mason chỉ mỉm cười thay lời đáp.
“Thế có điều gì bí ẩn về đám cưới dân sự vậy?” một trong số họ hỏi.
“Tại một số bang nó được công nhận,” Mason nói, “còn tại một số thì không. Nhưng nếu người đàn ông du lịch với người đàn bà mà ông ta gọi là vợ mình ở một bang, nơi đám cưới dân sự được xem là hoàn toàn hợp pháp. Và thưa các ngài, các ngài đã bỏ qua mất: tại đây, ở bang chúng ta, nếu hai người sống cùng nhau như vợ chồng, nảy sinh một tình huống tranh cãi về sự thừa nhận cuộc hôn nhân hợp pháp. Sự việc đó có thể được giải quyết tại tòa, qua lời khai của các nhân chứng.”
Các phóng viên liếc nhìn nhau.
Mason mở cuốn sách đáng nể và đặt nó lên bàn, “Chỗ này đây, mục mười ba điều khoản 1.974, bộ luật tố tụng dân sự.”
“Thế lúc ấy sẽ ra sao với di chúc của ông ấy?” một phóng viên hỏi.
“Ông ta không nhắc đến tên Helen Cadmus. Nếu họ đã sống như vợ chồng, thì hôn nhân cho cô ta cơ sở tranh quyền thừa kế với tư cách người thừa kế hàng đầu. Như vậy, bản di chúc hoàn toàn có thể bị bác bỏ.”
“Nhưng ông ấy không thể nhắc đến Helen Cadmus. Cô ta chết rồi cơ mà.”
“Ai nói với các vị điều đó?”
“Ngài cho rằng cô ấy đơn giản là chỉ dạo chơi trên mặt nước thôi ư? Hãy cho chúng tôi các sự kiện, nếu ngài muốn chúng tôi đăng dù chỉ là gì đó.”
“Còn tôi, tôi sổ toẹt vào việc các vị sẽ đăng gì đó hay không,” Mason nói, “nhưng Helen Cadmus không hề tự vẫn.”
“Ngài muốn nói rằng cô ta bị giết?”
“Cô ấy không bị giết.”
“Vậy thì, ông muốn nói gì?”
Mason đáp, “Tôi muốn nói rằng, vì một số lí do theo Benjamin Addicts và Helen Cadmus cho là nặng lí, cô ấy quyết định ẩn kín. Các vị có thể tự mình làm lấy kết luận.”
Trong một thoáng bao trùm sự im lặng như mồ.
“Ngài có ý nói, cô ấy quyết định ẩn mình một thời gian nào đó để sinh con?” một trong số họ hỏi.
Mason nhún vai, “tôi mới chuyên sâu vào chuyện này có mấy tiếng đồng hồ, nhưng tôi không ngừng nhận được thông tin mới, mà tôi buộc phải kiểm tra và phân tích. Tôi cho rằng, các vị cũng muốn khởi đầu, vạch ra đôi chữ vì chuyện này…”
“Vạch ra vài chữ, điều đó thì tuyệt đấy. Nếu chỗ ngài có gì đó khẳng định ý tưởng này, tiêu đề sẽ được đảm bảo chạy dọc hết trang báo. Một chuyện nẫu ruột làm sao, tin giật gân đích thực!”
“Tuyệt, Mason nói, “lúc ấy hãy tự đánh giá lấy. Ai trông thấy Helen Cadmus trên boong tàu vào cái đêm giông bão ấy? Ai trông thấy Helen Cadmus sau khi tàu rời bờ?”
“Ai đó trong thủy thủ đoàn, lẽ nào không?”
“Chỉ có một người”, Mason nói, “kẻ đã khẳng định rằng từng thấy cô ấy - Đó là Addicts.”
“Và Jozephine Kempton.”
“Không, bà Kempton không nhìn thấy cô ấy,” Mason phản bác, “bà nghe thấy tiếng gõ của máy chữ ở phòng bên cạnh. Sau đó máy ngừng gõ. Trên máy ai cũng có thể gõ - ví dụ Addicts. Bà Kempton uống một liều thuốc ngủ và thiếp đi. Còn buổi sáng khi bà tỉnh dậy, thì nghe được nghe Helen Cadmus mất tích.”
“Ngài có thể khẳng định điều này dù chỉ bằng gì đó không?” một phóng viên hỏi.
“Tất nhiên,” Mason nói, “hãy nhớ là tôi có các nhật kí của Helen Cadmus.”
“Và cô ấy viết gì đó liên quan đến việc sinh đứa trẻ?”
“Tôi sẽ cho các vị xem chỗ đó,” Mason nói.
Ông lấy nhật kí và mở nó ở trang do Della phát hiện và được đánh dấu bằng nẹp giấy.
“Đây này. Đó là tự tay Helen Cadmus viết:”
«Hôm nay tôi báo cho B. tin mới này. Thoạt đầu anh rất xúc động. Sau khi đã suy ngẫm nghiêm túc về điều đó, tôi hiểu rằng, mọi chuyện sẽ ổn thoả. Anh sẽ tự hào về điều đó.»
Các nhà báo nghiên cứu kĩ lưỡng trang này.
“Nghe này,” một trong số họ nói, “hãy cho chúng tôi mượn những cuốn nhật kí này. Chúng tôi có thể đọc qua chúng ngay tại đây, trong phòng đọc của ngài, và may ra chúng tôi sẽ tìm ra được thêm điều gì đó mà…”
Mason lắc đầu từ chối.
“Chỉ có cái gì tôi chỉ cho quý vị thôi. Đó hợp cho tựa đề của bài báo rồi.”
“Từ đó chả thành được bài báo gì cả. Đó là một lý thuyết trần trụi, không có gì khẳng định. Chúng tôi không thể viết với mỗi chi tiết như thế.”
“Quỷ tha ma bắt, hoá ra các vị không thể!” Mason kêu lên. “Thế các vị có nhiều không những chứng cứ để buộc Jozephine Kempton vào tội giết Helen Cadmus?”
“Thì có ai nói bà ta giết Helen Cadmus đâu. Chúng tôi viết là chính quyền đang tiến hành điều tra thôi.”
“Tuyệt,” Mason nói, “còn giờ đây các vị có thể cam đoan với bạn đọc rằng: trên cơ sở phân tích những ghi chép được trích dẫn từ nhật kí, hiện đang có mấy tá thám tử ‘Hãng thám tử Drake’ đang rà soát các khu vực trên đất nước với mục đích khẳng định ý tưởng của tôi là hoàn toàn chính xác. Còn nếu các vị về chỗ mình và ngó qua vụ Helen Cadmus, thì sẽ phát hiện ra rằng: không một người nào trong thủy thủ đoàn nhìn thấy Helen Cadmus sau khi tàu xuất phát.”
Hơn thế nữa, điều này rất quan trọng: không ai rõ, công việc mà cô ấy thực hiện cho Benjamin Addicts đó là việc gì. Addicts nói rằng, khi ông ta rời đi, cô ấy đang đánh máy trong buồng cô. Muộn hơn người ta hỏi ông đã nhận được các tài liệu đánh máy chưa, ông ta đáp là chưa và rằng ông ta nhìn thấy cô ấy lần cuối khi cô đang mã hóa bản ghi tốc kí, hãy chú ý đến điểm này một cách đặc biệt. Nếu cô ấy tự tử, hẳn khi nhảy ra khỏi tàu, cô không mang theo những tài liệu đánh máy xong. Nếu cô định kết thúc cuộc đời bằng cách tự vẫn, thì cô đã chẳng thèm đánh máy chúng. Đơn giản là cô ấy cứ nhảy ra khỏi tàu, bỏ lại các ghi chép chưa mã hoá trong sổ tay ghi tốc kí của mình. Ngay từ phút tôi nắm lấy việc điều tra vụ án, tôi đã rất muốn làm sáng tỏ chuyện gì xảy ra với các tài liệu do Addicts đọc cho cô vào đêm cô mất tích ấy. Có các tấm ảnh trong căn buồng, như mọi người cho là nơi cô đã ở sau khi con tàu tiến ra biển. Còn bây giờ, thưa các vị, hãy xem kĩ các tấm ảnh này và các vị sẽ nhận ra hai hoặc ba điểm bất thường. Cái máy đặt trên bàn như cần thiết, và xung quanh vương vãi một số giấy tờ, nhưng cho đến giờ tôi vẫn chưa tìm ra nổi người đã trông thấy trong buồng dù là một tài liệu nào đó được đánh máy. Nhưng bức ảnh này làm tôi quan tâm đặc biệt. Nó được chụp sau khi tàu đến Catalina, và trên đó chụp buồng của Helen Cadmus. Nào bây giờ, thưa các vị, hãy nhìn kĩ xem - các vị có nhận ra gì đó thật là kì quặc không?”
Các nhà báo xem tấm ảnh một cách kĩ lưỡng.
Mason nói, “Những khăn treo trên một mắc đã được sử dụng. Đó là những khăn treo cạnh cửa vào buồng Jozephine Kempton. Những chiếc khăn cạnh cửa vào buồng Helen Cadmus thì chưa có ai đụng đến. Các vị cho rằng, cô ấy ở trên tàu, đã ghi tốc kí, đánh máy nhiều giờ mà không một lần rửa tay, thậm chí chưa giở khăn ra ư?”
Một nhà báo huýt sáo khẽ, nói với Mason, “Này, ngài thực sự đúng là một thám tử tài ba.”
Mason nhếch mép, “Thưa các vị, các vị xuất phát đồng thời với cảnh sát. Hẳn thật là tuyệt diệu, nếu chính các vị tìm ra Helen Cadmus, chắc chắn các vị sẽ khẳng định được tính chân thực về các dự đoán của tôi, lúc ấy các vị sẽ có tư liệu đáng giá hơn nhiều so với những lời buộc tội rỗng tuếch của phía có quan tâm. Tôi rất muốn biết, mong muốn của chủ bút các vị lớn đến mức nào để kiếm được đặc quyền phỏng vấn Helen Cadmus và câu chuyện đích thực về vụ án mạng được phỏng đoán. Nhưng tôi cho rằng, người nào đào ra được mọi thứ đó, có thể tính đến một loạt bài với chữ kí của chính mình, đặc biệt nếu anh ta quay được phim phỏng vấn. Đó là tại sao tôi đã đặt cho các vị những điều kiện bằng nhau. Đây là tên hai khách sạn nơi họ đăng kí là ông và bà B.F. Barnuell, còn đây là mấy tấm ảnh để các vị khỏi phí thì giờ vô ích trong phòng lưu trữ tòa soạn của các vị.”
“Bamuell,” một trong số họ trầm ngâm thốt lên. “Nghe này, tay Hardvic đã nhận điện tín của Herman Barnuell. Ông ta…”
Anh ta bỗng im bặt giữa chừng. Trong thoáng giây nào đó tất cả các phóng viên đứng như trời trồng, sau đó một người lao vọt ra cửa. Ngay lập tức cả bốn người lao như điên trên hành lang.
Mason mỉm cười với Della, “Sáng mai ta sẽ gửi cho ngài Sydney Hardvic vài tờ báo và nhắn tin cho ngài ta rằng chính chúng ta cũng biết cách hành động nhanh.”