Chương 16
Buổi phỏng vấn mà Mason dành cho các phóng viên báo chí gây nên phản ứng tức thì.
Sydney Hardvic, luật sư đại diện cho quyền lợi của Benjamin Addicts khi ông ta còn sống, và là luật sư đại diện cho bên buộc tội của nhà nước, lập tức phê phán phỏng vấn của Mason là ‘bịa đặt từ đầu chí cuối, trong đó cái mong muốn được xem như thực tế, là mưu toan thay đổi bản chất sự việc; sự tưởng tượng mãnh liệt cố tìm dù là một khe hở nào đó cho thân chủ của mình đã bị tuyệt vọng’.
Vị biện lí khu Hamilton Berger đánh giá nó còn gay gắt hơn: ‘Đó là mưu toan vượt khỏi trách nhiệm, bôi đen thanh danh cô gái quá cố đã không thể tự vệ bản thân. Đó là ý đồ đểu giả đáng khinh, nảy nòi từ sự dối trá, sinh ra trong tuyệt vọng, và cuối cùng, không có khả năng đem lại gì cho thân chủ, ngoài điều có hại’.
Mason, với những tờ báo dưới nách, đi vào phòng xử án để có mặt trong buổi nghe sơ thẩm vụ án ‘Nhân dân chống Jozephine Kempton’.
James Etna xích lại gần ông và nói nhỏ, “Tôi nghĩ chúng ta sẽ không gặp những vấn đề lớn để xin hoãn vụ xét xử này, ngài Mason ạ.”
“Thế ai muốn hoãn?” Mason hỏi.
“Trời ơi, hẳn lúc này chúng ta không muốn có mặt trong cuộc xét xử của tòa án, với tình thế sự việc thế này, đúng không?”
“Chúng ta, có thể không muốn lắm phải có mặt lúc này tại cuộc phán xử của tòa,” Mason nói, “nhưng riêng tôi, tôi muốn nghe họ có thể đưa ra điều gì với tư cách bằng chứng trong buổi nghe sơ thẩm.”
“Đành thế, ngài là sếp, ngài rõ hơn,” Etna nói với ông, “nhưng tôi biết ngài biện lí khu định hoãn việc xem xét vụ án. Dĩ nhiên, ngài ấy muốn luật sư bào chữa đề nghị ngài ấy về điều đó.”
***
Chính án Mandy chiếm vị trí của mình trên ghế. Tòa yêu cầu sự chú ý.
“‘Nhân dân chống Jozephine Kempton’,” chánh án dõng dạc nói.
“Bên bào chữa sẵn sàng,” Mason nói.
Trên mặt vị biện lí Berger thể hiện sự bối rối, “Theo như tôi hiểu, ngài luật sư muốn yêu cầu hoãn nghe vụ án, và bên nguyên cáo sẵn lòng đồng ý cho phép hoãn.”
“Tôi không biết tại sao ngài cho là thế,” Mason nói ngay.
“Tôi được rõ điều đó từ câu chuyện của người đã trao đổi với James Etna, luật sư tiến hành vụ án cùng ngài.”
“Thật thế sao?” Mason ngạc nhiên. “Thế người đó là ai và ông ta đã nói gì cơ chứ?”
“Tôi không thích để lộ nguồn cung cấp thông tin của tôi.”
“Tôi không đề nghị hoãn và tin chắc rằng ngài Etna cũng không yêu cầu,” Mason bác lại.
“Tôi không khẳng định rằng ngài ấy xin phép hoãn.”
“Bên bào chữa có quyền bắt đầu vụ tố tụng, nếu họ không có phản đối,” chánh án Mandy can thiệp.
“Chúng tôi sẵn sàng bắt đầu,” Hamilton Berger u ám nói.
“Rất tốt, xin mời bắt đầu đi.”
Với tư cách nhân chứng thứ nhất Berger gọi một trong số cảnh sát đã nhận qua điện đàm lời gọi đến Stounhenge. Người cảnh sát mô tả bối cảnh mà anh ta phát hiện ra ở đấy, kể về gã vệ sĩ ban đêm chạy quanh ngôi nhà với khẩu súng ngắn trong tay, về lũ chó xua con đười ươi lên cây, về hai con đười ươi khác tự do tha thẩn khắp nhà, về những cái cũi bị mở, về cái xác được phát hiện trong phòng trên tầng hai, và về sự lộn xộn hồi cuối được khơi lên bởi những nỗ lực xua mấy con đười ươi khổng lồ vào chuồng. Cuối cùng, nhờ hai chuyên gia của vườn bách thú ném các thứ quả tẩm thuốc ngủ và nỗ lực hợp tác của cảnh sát và các đơn vị cứu hoả, lũ khỉ bị dồn vào chuồng ngay trước bình minh.
“Có thể bắt đầu việc hỏi cung chéo,” vị biện lí khu nói.
Mason mỉm cười.
“Bên bào chữa không có câu hỏi.”
Berger gọi người cảnh sát tuần tra trông thấy Mason và bà Kempton, như anh ta diễn đạt, ‘cố chạy trốn trên phố Rouz street’. Muộn hơn Della gia nhập vào với họ. Anh ta tuyên bố với họ rằng họ phải bị đưa tới Cục cảnh sát để lấy cung.
“Hãy bắt đầu hỏi cung chéo đi,” Berger nói.
“Theo như tôi hiểu,” Mason nói, “ông khẳng định rằng bị cáo và tôi cố chạy trốn trên Rouz street.”
“Vâng, thưa ngài, chính tôi đã khẳng định như thế đấy.”
“Và ông xếp chúng tôi ngồi vào xe.”
“Phải, thưa ngài.”
“Từ đâu mà ông biết rằng chúng tôi cố chạy trốn?”
“Ồ, tại vì cách xử sự của các vị, bước đi rất nhanh và luôn luôn ngoái lại đằng sau.”
“Hiểu rồi,” Mason nói, “nghĩa là, nhanh chóng sau khi xếp chúng tôi ngồi lên xe, ông chạy trốn về Cục cảnh sát, đúng vậy không?”
“Tôi đã làm gì?”
“Ông chạy trốn về Cục cảnh sát.”
“Tôi đưa các vị về Cục cảnh sát.”
“Ông bỏ lại đằng sau một cảnh địa ngục khủng khiếp, những dấu hiệu rõ ràng của mối hiểm họa. Ông rời khỏi ngôi nhà nơi lũ đười ươi đang nhởn nhơ tự do, nơi chó sủa, còi báo động rú.”
“Tôi đã làm thế bởi tôi thi hành mệnh lệnh.”
“Nhưng ông đã bỏ trốn, chả thế sao?”
“Không.”
“Nhưng ông đi khỏi đó khi bỏ lại đằng sau cảnh lộn xộn đó?”
“Tôi có lệnh rời khỏi đó để đưa các vị về Cục cảnh sát.”
“Bất chấp sự kiện là ông không chạy, ông đã ngoái lại mấy lần, ngoái qua vai, đúng không?”
“Thì sao, tôi ngó vào gương chiếu hậu hai hoặc ba lần gì đó…”
“Và ngoái ra sau, qua vai?”
“Có thể là đã ngoái lại, rất nhanh.”
“Dĩ nhiên, rất nhanh,” Mason nói, “nếu khác thì không thể, ông đang lái xe mà, ấy thế nhưng ông vẫn ngoái lại qua vai mấy lần.”
“Có thể, ừ ngoái lại. Có lẽ là có.”
“Ông không nhớ ư?”
“Tôi không nhớ chắc chắn.”
“Và dù vậy ông khẳng định, nếu dẫn chính những lời của ông, ‘có lẽ, là có’.”
“Điều đó thì đúng. Ở đây thì ông thắng.”
“Bây giờ ông sẵn sàng thề là đã ngoái lại? Ông khẳng định điều đó với lời tuyên thệ?”
“Phải!” nhân chứng quát lên.
“Thưa tòa,” Hamilton Berger phản đối, hưởng về chánh án, “tôi cho rằng câu hỏi này được hỏi hàng chục lần rồi, và nó đã được trả lời.”
“Tôi có chiều hướng đồng tình với ngài,” chánh án nói.
“Tôi chỉ muốn làm sáng tỏ vấn đề này đến tận cùng,” Mason nói. “Tôi muốn để quý tòa hiểu thấu quan điểm của nhân chứng này. Ông ta không nhớ chắc ông ta có ngoái qua vai hay không nữa, nhưng ông ta vẫn sẵn sàng tuyên bố rằng ông ta đã làm thế chỉ vì là ông ta có thể làm được như thế. Giờ đây ông ta nhất định sẽ thề việc mà ông ta trong thực tế không nhớ chắc chắn. Điều đó trình bày rất trực quan quan điểm của nhân chứng.”
“Tôi đã nói với ngài rằng, thực sự tôi đã ngoái lại và nhìn qua vai ra đằng sau.”
“Nhưng ông không nhớ chắc chắn có ngoái lại hay không.”
“Tốt lắm,” người cảnh sát tuyên bố hùng hổ, “giờ đây tôi đã nhớ lại chắc chắn, rằng đã ngoái lại.”
“Vào khi nào thì ông đã nhớ lại chắc chắn?”
“Vừa đây thôi.”
“Như vậy, khi ông tuyên thệ một cách long trọng rằng không nhớ chính xác, ông ngoái lại hay không nữa, ông đã nghĩ cẩn thận điều đó chưa?”
“Điều đó thì đúng.”
“Như thế, ông đã trả lời câu hỏi mà không hề nghĩ ngợi?”
“Phải.”
“Nói khác đi, trước tiên ông nói rồi sau mới suy nghĩ?”
“Tôi không biết.”
“Thế ông ngoái lại đằng sau để làm gì, nếu ông không chạy trốn?” Mason hỏi.
“Thuần tuý do hiếu kì. Khi ngài nghe thấy đằng sau sự lộn xộn như thế, lũ khỉ chạy xung quanh, điều đó hoàn toàn bình thường, ngoái và xem cái gì diễn ra đằng kia, trong khi ta đang rời khỏi hiện trường.
“Nghĩa là, như bây giờ tôi có thể hiểu từ những lời khai của ông với lời tuyên thệ,” Mason nói, “không hề có gì chỉ ra rằng thân chủ và tôi chạy trốn khỏi hiện trường.”
“Chính tôi đã nói là có mà.”
“Có gì?”
“Trong chuyện các vị xử sự, chắc tôi nói là có gì đó không như thế.”
“Ông có thể đoán gì đó đang xảy ra không như thế khi đến khá gần để nghe thấy còi hú, vậy chứ?”
“Phải.”
“Như thế,” Mason nói, “ông muốn thuyết phục quý tòa trong việc là đối với ông, ngoái lại và xem gì đang diễn ra là hoàn toàn tự nhiên khi ông rời một hiện trường dạng ấy, còn trong trường hợp với thân chủ tôi và tôi thì điều đó là chứng cớ của sự chạy trốn.”
“Hành vi của các vị chứng tỏ về điều đó.”
“Về điều gì cơ?”
“Tôi đã mô tả tất cả rồi.”
Mason giơ tay trái lên và gập ngón trỏ xuống, “Thứ nhất,” ông nói, “ông tuyên bố là chúng tôi đi nhanh. Thứ hai: ông nói rằng chúng tôi luôn luôn ngoái lại. Nào, chúng tôi làm gì đáng ngờ nữa?”
“Đó là tất cả. Từng ấy là đủ rồi.”
“Tuyệt lắm,” Mason nói. “Khi ông rời khỏi đó, ông đi nhanh, đúng thế không?”
“Đó hoàn toàn là việc khác.”
“Nhanh hay không?”
“Có.”
“Và đồng thời,” Mason đế thêm, “ông ngoái lại không phải một lần. Phải thế không?”
“Phải.”
“Ông tin chắc vào điều đó?”
“Chắc.”
“Bây giờ ông nhớ lại một cách chính xác rằng đã ngoái lại?”
“Phải.”
“Nhưng ông không nhớ điều đó chắc chắn mà, khi lần đầu tiên đưa ra lời khai với sự tuyên thệ.”
“Tất nhiên, nhớ chứ.”
“Và như thế,” Mason nói, “ông cố che giấu điều đó.”
“Tôi nhận ra cái bẫy mà ngài giăng ra cho tôi. Tôi đâu đến nỗi đần.”
“Cảm ơn ông,” Mason nói, “đơn giản tôi muốn để tòa rõ quan điểm của ông. Tôi đã xong.”
Hamilton Berger trao đổi ngắn gọn với trợ lí của mình, một luật sư trẻ xuất sắc có tên là Ginzberg, người trong mấy tháng gần đây đã thắng một loạt vụ tố tụng và kết quả là được cất nhắc lên phó biện lí.
Sự hiện diện của chính Hamilton Berger tại phiên tòa, tư vấn cho vị phó của mình, chứng tỏ Mason được xem là một đối thủ lợi hại.
Sau cuộc hội ý ngắn thì thầm, Ginzberg gọi bà giám thị trại giam.
Bà giám thị khai dưới lời tuyên thệ rằng bị can Jozephine Kempton đến trại tù nữ chỗ bà ta, rằng bà ta đã thu giữ quần áo của Jozephine Kempton và đổi cho bà quần áo tù, còn quần áo thì chuyển cho Filipp Groton, giám định viên và là nhà xét nghiệm chất độc.
“Bây giờ có câu hỏi thế này,” Ginzberg hướng về bà ta. “Bà có khám người của bị can không?”
“Đã khám, thưa ngài. Bà ta cởi trần truồng và tắm. Tôi nghiên cứu từng li cơ thể bà ta.”
“Bà tìm gì?”
“Các vết xước, vết đứt da, vết thâm tím hoặc những dấu hiệu cưỡng bức khác.”
“Bà có phát hiện ra chúng không?”
“Thưa ngài Ginzberg, trên da bà ấy không có một chút tổn hại nào.”
“Tôi có thể hỏi, sự xem xét ấy cần để làm gì?” James Etna chen vào.
“Thì ngài cứ nghe và sẽ hiểu, nó cần để làm gì,” Ginzberg tuyên bố hùng hổ.
“Thưa các ngài!” chánh án Mandy kêu lên. “Xin hãy tuân thủ phép lịch sự. Bên bào chữa muốn tuyên bố phản đối không?”
“Đơn giản là tôi muốn tiết kiệm thì giờ!” Etna kêu lên tức tối. “Nhưng lưu ý đến tình huống, tôi phản đối theo nguyên cớ là mọi thứ đó thiếu chuyên môn, không thực tế và không liên quan đến vụ án.”
“Chúng tôi cho rằng, thưa tòa,” Ginzberg nói, “sẽ gắn điều đó với các lời khai của nhân chứng tiếp theo.”
“Được, xin tiếp cho.”
“Đó là tất cả. Có thể đặt câu hỏi.”
Mason bảo Etna, “James, ông hỏi đi.”
“Bà thu quần áo của bà ấy với mục đích gì?” Etna hỏi nhân chứng.
“Tôi được chỉ thị như thế.”
“Bà có biết là cho đến khi bà ấy chưa bị kết tội chính thức, bà chỉ có thể giữ bà ấy với tư cách…”
“Tôi thực hiện mệnh lệnh,” bà giám thị nói. “Tôi có mặt ở đấy là vì thế. Nếu ngài cho rằng luật pháp bị vi phạm, hãy yêu cầu lí giải chỗ ngài biện lí khu.”
“Bà muốn nói rằng bà nhận chỉ dẫn từ ngài biện lí khu?”
“Phải. Từ văn phòng ngài ấy.”
“Chuyện gì xảy ra với số quần áo của bà ấy mà bà thu giữ và chuyển cho Filipp Groton?”
“Nếu ngài chờ cho đến khi chúng tôi gọi nhân chứng tiếp theo, ngài sẽ nhận được lời đáp cho câu hỏi của ngài,” Ginzberg nói.
“Rất tốt,” Etna đồng ý, “tôi đã xong.”
“Hãy gọi Filipp Groton,” Ginzberg xướng lên.
Filipp Groton, một nhân vật cao, gầy vẻ bác học, gò má nhô cao và đeo kính với mắt kính dày đến nỗi phản xạ ánh sáng làm ta chỉ có thể nhìn thấy bộ mặt nhợt nhạt với hai khối hình ôvan lấp loáng thay cho mắt. Ông ta chiếm chỗ nhân chứng và tự giới thiệu là giám định viên trong lĩnh vực chất độc, hoá chất và các nghiên cứu chuyên ngành.
“Bà giám thị vừa mới khai, đã đưa cho ông một số đồ vật chứ?” Hamilton Berger hỏi.
“Đã nhận. Vâng, thưa ngài. “
“Ông đã nghiên cứu các đồ vật, quần áo này?”
“Vâng, thưa ngài.”
“Ông phát hiện được gì không?”
“Máu người.”
“Ông có đem theo các đồ vật, quần áo ấy không?”
“Có đem theo, thưa ngài”
“Tôi yêu cầu để chúng được trình như vật chứng.”
“Tôi không phản đối.” Mason đáp
Đồ vật được bày ra như vật chứng
“Hãy đặt câu hỏi cho nhân chứng.” Hamilton Berger nói.
“Ông khẳng định rằng trên đồ vật có máu người?” Mason hỏi.
“Vâng, thưa ngài.”
“Ông xác định điều đó như thế nào?”
“Tôi kiểm tra test và nhận được phản ứng chuyên biệt.”
“Tức là, khi tiến hành sự phân tích đó, ông thường không kiểm tra máu, xem xét nó thuộc một động vật này hay động vật nọ, phải thế không? Theo như tôi hiểu, đơn thuần ông tiến hành phép thử mà nó cho phản ứng với máu người và không cho phản ứng nào với máu động vật. Nghĩa là ông, bằng cách đó, kiểm tra cái vệt thẫm để xem đó là máu của người hay của động vật. Nếu đó là máu động vật, ông sẽ không làm việc kiểm tra thêm nữa. Nếu phản ứng dương tính, thì ông biết đó là máu người. Chính xác chứ?”
“Vâng, thưa ngài.”
“Test này là không sai lầm?”
“Vâng, test này không sai lầm.”
Mason hướng về chánh án, “Tôi muốn hỏi thêm ông Groton mấy câu về tri thức chuyên môn của ông ấy như một nhà giám định, nhưng phải thú nhận với tòa rằng, vào thời điểm này tôi chưa sẵn sàng tiến hành hướng hỏi cung cần thiết. Tôi cần phải có được lượng thông tin cụ thể trước khi tôi có thể kết thúc hỏi cung chéo.”
“Các ngài có phản đối về việc để bên bào chữa hoãn một ít thời gian phần hỏi cung chéo này không?” chánh án Mandy hướng về người buộc tội.
“Hoàn toàn không hề,” Hamilton Berger nói, phẩy tay với vẻ của người tuyệt đối tự tin, “chúng tôi sẽ chỉ vui mừng, nếu ngài Mason hoặc dù là bất cứ ai đặt câu hỏi cho ông Groton liên quan đến trình độ nghiệp vụ của ông ấy, - cứ hỏi dù có là cả ngày đi nữa, nếu người đó muốn, và vào bất cứ thời gian nào, chỉ cần ông ta muốn.”
“Rất tốt, thưa ông Groton, tạm thời ông có thể về chỗ ngồi, ông sẽ được gọi muộn hơn để hoàn tất cuộc hỏi cung chéo. Ai là nhân chứng tiếp theo?”
Với vẻ đắc thắng bất ngờ trong giọng nói, Berger gọi người cảnh sát đã ở trong chiếc xe đưa Mason, bị can Jozephine Kempton và Della về Cục cảnh sát. Anh ta kế rằng cả ba người được xếp lên ghế sau, anh ta ngồi quay lại phía sau và phần lớn thời gian không rời mắt khỏi họ.
“Sau khi ông về đến Cục cảnh sát, có gì xảy ra với cái xe?” Berger hỏi.
“Nó được phái đi tuần tra tiếp.”
“Ai ở trên xe?”
“Tôi và bạn cặp đôi với tôi.”
“Vào thời gian nào các ông đổi ca trực?”
“Vào bốn giờ sáng.”
“Chuyện gì xảy ra sau đó?”
“Tôi… tôi nhớ lại rằng chưa kiểm tra ghế sau, chúng tôi thường làm việc đó, nếu trong xe những kẻ bị tình nghi không bị còng tay. Lúc đó tôi và anh bạn nâng ghế sau lên, và chúng tôi phát hiện ra một tài liệu dưới đệm ghế ngồi sau.”
“Hãy kể qua, đó là tài liệu gì.”
“Đó là một tấm séc được thủ quỹ nhà băng kí, do Benjamin Addicts trả và có ở mặt sau một dòng kí chuyển nhượng: ‘Trả cho Jozephine Kempton khi xuất trình’, dưới đó dường như là chữ kí của Benjamin Addicts.”
“Ông có đánh dấu bằng cách nào đó tấm séc ấy không?”
“Có. Vâng, thưa ngài.”
“Cách nào?”
“Tôi viết bút chì tên tắt của tôi lên góc trái phía trên mặt sau tấm séc.”
“Ông có thể nhận ra tấm séc ấy nếu lần nữa trông thấy nó?”
“Chắc có, thưa ngài.”
“Tôi cho ông xem một tấm séc” và hỏi, “có đúng là vẫn chỉ một tấm séc đó hay không?”
“Chính tấm ấy.”
“Tôi đòi hỏi để tấm séc được xem như vật chứng trong vụ án,” Berger nói.
“Không có phản đối,” Mason đáp lại ngay lập tức, bằng cách đó chặn ngang bất cứ cố gắng nào từ phía Etna đưa ra những phản đối theo thể thức.
Sau đó Berger gọi giám định viên về văn tự, người ấy khẳng định rằng chữ kí Benjamin Addicts trên mặt sau tấm séc rõ ràng là giả mạo, được thực hiện bằng cách họa lại những đặc trưng chữ kí của Addicts.
“Mời hỏi nhân chứng,” Berger nói.
“Ngài biện lí khu chuyển séc cho ông?” Mason hỏi.
“Vâng, thưa ngài.”
“Và vẫn ngài biện lí khu cho ông các mẫu xác định nét chữ của Addicts, mẫu chữ kí của ông ta mà ngoài mọi nghi ngờ, do chính tay ông ta thực hiện?”
“Vâng, thưa ngài.”
“Ngài biện lí khu còn cho ông gì nữa?”
“Ngài có ý gì?”
“Ngài ấy cũng cho ông mẫu chữ của bị can, lẽ nào không?”
“Ồ, có.”
“Và ngài ấy đề nghị kiểm tra, trong chữ kí mà ông xem là giả, có những nét đặc trưng chứng tỏ rằng chữ kí này do bị cáo làm hay không?”
“Ồ, ngài ấy diễn đạt có phần hơi khác, nhưng thực sự ngài ấy đã cho tôi mẫu chữ của bị can.”
“Nhưng ngài ấy không giải thích với ông, với mục đích nào ngài cho ông mẫu chứ?”
“Tôi có cảm giác chỉ trong những nét chung nhất.”
“Và ngài ấy diễn đạt mục đích ấy như thế nào?”
“Gì đó đại loại như ngài nói, thưa ngài Mason.”
“Và bằng cách ấy,” Mason nói, “ông buộc phải báo cáo với ngài biện lí khu rằng bị can không có liên quan gì đến sự giả mạo ấy, rằng bà không phải là người giả mạo chữ kí Benjamin Addicts, phải không?”
“Không, thưa ngài. Tôi báo với biện lí khu rằng chưa có đủ số liệu cho một kết luận chính xác, rằng tôi chỉ có thể khẳng định một cách kiên quyết, đó không phải là chữ kí của Benjamin Addicts, và tôi hoàn toàn tin chắc rằng điều đó được làm theo cách đồ lại.”
“Đồ lại nghĩa là gì?”
“Ai đó đã giữ chữ kí thực của Benjamin Addicts, đối diện với nguồn ánh sáng mạnh, có khả năng để tờ giấy lên mặt kính mà phía dưới có ngọn đèn điện, hoặc có thể là chỗ cửa sổ bình thường, sau đó đặt tấm séc lên trên sao cho chữ kí ông Benjamin Addicts hiện sáng qua tờ giấy, và kẻ có ý đồ xấu đã tô theo chữ kí này.”
“Sao ông tự tin về điều đó đến thế?”
“Điều đó khá dễ xác định, thưa ngài Mason. Khi người ta kí, anh ta viết tên mình rộng rãi khoáng đãng. Ngòi bút di chuyển nhanh, tự tin, vậy nên một cú thúc nhỏ nhất cũng thể hiện trên khoảng nét khá lớn. Khi người ta đồ chữ kí, tay di chuyển chậm. Dưới kính hiển vi thấy rất rõ các nét không đều. Trường hợp này là rất đặc trưng.”
“Nhưng ông không thể xác định ai giả mạo chữ kí chứ?”
“Không, thưa ngài.”
“Tức không thể bằng cách nào ông có thể gắn chữ kí giả với bị can chứ?”
“Tôi nghĩ, điều đó nhân chứng tiếp theo có thể làm được,” giám định viên văn tự khẽ cười mỉm.
Hamilton Berger ngả ra phía sau và cười to. Đối với ông ta, rõ ràng rằng Mason bị rơi vào cái bẫy ông ta giăng sẵn, và vị biện lí khu - điều hiếm khi xảy ra - có một tâm trạng tinh thần hết sức dễ chịu.
“Không còn câu hỏi thêm,” Mason nói.
Hamilton Berger, đầy tự tin rằng: bằng món quà bất ngờ của mình làm choáng bên bào chữa, mặt rạng ngời vẻ thoả mãn tự đắc.
“Ông Howard Denny, xin mời ông ra chỗ nhân chứng,” ông ta nói giọng mũi.
Howard Denny bước ra trước và tuyên thệ.
“Nghề nghiệp của ông là gì?”
“Tôi là giám định viên về dấu vân tay và phó cảnh sát trưởng.”
“Phó cảnh sát trưởng là hoạt động chính của ông?”
“Phải, thưa ngài.”
“Bây giờ tôi muốn ông lưu ý đến tấm séc được trình như vật chứng này, và muốn hỏi ông: ông đã từng nhìn thấy tờ séc này trước kia chưa?”
“Rồi, thưa ngài.”
“Bao giờ và ở đâu?”
“Đại diện cảnh sát đưa cho tôi để nghiên cứu tờ séc này vào bốn giờ ba mươi sáng.”
“Sáng ngày nào?”
“Vào thứ năm tuần trước, vào cái đêm khi ông Addicts bị hại… Xin đợi cho một phút… trong thực tế ông ấy bị giết còn là đêm thứ tư. Đó là sáng sớm thứ năm.”
“Và khi sĩ quan cảnh sát trao séc này cho ông, ông ta có yêu cầu tiến hành những xử lí cụ thể nào đó với nó không?”
“Có, thưa ngài.”
“Đó là những xử lí nào?”
“Xác định dấu vân tay trên séc này.”
“Ông có thể chỉ cho chúng tôi dấu tay ấy nằm đâu không?”
“Được, thưa ngài. Nó thật không rõ nét, nhưng đó là dấu ngón tay. Tôi đã xác định được đó là dấu ngón giữa tay phải của bị can Jozephine Kempton.”
“Nhưng đó không phải là dấu ấn thông thường từ số dấu ông làm rõ bằng thuốc bột chứ?”
“Không, thưa ngài. Dấu để lại trên séc bởi chất lỏng, theo tôi, gợi nhớ đến máu.”
“Ông đã thực hiện gì nữa liên quan với tờ séc này?”
“Sau khi tôi đã kiểm tra và xác định được dấu ngón tay, séc được đặt trở lại dưới đệm ghế sau, ở chỗ nó được phát hiện thấy.”
“Gì xảy ra tiếp theo?”
“Sau đó bị cáo được thả khỏi chỗ tạm giam.”
“Bao giờ?”
“Đó là khoảng tám giờ sáng, sáng thứ năm.”
“Và ông đã ở đâu?”
“Với năm nhân chứng khác chúng tôi nấp trên ban công, từ đó có thể quan sát được điều gì diễn ra.”
“Và gì đã diễn ra?”
“Theo yêu cầu của bị can, bà ta đã…”
Etna kêu lên, “Tôi phản đối, nhân chứng cho lời khai dựa vào tin đồn.”
Mason khẽ giật mép áo vét của Etna, ra hiệu cho ông ta ngồi xuống.
“Chúng tôi sẽ không bới lông tìm vết những điều tủn mủn đâu, thưa tòa,” Mason can thiệp, “theo như tôi hiểu, vấn đề chỉ nói rằng bị can đã đề nghị thả bà ra chỗ đậu xe của Cục cảnh sát, từ đấy ông Etna có thể đón bà. Chúng tôi không định cản trở tòa nhận được những lời khai nhân chứng cần thiết.”
Chánh án Mandy gật đầu khích lệ.
Etna chậm chạp ngồi xuống.
Mason thì thầm vào tai ông ta, “Đó là quả bom họ chuẩn bị dành cho chúng ta. Họ cho rằng điều đó sẽ bẻ gãy toàn bộ sự bào chữa. Cần cho bên cáo trạng hiểu rằng toàn bộ câu chuyện ấy chẳng đáng giá một xu. Nếu điều đó không gây cho chúng ta ấn tượng gì cả, họ sẽ bắt đầu lo lắng, cho rằng chúng ta có đòn đánh trả nào đó, và họ buộc phải mở ra hết các át chủ bài của mình. Đó là điều duy nhất mà chúng ta cần từ buổi sơ thẩm này,bắt họ thòi ra hết những gì họ có, để họ không dự trữ món quà bất ngờ nào cho chúng ta khi sự thể ra tới tòa bồi thẩm.”
“Hãy tiếp đi,” Hamilton Berger nói với nhân chứng.
“Ngay khi vừa cho rằng chỉ còn lại một mình, bà ta xem xét tất cả các xe cảnh sát tại bãi để tìm ra chiếc đã đưa bà ta về Cục cảnh sát. Trên mỗi xe có biển số của nó, và bà ta tìm chiếc xe số bảy.”
Chánh án Mandy can thiệp, “Tôi chấp nhận quan niệm bên bào chữa trong vấn đề này, nhưng ông Denny ạ, trong các lời khai với tư cách nhân chứng của mình, ông làm quá nhiều kết luận. Ông chỉ khai những điều gì chính mắt ông trông thấy thôi.”
“Được,” Denny nói, “như chúng tôi đã thỏa thuận trước, hai cảnh sát đứng ở chỗ bà ta có thể trông thấy họ. Sau người ta gọi cả hai đến góc khác của bãi xe, vậy nên bị can tin chắc rằng không ai theo dõi bà ta nữa.”
“Chuyện gì xảy ra sau đó?” Berger hỏi.
“Bà ta đi ngang qua những chiếc xe đỗ tại đấy nghiêng ngó số xe. Đi lại gần chiếc thứ ba, đó là xe có số thứ bảy, chính chiếc đã đưa bà ta về Cục cảnh sát, bà ta mở cửa, nâng ghế sau lên và lấy tờ séc từ đó ra.”
“Sao ông biết rằng bà ta lấy tờ séc ra từ đó? Ông có thể trông thấy điều đó ư?”
“Tôi có thể nhìn kĩ, đó là một tờ giấy được gập nhỏ.”
“Từ đâu ông biết rằng đó là tờ séc?”
“Tôi kiểm tra xe mười phút trước khi thả bị can ra. Lúc ấy séc nằm giữa đệm ngồi và lưng tựa. Bị can vừa mới rời khỏi gara, đi kèm với những nhân chứng khác tôi quay lại đó và kiểm tra chiếc xe. Tờ séc đã biến mất.”
“Chiếc xe có bị ngoài tầm nhìn trong thời gian đó không?”
“Không, thưa ngài. Chúng tôi không rời mắt khỏi xe.”
“Bên bào chữa có thể đặt câu hỏi,” Berger nói.
Mason ngáp, ngó nhìn đồng hồ và thốt ra, “Không có câu hỏi.”
“Tức là thế nào?!” Berger sửng sốt kêu lên.
“Không có câu hỏi,” Mason nhắc lại.
“Vậy thì xong với việc đó,” chánh án Mandy nói, “ngài còn các nhân chứng nữa không, ngài Berger?”
Berger bối rối thấy rõ, ngước nhìn Mason.
Etna cúi xuống để thì thầm gì đó, nhưng Mason, khẽ đẩy ông ta phía dưới bàn, khiến ông ta đành phải từ bỏ ý định của mình.
Toàn bộ hành vi của Mason chứng tỏ ông không cho những lời khai này có ý nghĩa gì quan trọng.
Chánh án Mandy nhìn vị luật sư bào chữa đang bình thản, sau đó nhìn Hamilton Berger đang rối loạn trao đổi thầm gì đó với Ginzberg, và thốt lên, “Nhân chứng tiếp theo của ngài, thưa ngài biện lí khu.”
“Hãy gọi Frank Camminge.”
Tuyên thệ xong Camminge khai rằng ông là cảnh sát trưởng, cũng là anh của bà giám thị nhà tù. Sáng thứ năm ông đi kèm bà giám thị đến căn hộ của Jozephine Kempton. Bà giám thị đi vào trong nhờ cái chìa khoá nhận được từ bà Kempton, rồi chọn những đồ cần mang cho bị can. Nhân chứng Camminge mặc bộ combinezon công nhân trong lúc ấy khoan một lỗ nhỏ chỗ thanh ngang phía trên cửa, và đặt một cái thang trên hành lang. Khi bị can được tha khỏi nhà tù và bà ta đi về nhà, nhân chứng đang làm việc, đứng trên thang, và làm ra vẻ đang kiểm tra dây điện ở hành lang. Khi bị can vừa vào nhà mình, đóng cửa và khoá trái bên trong, nhân chứng xích cái thang lại gần cửa và đứng lên nấc thang ở mức có thể ngó vào lỗ khoan. Và lúc ấy ông nhìn thấy bị can vén váy, lấy tờ giấy gấp nhỏ giấu trong tất chân ra, đi lại giá sách, lấy một quyển và mở nó, đặt lên bàn. Sau đó bà ta gắn tờ séc vào một trang sách nhờ băng dính và đặt cuốn sách trở lại giá.
Nhân chứng khai rằng ông lập tức xuống thang, chuyển nó sang đầu kia hành lang và chờ cho tới lúc bị can rời căn hộ của mình. Sau đó ông đi vào căn hộ, mở cuốn sách chỗ trang đã nói tới và lấy tài liệu ra.
“Đó là tài liệu gì vậy?” Hamilton Berger hỏi.
Nhân chứng nhếch mép, “Đó là tờ séc hai mươi lăm nghìn đôla mà đã được trình như vật chứng.”
“Bên bào chữa có thể bắt đầu hỏi cung chéo,” Berger nói.
Mason nhìn nhân chứng với nụ cười mềm mỏng.
“Ông đâu có giấy phép đi vào căn hộ cả lần thứ nhất lẫn lần thứ hai, đúng thế không?”
“Không, thưa ngài.”
“Ông lấy đâu ra chiếc chìa mà nhờ nó ông vào căn hộ lần thứ hai?”
“Tôi làm khoá phụ.”
“Ông biết rằng, ông không có quyền lục soát ngôi nhà nếu thiếu lệnh khám hoặc sự cho phép của chủ nhà chứ?”
Nhân chứng nhìn qua Hamilton Berger và nói, “Lúc ấy tôi đã không nghĩ về điều đó.”
“Thế bây giờ ông có thể nghĩ về điều đó chứ, đúng không?”
“Vâng, thưa ngài.”
“Ông, dĩ nhiên, đã nghiên cứu luật pháp về trật tự tiến hành khám xét, trước khi được phong làm cảnh sát trưởng, chính xác chứ?”
“Vâng, thưa ngài.”
“Và ông hiểu việc ông làm là phạm pháp?”
“Nếu ngài muốn diễn đạt như thế, thì vâng.”
“Tôi muốn diễn đạt chính như thế,” Mason nói. “Tôi đã xong. Tôi không có thêm câu hỏi với nhân chứng này nữa.”
Nhân chứng tiếp theo là người phục vụ vườn bách thú, khai rằng ông được gọi đến Stounhenge; ông ta đến đó trong đêm có vụ án mạng và phát hiện ra ba con đười ươi đang tung hoành tự do; rằng trước đó ông ta đã mấy lần đến Stounhenge liên quan với các thí nghiệm của Benjamin Addicts với lũ đười ươi; ông quen nhiều con và hiểu tính cách hành vi của đười ươi; dưới sự chỉ đạo của ông ta, lũ đười ươi đã bị dồn vào cũi; sau đó ông ta đã xem xét lũ đười ươi nhằm phát hiện tia bọt máu, và không phát hiện ra.
“Bên bào chữa có thể đặt câu hỏi,” Berger nói.
“Ông ý chỉ gì khi nói về tia bọt máu?”
“Tôi có ý nói rằng bộ lông của chúng được xem xét kĩ với mục đích làm rõ có những giọt máu trên đó hay không.”
“Điều đó được làm có mục đích gì?”
“Điều đó được làm theo đòi hỏi của ngài biện lí khu.”
“Để tiết kiệm thời gian,” Hamilton Berger nói, “tôi muốn tuyên bố với tòa và bên bào chữa rằng, nhân chứng tiếp theo của tôi, nhà bệnh lí học, đã xác định được tính chất các vết thương gây ra cho Benjamin Addicts, tia máu nhất định là phải phọt ra ngay từ vết thương đầu tiên đâm vào cổ, vết đâm là tử thương, và bất cứ ai gây ra vết thương ấy, hắn ta phải bị máu bắn đầy vào người.”
“Hiểu rồi,” Mason gật đầu, “hãy tiếp đi.”
“Tôi đã xong,” Berger nói, “có thể tiếp tục hỏi cung chéo.”
“Không một con đười ươi nào có dấu vết máu ư?”
“Không. Chí ít là trên lông; hãy đợi chút, ở một con đười ươi có những điểm máu,” không phải máu bắn vào mà là vết máu tụ lại từ vết rách của nó ở bàn chân. Rõ ràng, nó làm chân bị thương khi giẫm vào một mảnh kính nhọn sắc.
“Từ đâu ông biết điều đó?”
“Bởi vì ở đấy có mảnh kính,” một mảnh hình mũi kim cắm vào bàn chân con đười ươi.
“Và mẩu kính đó đâu rồi?”
“Đó là mẩu vỡ bình thường. Tôi không biết sau nó biến đi đâu nữa.”
“Ai lấy nó ra?”
“Tôi.”
“Chính ông lấy nó ra từ bàn chân con đười ươi?”
“Vâng.”
“Thủ tục đó có đau đớn không?”
“Vào thời điểm ấy con đười ươi đã bị gây mê. Để giảm nhẹ việc tóm bắt, người ta cho các con vật ăn các thứ quả với chất tác động gây ngủ mạnh. Tôi phát hiện con đười ươi trong trạng thái hết sức bị kích động. Những con chó canh dữ tợn đã dựng lên toàn bộ cảnh nhốn nháo này. Lũ đười ươi bị kích động mạnh. Tiếng còi rú, tiếng chó sủa và những thứ tiếng bất thường khác làm biến đổi hoàn toàn khung cảnh quen thuộc đối với chúng, vả lại chúng còn ý thức rằng chúng vi phạm trật tự được thiết lập nữa…”
“Sao chúng rõ được điều đó?” Mason hỏi.
“Bởi vì chúng được thả ra khỏi cũi. Trí lực lũ đười ươi rất phát triển. Chúng biết khi nào chúng cần ngồi trong cũi, và hiểu rằng chúng ở ngoài tự do trong hoàn cảnh vi phạm chế độ đã thiết lập.”
“Tôi đã xong,” Mason nói.
Berger quay về phía chánh án, “Còn bây giờ chúng tôi gọi Mortimer Hershy với tư cách là nhân chứng.”
Hershy đứng vào vị trí nhân chứng và khai dưới lời tuyên thệ rằng, Khoảng hai tuần trước vụ án mạng, Benjamin Addicts đã lên kế hoạch tiến hành một vụ kinh doanh lớn; các chi tiết vụ kinh doanh chỉ mình ông chủ nắm; nhân chứng chỉ biết rõ một số nét, nhưng y hoàn toàn không biết dự định của Addicts; Addicts, theo thói thông thường của ông ta, giữ bí mật tất cả những gì liên quan đến mục đích và tổng số tiền của vụ trao đổi.
Tối ngày thứ ba, đêm trước vụ án mạng, Addicts gọi Natan Fallon và Mortimer Hershy đến hội ý. Ông thông báo với họ rằng muốn lập lại bản di chúc mới theo đúng mọi thủ tục các nguyên tắc luật pháp quy định, hoặc như ông diễn đạt: ‘với mọi thứ trò pháp lí ấy’, chính vì muốn để trong nhà ông mọi thứ đều ổn thỏa trọn vẹn, ông đã lập chính tờ di chúc mới này.
“Ông ấy thông báo với ông các điều kiện của di chúc?”
“Không, thưa ngài. Ông không thông báo gì cả, ngoại trừ ông cảm thấy có lỗi với Jozephine Kempton vì những lời buộc tội bà, và với những vật tìm ra đã chứng minh sự vô tội của bà ấy, ông rất muốn di chúc gì đó lại cho cả bà ấy nữa.”
“Có nhắc tới gì trong câu chuyện của các ông, ông ấy định để lại cho bà ta chính là gì không?”
“Không, chỉ có rằng ông ấy định làm điều đó.”
“Ngoài điều đó, ông ấy có thông báo thêm gì nữa về nội dung di chúc không?”
“Không, thưa ngài. Không thông báo. Ông Addicts nói với chúng tôi rằng muốn lưu ý chúng tôi đến việc ông lập lại di chúc mới; nó được tự tay ông viết ra; ông giao nó cho tôi đặt vào một chỗ chắc chắn với các giấy tờ khác. Ông bỏ di chúc vào phong bì, dán nó lại và đề nghị ông Fallon và tôi kí lên mặt sau.”
“Và ông đã làm điều đó?”
“Vâng, thưa ngài.”
“Cả hai ông?”
“Vâng, thưa ngài.”
“Còn gì sau đó?”
“Thứ tư chúng tôi đi theo tuyến đường… trong điểm này chẳng có gì khác thường cả, theo tuyến thu gom tiền.
“Ông có ý nói gì?”
“Các tờ séc nhà băng đều hợp thức tên ông Addicts. Một số khác viết sang tên tôi, và một ít sang tên Natan Fallon. Chúng tôi đi với các séc ấy ra vùng ngoại ô xa, đến các nhà băng mà chúng tôi giữ quan hệ làm ăn, và biến séc thành tiền mặt.
“Tổng số chỗ ông là bao nhiêu khi ông trở về tối thứ tư?”
“Tôi không trở về tối hôm ấy. Tôi ở lại chỗ bạn bè tại Santa Barbara. Người ta báo tin cho tôi về cái chết của ông Addicts vào khoảng bảy giờ sáng thứ năm. Tôi trở về Stounhenge không chậm trễ và nối liên lạc với chính quyền, sau đó với người được ủy nhiệm của ông Addicts ở văn phòng ‘Hardvic, Carson và Redding’.”
“Và ông đã nhận một số tiền nào đó theo những séc ấy?”
“Tôi giữ hơn tám mươi lăm nghìn đôla.”
“Tiền mặt?”
“Vâng, thưa ngài.”
“Và ông đưa số tiền ấy cho ông Addicts?”
“Vâng, thưa ngài.”
“Tôi cho rằng, các ngài có thể bắt đầu hỏi cung chéo,” Hamilton Berger nói và giải thích với chánh án: “Tôi gọi các nhân chứng này, thưa tòa, chỉ nhằm để tòa có thể hình thành một khái niệm trọn vẹn hơn về tình huống.”
“Rất tốt,” chánh án Mandy đồng tình.
Mason mỉm cười với Mortimer Hershy, “Tôi cần phải hiểu ông thế này chăng, thưa ông Hershy, chuyến đi của ông nhằm bổ sung tiền mặt không phải là việc gì đó bất thường?”
“Vâng.”
“Ông Addicts, khi còn sống, thường phái ông đi những chuyến như thế?”
“Thường xuyên, thưa ngài.”
“Tiền mặt đi về đâu?”
“Hầu hết trong mỗi phi vụ mà ông Addicts tiến hành, nghĩa là trong mỗi phi vụ lớn, số liệu tính toán tài chính không tương ứng với thực tế.”
“Sự không tương ứng ấy chính là ở đâu?”
“Tôi nghĩ rằng số liệu bị hạ thấp.”
“Và gì diễn ra sau đó?”
“Tôi cho rằng, một phần nào đó tiền mặt nằm lại chỗ ông Addicts, nhưng tôi không tin chắc.”
“Chúng tôi cho là cần thiết phải chỉ ra,” Hamilton Berger nói, “ông Addicts làm những phi vụ kinh doanh phức tạp, mà như được làm sáng tỏ, được thực hiện với những vi phạm các nguyên tắc.”
“Ông có thể giải thích cho cụ thể hơn điều ông có ý nói đến, được không?” Mason hỏi nhân chứng.
“Vâng, ví dụ: nếu ông Addicts mua một địa điểm có dầu hỏa với một trăm nghìn đôla, ông chỉ ra trong hợp đồng rằng năm mươi nghìn đôla sẽ trả muộn hơn, còn hai trăm năm mươi nghìn phải được trả bằng tiền mặt, tức tổng giá chung gồm ba trăm nghìn đôla.”
“Nhưng trong thực tế ông ta không trả ba trăm nghìn chứ?”
“Trong trường hợp này, tôi chỉ xét về trường hợp thuần tuý giả định.”
“Tôi hiểu, xin tiếp cho.”
“Thông thường với vụ làm ăn như thế, ông ấy trả, ví dụ, năm mươi nghìn bằng tiền mặt, và đó cùng với năm mươi nghìn mà ông sẽ phải trả muộn hơn kia, sẽ đúng là một trăm nghìn đôla.”
“Nhưng trong giấy tờ chỉ ra rằng vụ làm ăn giao kèo với giá ba trăm nghìn đôla? Tôi hiểu đúng chứ?”
“Vâng, thưa ngài.”
“Điều đó được làm với mục đích gì?”
“Tôi không biết gì cả, thưa ngài, ngoại trừ trong những vụ làm ăn như thế ông ấy kí các giấy tờ mà trong đó chỉ ra tổng tiền lớn hơn nhiều so với số phải trả trên thực tế.”
“Thế sẽ ra sao về việc trả thuế từ phía đối tác kí kết hợp đồng của ông ấy?”
“Tôi cho rằng, thưa ngài, trong quyết toán của họ nêu ra đúng một trăm nghìn, dù trong văn bản hợp đồng có thể là con số khác. Thế nhưng cũng khá thường xuyên xẩy ra những điều khó chịu vì sự không thống nhất.”
“Nói khác đi, nếu diễn đạt bằng ngôn ngữ đơn giản, Benjamin Addicts có ý đồ đánh lừa thuế vụ?”
Hershy ngập ngừng, sau đó thốt ra, “Không, ngài Mason ạ. Thoạt đầu tôi cũng đã nghĩ vậy. Nhưng sau đó tôi đi đến kết luận rằng ở đây sự thể có khác.”
“Khác gì? “
“Tôi nghĩ, ông Addicts có thời đã lấy vợ. Tôi cho rằng bà vợ ông còn sống và họ chưa li hôn. Sự thể là ở chỗ, theo luật bang chúng ta, toàn bộ tài sản khổng lồ ông Addicts kiếm ra, có thể bị tuyên bố là tài sản chung, nếu người đàn bà vẫn là vợ hợp pháp. Ông ấy không muốn điều đó, bằng cách điều hành công việc của mình sao cho trong các tài liệu xác định số lãi suất là tương đối nhỏ. Tức trong trường hợp nào đó ông ấy có thể bác bỏ mức độ sở hữu chung, khác với sở hữu riêng của ông ấy. “
“Tôi đã xong,” Mason nói.
“Nhân chứng tiếp theo của chúng tôi, Natan Fallon,” Berger nói.
Natan Fallon tuyên thệ, nhưng thấy rõ ngay rằng, khác với Hershy, Fallon không có tình cảm gì ngoài cảm giác phật lòng đối với ông chủ quá cố của mình.
“Ông đã ở đâu vào đêm có vụ án mạng?”
“Ở Las Vegas.”
“Ông làm gì ở đấy?”
“Làm thủ thuật với các tài khoản ngân hàng để ông Addicts có thể xuyên tạc quyết toán và đánh lừa thuế vụ.”
“Ông rõ đến chân tơ kẽ tóc rằng ông ta làm điều đó với mục đích đánh lừa thuế vụ ư?”
Nhân chứng chần chừ.
“Không phải thế sao?”
“Không, thưa ngài.”
“Như vậy, điều ông nói chỉ là giả thiết?”
“Khi người ta bắt đầu làm ảo thuật với các tài khoản ngân hàng, như ông ta đã làm, chắc chắn có nguyên cớ cho nó chứ.”
“Hoàn toàn hợp lí,” Hamilton Berger nói. “Như thế, nếu ông làm điều ấy, thì ông làm nó với mục đích lừa dối thuế vụ, thành thử, xuất phát từ đó ông cho rằng Benjamin Addicts cũng hành động từ những động cơ tương tự?”
“Ngài quyết định,” Mason hỏi, “tổ chức hỏi cung chéo với nhân chứng của chính mình chăng?”
“Ngài thấy đấy,” Hamilton Berger nói, “nhận xét của ngài là thừa, nhưng rốt cuộc ông Addicts không thể tự mình bào chữa cho bản thân.”
“Biết sao được,” Natan Fallon ung dung quay về phía Hamilton Berger, “có thể, ngài sẽ nghĩ ra lời giải thích nào đó tốt hơn đôi chút.”
Công chúng trong phòng tòa án cười rung lên, và thậm chí chánh án Mandy cũng mỉm cười.
“Ông Addicts không cho ông biết rõ bí mật của ông ấy?”
“Ông Addicts không thích tôi. Tôi không thích ông Addicts. Tôi cho rằng trong thời gian gần nhất hẳn tôi sẽ bị sa thải, nếu không có cái chết của ông ta.”
“Ông rời khỏi Stounhenge vào thứ tư, đúng ngày xảy ra án mạng?”
“Vâng, thưa ngài.”
“Vào khoảng mấy giờ?”
“Tôi bay đi Las Vegas vào ban ngày, chuyến hai giờ chiều.”
“Ông nhận được chỉ dẫn liên quan đến việc ông cần làm tại Las Vegas chứ?”
“Vâng, thưa ngài. Tôi phải quay về với một trăm năm mươi nghìn đôla tiền mặt.”
“Ông hoàn thành chỉ dẫn này?”
“Không, thưa ngài. Không hoàn thành.”
“Tại sao?”
“Tại vì không dám mang theo người một số tiền mặt lớn như thế. Khi tôi nghe về cái chết của ông Addicts, tôi đem toàn bộ tiền mặt đến nhà băng và bỏ chúng vào tài khoản của ông Addicts. Tôi báo cho người được ủy nhiệm của ông Addicts về điều tôi định thực hiện.”
“Thế ông Hershy rời Stounhenge trước ông?”
“Không, thưa ngài. Chúng tôi đi cùng một lúc với nhau. Ông Hershy chở tôi ra sân bay, còn sau đó ông đi Santa Barbara.”
“Có ai ở Stounhenge vào lúc các ông ra đi không?”
“Benjamin Addicts.”
“Còn ai nữa?”
“Không còn ai khác.”
“Nhưng điều đó là bất thường?”
“Vâng, thưa ngài. Thật vô cùng bất bình thường.”
“Hãy bắt đầu hỏi cung chéo đi,” Hamilton nói với Mason.
“Sao ông cho điều đó là bất thường, ông Fallon?”
“Bởi vì thường phải có ai đó chăm sóc các con vật, mà cả ngôi nhà cũng cần quản gia trông nom; ngoài ra, có mấy người phục vụ vẫn đến thường xuyên.”
“Nhưng khi các ông đi khỏi, trong nhà không còn ai, trừ ông Addicts?”
“Đúng thế. Mấy ngày trước đấy ông Addicts thể hiện sự không bằng lòng đối với việc coi giữ phần nhà được dành làm vườn thú. Ông đuổi hết tất cả những người phục vụ vẫn chăm sóc lũ vật.”
“Thế ai cho thú ăn, làm vệ sinh cũi, cả mọi việc còn lại khác, sau khi những người dạy thú bị đuổi việc?”
“Chúng tôi,” Fallon nói với vẻ tởm lợm lộ rõ. “Đó chính là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây tranh cãi giữa ông chủ và tôi. Tôi được thuê không phải để làm loại công việc này.”
“Ông Hershy giúp ông chứ?”
“Ông Hershy và Benjamin Addicts. Ba chúng tôi làm việc đó.”
“Còn những người hầu, ai làm việc nhà?”
“Chả có người hầu nào hết. Không ai làm công việc trong nhà.”
“Có xảy ra chuyện gì không?”
“Có, thưa ngài.”
“Những chuyện gì?”
“Một trong số đười ươi tấn công ông Addicts, nó thò tay qua chấn song cũi, tóm lấy áo vét ông Addicts và kéo ông ta đến cũi. Tôi quát lên và đánh vào cũi bằng cái bàn cào để dọn cũi, còn ông Addicts giật ra và may đã thoát được.”
“Ông ấy có bị vết thương nào không?”
“Có, thưa ngài. Ông ta bị sái chân nghiêm trọng, cũng như những vết xước sâu trên mặt.”
“Chuyện đó xảy ra lúc nào?”
“Vào sáng thứ hai.”
“Tôi đã xong,” Mason nói. “Không còn câu hỏi.”
Hamilton Berger gọi tiếp nhân chứng là thợ chụp ảnh, người đã cho xem những tấm ảnh thân thể nằm trên sàn và sự phân bố những vệt máu từ vết thương ở cổ bắn lên tường và thảm. Anh ta cũng trình ra những tấm ảnh khuôn mặt ông Addicts trên đó thấy rõ các vết xước do móng của con đười ươi.
“Hãy đặt câu hỏi đi,” Hamilton Berger nói.
“Tôi chú ý đến điều là ở đây có hai loại ảnh khác nhau về khuôn mặt người bị giết,” Mason nói, “một trong số chúng hiện rõ lớp râu, còn trên ảnh khác khuôn mặt người bị hại rất nhẵn nhụi.”
“Tấm thứ nhất chụp trước khi thi thể được chở vào nhà xác, còn tấm thứ hai, ngay sau khi làm phẫu thuật. Người phục vụ nhà xác cạo râu cho người chết khi chuẩn bị thủ tục mai táng ông ta.”
“Tức ông đã chụp thi thể, còn sau việc đó người ta phái ông đi làm thêm mấy ảnh nữa? Tôi hiểu đúng chứ?”
“Vâng, thưa ngài.”
“Điều đó được làm với mục đích gì?”
“Tôi không biết.”
“Nhưng ông nhận được chỉ dẫn đi đến nhà xác và chụp thêm mấy tấm ảnh nữa sao cho trên đó nét mặt được thấy rõ?”
“Vâng.”
“Được cạo nhẵn?”
“Vâng”
“Với mục đích để nhận dạng?”
“Tôi không rõ với mục đích gì. Tôi được lệnh làm chúng, và tôi đã làm.”
“Cảm ơn ông,” Mason nói với nụ cười. “Tôi đã xong.”
“Phía chúng tôi đã xong về vụ này, thưa tòa,” Hamilton Berger nói.
“Tôi muốn lưu ý quý tòa tới sự kiện,” Mason nói, rằng tôi đã đề nghị cho phép trong cuộc thẩm vấn chéo hỏi thêm mấy câu sau khi làm sáng tỏ một vấn đề. Tôi đề nghị tòa chấp nhận cho tôi bàn bạc với đồng sự của mình để làm rõ một câu hỏi về kĩ thuật. Sắp đến giờ nghỉ trưa. Tòa có thể tiếp tục nghe vụ án vào mười giờ sáng mai được không ạ?
Chánh án Mandy lắc đầu, “Ngài đã có thời gian chuẩn bị cho việc nghe vụ án, ngài Mason ạ. Ngài biện lí khu vào ngay đầu buổi nghe vụ án đã đề nghị ngài xin hoãn. Tòa không định tiến hành nghe theo từng phần. Tôi tuyên bố giải lao mười lăm phút, vậy nên ngài hãy dành thời gian ấy để trao đổi.”
Tòa tuyên bố giải lao mười lăm phút.
Chính án Mandy đi vào phòng mình.
Mason đến gần bà Kempton đang ngồi dưới sự canh chừng của nữ giám thị.
“Tha lỗi cho tôi,” bà Kempton thì thầm với ông. “Tôi cố để thông minh hơn tất cả nhưng chỉ làm hại chính mình. Hãy gọi tôi ra lấy cung, tôi sẽ kể sự thật và tôi sẽ giải thích tất cả.”
“Hãy giải thích ngay bây giờ và ở đây. Bà đã nói dối tôi?”
“Chỉ trong việc liên quan đến tấm séc, mà cả điều đó tôi thực ra cũng không phải nói dối. Đơn giản là tôi im lặng về nó thôi.”
“Tốt lắm, vậy từ đâu ra tờ séc ấy chỗ bà?”
“Từ chiếc bàn con gần giường ông Addicts. Ông ấy đang say nặng và ngủ. Séc nằm ở đấy, được viết chuyển nhượng sang tên tôi. Tôi lập tức hiểu rằng ông ấy định trao nó cho tôi…”
“Khoan nào, bà muốn nói rằng nó đã được viết sang tên bà sẵn rồi?”
“Thì vâng, ở đấy đã viết trên mặt sau.”
“Tức bà có ý nói là bà không giả mạo chữ kí chuyển nhượng?”
“Tất nhiên, không. Mọi thứ đã kí sẵn, khi tôi trông thấy nó lần đầu tiên, vì thế tôi mới cầm. Tôi biết rằng vì điều đó ông ấy đã gọi tôi đến đấy.”
“Bậy nào, bà nghĩ có ai đó sẽ tin điều ấy ư?”
“Thế sao lại không? Đó là sự thật mà.”
“Nói chung, thế này: không được để bất kì dù là ai đó nghe về điều ấy từ bà cho đến khi chúng tôi chưa kiểm tra được gì đó.”
“Ngài Mason, tôi muốn để ngài gọi tôi ra thẩm vấn. Tôi muốn kể với họ, thực tế chuyện gì đã diễn ra ở đấy.”
Mason lắc đầu, “Tốt nhất, tạm thời chỉ chúng tôi nói thôi.”
“Ngài nghĩ tôi nói dối?”
“Không nhất thiết.”
“Không, ngài nghĩ thế mà.”
“Biết sao được, bà đã kể với chúng tôi một câu chuyện và kết quả chúng tôi thành ra hoàn toàn chưa chuẩn bị đến việc người ta dúi tấm séc ấy vào mũi chúng tôi.”
“Đơn giản là tôi im đi về điều đó. Tôi không dối ngài. Chỉ là tôi không kể đôi điều với ngài, chỉ có thế.”
“Nếu tôi gọi bà ra thẩm vấn, họ sẽ đóng đinh căng bà ra,” Mason nói. Ông quay về Etna: “Thời gian đang dồn ép chúng ta. James ạ. Cần phải làm gì đó đi chứ.”
“Nào ta cùng thử xin hoãn đến sáng mai xem.”
“Chánh án sẽ không cho chúng ta đâu. Ông ta định kết thúc việc nghe án trong ngày hôm nay. Bởi đây chỉ là nghe sơ bộ, ông ta cho rằng tòa đã có khá đủ số liệu để tuyên bố buộc tội người được chúng ta bào chữa.”
“Chúng ta sẽ làm gì? Chúng ta không thể gọi bà ấy ra thẩm vấn được.”
“Một luật sư bất kì nào thỉnh thoảng cũng rơi vào những tình huống tương tự, James ạ,” Mason nói. “Chúng ta cần nghĩ ra gì đó và kéo dài mọi điều đó ra cho đến khi khi tòa buộc phải tuyên bố nghỉ tối.”
“Nhưng chúng ta sẽ chẳng thể làm gì nổi,” Etna nói, “họ đã ném bóng vào chúng ta, mà chúng ta không còn đường ch?