- III -
Vào khoảng ba giờ sáng, xảy ra một vụ cháy lớn, cạnh phố Những Chuồng Ngựa Nhỏ hoặc cạnh phố Thiên Đường tùy theo cách gọi. Gã vẫn chưa đi nằm, vẫn trong chiếc ghế bành thì nghe thấy tiếng hai chiếc xe cứu hỏa đi qua dưới cửa sổ nhà gã, rồi một chiếc nữa, mạnh hơn, mười lăm phút sau. Rồi muộn hơn, khi đến lượt chiếc thang lớn diễu qua, với những người đội mũ cứu hỏa xếp theo hai hàng, gã đi về phía cửa sổ và nhìn thấy chiếc xe hơi cuối cùng đang đưa các vị chức sắc đến địa điểm cháy.
Các Đại lộ gần như trống vắng và tại chân cảng Saint-Denis một con mèo lạc kêu meo meo mỗi khi nó nghe thấy tiếng bước chân ở đằng xa. Về phía những chiếc xe cứu hỏa hướng tới, người ta không thấy khói, không thấy lửa trên các nóc nhà, nhưng đôi khi gã nhận ra một tiếng ồn ào náo động xa xa và một thứ tiếng rầm rầm gã không nhận ra được tiếng gì.
Cũng đêm đó, gã đếm được năm chiếc xe cảnh sát đi xuyên qua khu phố đó, vừa chạy vừa rú còi, không chiếc nào dừng lại trong khu vực cận kề. Sự cố xảy ra gần nhất cũng phải gần Quảng trường Cộng Hòa, vì gã nghe thấy một tiếng súng vang lên từ phía ấy.
Nếu có lúc nào đó gã thiu thiu ngủ, gã cũng không biết. Đôi mắt gã mở to khi bầu trời nhợt nhạt đi và khi những xe rác đầu tiên bắt đầu kéo những thùng đựng rác trên các hè đường.
Một loại thuốc an thần mạnh, hoặc thuốc tê như Novocain chẳng hạn, có lẽ thuốc phiện - gã không biết, bởi gã chưa bao giờ trải qua chuyện này - chắc chắn sẽ làm gã rơi vào trạng thái tương tự. Nói cho đúng không phải là không còn cảm giác. Cơ thể gã, trái lại, nhạy cảm hơn thường lệ, nhất là mi mắt gã. Nó cũng không kém phần tê dại đi, cả tinh thần lẫn thể xác, và trong khi cứ kéo dài như thế, tất cả trở nên rối bời, cả tư tưởng và cảm giác của gã.
Ban đêm gã đi dạo. Đã là một ngày khác rồi. Rồi lại một đêm nữa. Cuối cùng, thời gian biến mất, giờ phút xóa nhòa, chẳng có gì, và có tất, một sự trống rỗng được sinh ra từ đợi chờ và từ những hình dạng lúc xám xịt lúc sắc màu rực rỡ.
Vào lúc mấy giờ, gã sẽ đi pha tách cà phê đầu tiên trong cái bếp nhỏ, nơi, từ khi gã không còn sống đơn độc nữa, gã đã quên không biết mọi việc sẽ xoay sở ra sao? Mặt trời đã lên, tiếng ồn ào khắp chỗ, cuộc sống thường nhật, bên ngoài tự huyễn hoặc, và khi đứng lên, buông ba miếng đường vào tách cà phê, ngoáy thìa, đưa môi vào thứ nước nóng bỏng đó, một tiếng phọt ra trong đầu gã, mà gã đã không nhớ nổi đã từng dùng nó, cái tiếng góa vợ. Tự nhiên, gã thấy chắc chắn rằng mình đã trở thành kẻ góa vợ và điều đó hiện ra với gã như một trạng thái thần bí.
Gã nghe thấy tiếng bước chân bên trên đầu gã, và nhận ra đấy là tiếng chân của Pierre, cái đứa bé rất thích đến làm bài trước mặt Jeanne. Đến đây gã mới hiểu ra rằng gã không có lấy một bức chân dung của nàng, ngay cả một tấm ảnh nhỏ dùng cho hộ chiếu. Họ không đi du lịch với nhau. Gã cũng chẳng còn nghĩ ra gã đã đem vợ mình đi nghỉ hè, từ cái mùa hè mới cưới, họ đến Dieppe và phải vất vả lắm mới kiếm nổi một chiếc giường, trong một khách sạn đầy ắp người mà ở đấy họ không gặp một con mắt thông cảm nào. Gã không biết bơi. Gã chưa từng một lần mặc áo tắm trong đời. Các loài súc vật, những con bò cái, những con ong, những con chó đều làm gã sợ, và, ở đồng quê, mặc cho mọi lý giải, gã vẫn bị át chế bởi cái cảm giác những lực lượng thù địch vây quanh gã.
Gã đã đợi tám tiếng đồng hồ để gọi cho sở Cảnh sát. Thanh tra Gordes, tuần đó phải đi tuần đêm, không có mặt ở sở.
— Tôi sẽ chuyển cho ông nói chuyện với thanh tra Maillard.
Ông này có một giọng thông cảm hơn:
— Ông đồng nghiệp của tôi đã cho tôi biết.... Không có gì mới, đành vậy thôi... Cho tôi số điện thoại của ông, nếu tôi biết thêm bất cứ điều gì, tôi sẽ gọi cho ông...
Thế là gã không chỉ rình đợi tiếng bước chân trên cầu thang nữa, mà cả cái máy đen trên mặt bàn có thể reo chuông lúc này sang lúc khác.
Những bước chân, từ trên xuống, vào khoảng chín giờ rưỡi, những bước chân trẻ trung, nhảy nhót, theo sau là những tiếng gõ ngập ngừng vào cửa. Gã ra mở cửa cho đứa bé nhân thể nhận chai sữa và một thùng bánh nóng đặt ngoài cầu thang.
— Cháu không làm phiền chú chứ? - Pierre hỏi cố làm ra vẻ tới hỏi thăm, nhưng không thể ngăn nổi tò mò nhìn quanh. Đứa bé không dám hỏi.
Jeantet nói thẳng ra:
— Cô ấy không về.
— Chú tưởng cô ấy bị tai nạn ư?
Gã không cho nó biết gã đã gọi đến tất cả các bệnh viện ở Paris.
— Chắc không nặng đâu, phải không chú? Nếu nặng, người ta lại không đến báo cho chú hay sao?
Ngượng không muốn bỏ đi ngay, đứa bé ở lại một ít phút, không làm gì, không nói năng gì như người ta đến thăm một người ốm. Khi nó đã đi rồi, Jeantet cứ nguyên cả quần áo, nằm soài trên đi-văng rồi thiu thiu ngủ. Khi thức dậy, những tiếng ồn ào trong quán bia phía dưới, báo hiệu đến giờ điểm tâm. Gã uống sữa, ăn bánh quết bơ, một miếng thịt bê nguội tìm thấy trong chạn treo trên sân.
Gã không chịu ra ngoài, đi sâu vào các đường phố, lẫn vào người qua lại để tìm Jeanne. Gã cạo râu, tắm rửa, thử làm việc nhưng không nổi. Việc này chẳng có một ý nghĩa gì. Chỉ có trong chiếc ghế bành của gã, gã mới thấy dễ chịu, hai chân doãi ra, hai mắt lim dim. Điện thoại vẫn không reo, gã cô đơn đến mức như thể sau một bệnh dịch hay sau một cuộc di cư tập thể, gã còn lại như người dân duy nhất của Paris.
Đã bao nhiêu giờ trôi qua rồi? Ngày thứ tư, khoảng hơn sáu giờ chiều, từ phố Francois đệ nhất, từ ngoại ô Saint-Honoré và từ Nhà in Delabourse trở về, gã thấy nhà trống trải. Lúc đó, gã vẫn lạc quan, quanh quẩn các dãy nhà mỗi khi tưởng tượng ra Jeanne đến lượt nàng cũng sẽ trở về.
Đêm thứ tư sang ngày thứ năm... Rồi suốt cả một ngày không làm gì, vẫn như lơ lửng... Cũng không cả suy nghĩ, vì thực tế, gã không suy nghĩ, và trái với lẽ thường, những hình ảnh hiện ra trong đầu gã, hầu hết lại chỉ là những hình ảnh về thời thơ ấu của gã ở Roubaix, cạnh con sông đào, nơi bây giờ mẹ gã chễm trệ sau quầy tiền của một tửu quán. Gã biết rõ cái tửu quán ấy, nó đã từng tồn tại, từ ba, bốn năm trước, khi gã bắt đầu chơi bi trên vỉa hè... Gã nhớ rất rõ cái mùi rượu dâu gai lẫn vào mùi khác, mùi của những nhựa đường trát lên những thuyền buồm... những thủy thủ ra khỏi tửu quán chệnh choạng trên những viên bi sặc sụa mùi rượu và mùi nhựa đường.
Lại sáu giờ chiều nữa, và, bên dưới, quán bia hè đường tràn ngập khách hàng đang vã mồ hôi và đang uống bia. Gã lại một lần nữa tự pha cà phê. Những từ cà phê và goá vợ nhập vào nhau trong đầu gã cũng như rượu và nhựa đường trong ký ức gã. Có cần phải làm đi làm lại những cử chỉ đó hàng ngày, để quen lại với chiếc bếp nhỏ nơi gã buộc phải tìm cách bắt tay vào chuyện đường hay bật diêm không?
Còn ba quả trứng trong chạn, và lúc màn đêm buông xuống, gã đã có đủ can đảm đập trứng trên lò.
Thanh tra Gordes đã trở về từ nhiệm sở không hay gọi điện cho gã. Trước cửa nhà chứa phố Sainte-Apolline, tối nay, một cô gái mặc đồ trắng, gã chưa từng gặp, thân hình, mái tóc nâu, dáng người, hơi giống Jeanne, dừng chân ở đó.
Lúc đã tối thật, mọi người ra khỏi rạp chiếu phim, đi xuống xe điện ngầm, gã quyết định gọi Sở Cảnh sát.
— Thanh tra đi dạo. Các vị ấy vẫn luôn không hề dặn trước gì cả.
Có phải Gordes, để chứng tỏ với gã, ông ta có lý, đã tiến hành tìm Jeanne không phải bị chết, mà còn sống?
Gã không chịu cởi quần áo, vẫn mặc nguyên đi ngủ trên chiếc đi-văng. Như thế, gã sẽ không bị chìm quá sâu trong giấc ngủ, và có thể coi như một sự lẩn trốn. Ngoài đường, gã tiếp tục nghe tiếng xe buýt, vẫn nhìn thấy tấm biển sáng, lúc tắt lúc bật, vẫn phân biệt rõ tiếng người qua lại, tiếng còi tàu ở ga phía Đông, có nghĩa gió đã đổi chiều.
Đến sáu giờ sáng, gã đã trải qua ba mươi sáu tiếng đồng hồ. Hôm nay đã thứ Sáu. Gã phải đếm ngày để biết là thứ Sáu. Pierre đến lúc tám giờ, ngồi trên một chiếc ghế, lo lắng hơn đêm trước:
— Chú không làm gì để tìm ra cô ấy ư?
— Chẳng còn gì để làm nữa.
— Thế cảnh sát?
— Chú đã báo hôm qua... không, hôm kia rồi...
Gã lẫn lộn các ngày. Trước đứa trẻ, gã đi đi lại lại, vờ như quan tâm, vài cảm giác khó chịu trước cái nhìn trách móc của đứa trẻ. Gã phải nói ra tới mức như thể người ta đang tố cáo gã:
— Chú đã làm tất cả để cô ấy được hạnh phúc...
Tại sao Pierre lại câm lặng?
— Chú không tin là cô ấy hạnh phúc phải không?
— Có chứ...
Tiếng có chứ không có vẻ thoải mái lắm.
— Chú đã thấy cô ấy khóc chưa?
Gã chợt hiểu ra Jeanne thường chuyện trò lâu với đứa bé hơn là với gã. Thường thường, làm việc trong phòng vẽ của gã, cửa hé mở, gã nghe thấy hai cô cháu chuyện trò khẽ với nhau, và giờ đây, gã tự hỏi, họ có thể nói với nhau chuyện gì?
— Cháu đã nghe thấy cô ấy khóc à?
Gã hỏi lại, ngờ vực.
— Ít khi thôi.
— Thỉnh thoảng cô ấy lại khóc à?
— Thỉnh thoảng...
— Tại sao?
— Khi cô ấy không làm tốt mọi việc...
— Những việc gì?
— Cháu không biết... công việc của cô ấy... Bất kể việc gì... cô ấy cứ muốn tất cả phải hoàn hảo.
— Cô ấy nói về chú thế nào?
— Rằng chú tốt.
Giọng nói không có nhiệt tình và điều đó như khiêu khích gã muốn thấy ở đứa bé một con mắt phán xử.
— Cô ấy không thấy cô chú sống một cuộc sống buồn tẻ chứ?
— Cô ấy thấy chú thật là tốt.
— Còn cháu?
— Cháu tin là thế.
— Cô ấy không quen biết ai trong khu phố này mà chú chưa từng gặp chứ?
Gã bỗng nổi giận: gã đang mắc phải một loại phản bội, dù không muốn, đang đứng về phía thanh tra Gordes. Gã vội tự trả lời câu hỏi đó:
— Không... Nếu nàng quen biết ai, nàng đã nói với ta... Nàng nói hết với ta cơ mà...
Gã chỉ thích Pierre khẳng định với gã điều đó, nhưng đứa bé cắt ngang câu chuyện:
— Cháu còn phải chạy nhiều chỗ đây...
Vì chính nó phải đi cho cô gái khâu già và trong suốt năm học, người ta thấy nó, trước khi vào lớp chạy đến hết hiệu này sang hàng khác với danh sách mua và cái túi lưới thực phẩm của nó.
Tới lúc nào đó, trong buổi sáng, Jeantet mới nhận ra chiếc đồng hồ đã ngừng chạy, phải lên dây cót lại. Gã ngả người ra ngoài cửa sổ để nhìn giờ trên đồng hồ đồ sộ treo bên trên quầy hàng của nhà buôn đồng hồ, thì có tiếng reo vang, và đầu vẫn còn ngoài cửa sổ, gã không nhận ra ngay, cuối cùng đó là chuông điện thoại.
Lúc đó là mười một giờ mười bảy phút. Sự chờ đợi này đã kéo dài bốn mươi mốt giờ.
— Bernard Jeantet hả?
— Vâng.
— Cảnh sát trưởng quận... đây!
— Tôi hiểu.
Gã nhận ra giọng nói của thanh tra Maillard, cách nói của ông ta làm gã chờ đợi, không dám nêu câu hỏi, và một quãng im lặng kéo dài.
— Này, tôi tin rằng chuyện như thế đấy... Tôi đã báo cho Gordes, tại nhà ông ta, và ông ta sẽ đến đấy ngay... Ông ta nghĩ tốt hơn là ông cũng đến đó để nhận dạng...
— Chết à?
— Phải... Nghĩa là... Rồi ông sẽ thấy.
— Cô ấy ở đâu?
— Phố Berry gần Quảng trường De Champs-Elysées... ông sẽ thấy một khách sạn ở phía bên phải, có một cái tên kỳ quặc... Khách sạn Gardénia... Ông hãy khẩn trương lên bởi vì theo như tôi biết, người ta sẽ không giữ ở đấy lâu đâu.
Thế đó! Jeanne chết rồi. Điều đó không còn một ý nghĩa nào nữa. Thật điếng người. Gã ra khỏi nhà, mang theo chiếc mũ, quên không đóng cửa, trong khi gã xuống cầu thang, gió đập thình thình. Gã đi qua trước trạm gác của bà gác cửa, nhìn thấy chiếc đèn dầu thắp sáng như sợi chỉ, người đàn ông đang nhồi lại ghế phía ngoài, phì phèo chiếc tẩu thuốc đã buộc lại bằng dây thép.
Gã lên một chiếc taxi đỏ, trần thấp, bị cộc đầu.
— Phố Berry…
— Số bao nhiêu.
— Khách sạn...
Khỉ thật! Gã quên rồi!
— Tên một loài hoa...
— Tôi hiểu... Khách sạn Gardénia.
Gã như xuyên qua một thành phố xa lạ, bởi vì gã không biết người lái xe đưa gã đi theo lối nào. Phố xá là những khối mặt trời, từ đó, gã nhìn thấy như nhìn qua một kính phóng đại những bộ quần áo sáng màu, những khuôn mặt đang cười cợt.
Ôtô dừng lại. Gã nhận ra một cảnh sát mặc đồng phục trước một cửa kính có một người đàn bà bệ vệ đang bước lên. Không thấy có gì lạ lùng, không có các phóng viên, các thợ ảnh, chỉ có hai chiếc xe đen nhỏ của cảnh sát cạnh vỉa hè.
Một đại sảnh tuy nhỏ, nhưng sáng sủa, tường ốp đá hoa với một quầy tiền bằng gỗ gụ, cây xanh ở các góc, một thảm đỏ đẹp trên các bậc lên, nẹp đồng.
Thanh tra Gordes đứng cạnh bàn giấy, lúc Jeantet đến, đang nói chuyện với một bà tóc bạc, mặc đồ lụa đen.
— Lại đây, ông Jeantet... Để tranh thủ thời gian, tôi đã yêu cầu ông bạn đồng nghiệp tôi gọi điện cho ông... Tôi đang ở nhà thì người ta báo cho tôi...
— Là cô ấy chứ?
— Tôi tin vậy.
Viên thanh tra vẫn đội mũ, miệng ngậm tẩu thuốc, nhưng nét mặt của ông ta khác lắm, cả cái nhìn cũng vậy, cứ gắn chặt vào Jeantet như thể có điều gì ông ta còn không hiểu nổi.
Lưới thép đen của thang máy đóng lại sau họ. Thang máy đưa họ lên êm ru trên tầng bốn, tại đó, trên bậc nghỉ và trong hành lang, ba bốn người đàn ông và hai người đàn bà hầu phòng mặc áo khoác kẻ đang nhìn nhau không nói một lời.
— Phòng bốn mươi tư... - Viên thanh tra khẽ nói, chỉ cho gã.
Nếu như khách sạn không quá lớn, cảnh quan lại thanh nhã, tinh tế. Trên những cửa trắng, số phòng đều bằng đồng hoặc đồng đỏ và ở đây cũng vậy, cũng có thảm đỏ, cây xanh.
— Cảnh sát trưởng khu phố cũng ở hiện trường mới đây thôi.
Gordes ngừng lại giây lát.
— Tôi đã gửi thông báo đi tất cả các quận yêu cầu báo ngay cho tôi... Không may người ta đã không làm ngay việc đó... Bác sỹ pháp y cũng đã đi rồi...
Ông ta hình như tin chắc người bạn đồng hành của mình đủ cứng cỏi trước cú choáng đang chờ đợi mình. Trước khi đẩy cửa, gã lau mồ hôi, bỏ mũ ra.
— Can đảm lên! Không đẹp đẽ đâu...
Người ta buộc phải mở toang các cửa sổ ra để khỏi nặng mùi. Để tránh sự tò mò của những người phía đối diện, người ta hạ tất cả cửa che xuống, chỉ để cho những tia nhỏ ánh sáng ngoài trời có thể lọt qua. Đèn trần bật sáng, mùi thuốc thanh trùng mạnh tỏa ra.
Hình ảnh đầu tiên, Jeantet nhìn thấy trong tấm gương lớn, như thể trong giây lát, cảnh tượng đó là phi thực, đôi chút giống như một tấm ảnh bị nhoè. Cuối cùng khi gã quay lại, từ từ về phía trước giường lớn thấp, gã sững người, không nhúc nhích không nói một lời.
Gã thấy một chiếc váy áo trắng mà gã không quen, đôi bàn chân trong đôi giầy mới, rất tinh xảo, đôi bàn tay màu sắc không xác định được, móng tay màu xanh tối đang cầm một bó hoa hồng đã héo tàn. Những bông hoa khác đang rải rác trên giường như trên lối đi một đám rước, và những cánh hoa, tơi tả nhiều chỗ, xem ra khó hiểu. Gã đã định nói: “Không phải nàng...”
Không nói ra điều ấy, không kêu khóc, gã lao ra ngoài hoa tay lên vui mừng. Viên cảnh sát trưởng, than ôi, kéo chiếc khăn phủ mặt ra và Jeantet vẫn còn đó, há hốc mồm, dán mắt vào Jeanne. Chính là nàng, đôi mắt mở to, tóc xoã hai bên trên gối, một cô Jeanne đã trương lên, miệng và cằm phủ một thứ nước lỏng màu nâu đậm đặc.
— Lại đây nào.
Người ta giữ lấy hai cánh tay gã, dìu gã đi - Gã nhận ra trên bậc nghỉ cầu thang một cái cáng và một chiếc túi thô ráp. Thang máy hạ xuống. Những cây xanh lướt qua mắt gã. Họ đã ra ngoài phố, dưới ánh mặt trời, Gordes và gã. Viên thanh tra vẫn giữ khuỷu tay gã, đẩy gã vào một quán bar nhỏ tối nhờ.
— Hai cognac.
Jeantet uống cạn ly của mình.
— Ly nữa nhé?
Gã lắc đầu không.
— Một ly nữa cho tôi, chú bé.
Gordes uống, trả tiền rồi dắt người bạn đồng hành về phía một chiếc xe hơi đen.
— Họ đã để cô ấy lại đợi tôi đến, tận đến trưa nay... Nhân thể, ta tới phòng tôi thì tốt hơn...
Suốt dọc đường đi, ông ta tránh không hỏi gì, không ngừng hút thuốc, gác chân lên nhau, rồi lại bỏ chân ra.
Họ không đi qua căn phòng có chiếc quầy dài, nơi họ đã gặp nhau bữa trước. Viên thanh tra dẫn gã bước lên một cầu thang bụi bặm, đi xuyên qua một phòng có những người không mặc áo khoác ngoài đang làm việc. Ông ta đẩy cửa một phòng.
— Ông ngồi xuống đi. Tôi đã báo trước cho ông là không hay mà. Cô ta không nghĩ rằng hoa chỉ càng làm chóng thôi. Các cô ấy chẳng bao giờ nghĩ tới những điều ấy. Dẫu sao ông cũng hiểu điều đó chứ?
Jeantet đã không bước thêm một bước về phía chiếc giường đó, mặc họ đưa đi, không có cả thì giờ để vĩnh biệt thầm, nhẹ nhõm vì đã không còn nhìn thấy bộ mặt trương phình trên chiếc gối nữa.
— Ông cảm thấy thế nào?
— Tôi không biết.
— Ông có muốn tôi cho mang đồ uống lên không?
— Không, cảm ơn.
Gã vẫn còn nghĩ được để nói cảm ơn. Gã thầm nhận ra chuyện đó.
— Tối hôm đó, ông giận tôi à?
— Tại sao?
— Tại những gì tôi đã nói với ông.
— Cô ấy chết rồi.
— Ông hiểu thế nào?
Gã lắc đầu.
— Cô ấy đã bị ngấm cả một ống thuốc ngủ. Người ta đã tìm thấy ống thuốc trong buồng tắm và trong một chiếc ly, trên bàn ngủ, mấy giọt nồng độ rất mạnh.
Gã nghe thấy mình hỏi:
— Khi nào?
— Người ta sẽ biết điều đó sau khi giải phẫu cơ thể.
Câu nói đó không tác động tới gã, không gây phản ứng nào về phía gã.
— Sự tự vẫn, dẫu sao, cũng không tạo nên những nghi ngờ.
— Tại sao?
— Bởi vì cô ấy chỉ có một mình ở trong phòng.
— Từ khi nào?
— Thứ Tư.
— Lúc mấy giờ?
— Cô ấy đến lúc ba giờ.
Jeantet vẫn không thôi:
— Một mình à?
— Một mình. Lúc năm giờ, cô ấy gọi một chai sâm banh.
Gã không hỏi tiếp nữa. Cái bàn giấy, mặc vẻ vững bền uy nghi của nó, mất hết vẻ thực tế. Một cảnh tượng trong sương mù. Những vết bẩn, những dòng người, những âm thanh. Gã lặp lại:
— Sâm banh à?
Thật là thô lỗ. Họ chưa hề cùng uống sâm banh với nhau cả trong ngày kết hôn. Gã không nghĩ đến chuyện đó.
— Nếu ông để ý nhìn vào góc trái căn phòng, có lẽ ông thấy cái chai gần như đã hết sạch, và một chiếc cốc dài duy nhất trên chiếc bàn tròn. Những người của quận Tám làm việc từ chín giờ sáng nay.
Lúc năm giờ, ngày thứ Tư, gã còn ở Nhà in Delabourse, cúi người trên phiến đá phấn, và chính lúc đó lẽ ra Jeanne phải đi mua cho gã tờ nhật báo buổi chiều đồng thời với những gì còn thiếu cho bữa tối.
— Chiếc váy dài... - Gã thốt lên, ngẩng đầu, cau mặt lại.
— Cái gì? Nếu là cái váy áo đen mà ông đã nói...
— Cô ấy mặc váy áo đen mà...
— Cô ấy cho rồi, cả đôi giày cũ nữa, cho người đàn bà hầu phòng.
— Khi nào?
— Tôi không biết. Tôi sẽ hỏi các đồng nghiệp của tôi. Chắc chắn họ sẽ triệu ông đến sở cảnh sát quận Tám.
— Thế còn chiếc váy áo trắng?
— Là của cô ấy. Cả những thứ khác nữa.
— Những thứ khác nào?
— Những váy áo khác. Người ta đã tìm thấy bốn chiếc trong tủ áo, cùng với khăn áo lót, quần áo mặc trong nhà, tất, giày, vài ba chiếc túi xách tay.
Gã muốn đứng phắt lên, để nổi giận, để hét lên với con người to lớn tuy vẫn nói với gã dịu dàng và không chút giễu cợt:
— Ông nói dối!
Tất cả đều giả dối hơn bất cứ bao giờ. Sự vắng mặt của Jeanne không lồng vào cái thực tế như gã đã biết về nàng cơ mà. Về cái chết của nàng, nó mang một dáng vẻ mỗi lúc một thêm khiếm nhã.
— Ông hiểu không, Jeantet, vợ ông từ lâu rồi đã sống trong cái phòng ấy. Hơn một năm.
— Ở đó?
— Cô ta chiếm hẳn cái phòng đó, nếu ông thích rõ hơn, cô ta có việc làm ăn ở đó, cô ta đến đó đều đặn.
— Hợp đồng thuê mang tên cô ta? - Gã suýt chữa: Tên tôi.
— Tên một người đàn ông.
— Ai?
— Lúc này, tôi không được phép nói cho ông rõ.
— Tình nhân của cô ta à?
— Theo như phòng nhân sự của khách sạn, họ gặp nhau tuần một lần.
— Nhưng cô ta không hề ngủ ngoài nhà chúng tôi!
— Người ta không buộc phải qua đêm ở Gardénia. Đó là một ngôi nhà, rất nhiều cặp tới gặp nhau buổi chiều...
— Trong trường hợp đó, gã đàn ông kia đã có thể...
— Không! Tôi đoán được điều ông định nói. Những người hầu ở đó đã được thẩm vấn. Hắn ta không hề đặt chân tới khách sạn vào ngày thứ Tư, không hôm qua, càng không phải hôm nay... Người ta đã điện thoại tới hắn... Lúc này hắn không ở Paris... Hắn cũng ở khá xa nước Pháp... Không ai vào phòng bốn mươi tư, trừ người giao hàng đã đem hoa đến do chính vợ ông đặt và, lúc năm giờ, gã bồi phòng mang sâm banh tới. Cô ta đã một mực đòi mọi người đừng quấy rầy cô ta... Thế nhưng hôm sau, có nghĩa hôm qua, thứ Năm, khoảng cuối buổi sáng, người phụ nữ hầu phòng đã gõ cửa, không thấy trả lời đã nghĩ cô ta vẫn ngủ... Buổi chiều, một cô hầu khác đến thay phiên. Vì người ta không để lại cho cô ta lệnh gì. Trước đó cô ta cũng không phục vụ phòng bốn mươi tư, nên cô ta tưởng phòng trống... chỉ tới sáng hôm nay, bà trưởng hầu phòng mới lo lắng...
— Là cô ấy có thể đã chết từ tối thứ Tư?
— Chúng ta sẽ biết điều ấy tối nay, chậm nhất là sáng mai.
Viên thanh tra gõ tẩu thuốc xuống đất.
— Đó là tất cả những gì tôi có thể nói với ông. Có lẽ các đồng nghiệp của tôi ở quận Tám sẽ cho ông biết nhiều hơn. Có lẽ, về phía ông, trong khi xem xét công việc và giấy tờ của cô ấy...
— Giấy tờ nào?
— Thư từ của cô ấy... Số địa chỉ...
— Cô ấy không viết cho ai cả.
— Điều ấy không có nghĩa người ta không viết cho cô ấy.
— Cô ấy không nhận được thư bao giờ.
Làm sao, trong căn hộ của họ, mỗi vật đều ở đúng chỗ của nó, cô ấy có thể giấu gã bất kỳ cái gì? Họ sống cùng nhau từ sáng đến tối, từ tối đến sáng; những cánh cửa giao lưu để ngỏ và mỗi người đều nghe thấy những cử động nhỏ nhất của nhau, để ý thức về tất cả những cử chỉ của mình.
Gã nhớ, chẳng hạn, một lần, khoảng năm giờ, Jeanne từ phòng bên bảo gã: “Liệu đấy, Bernard. Đây là điếu thứ chín của anh rồi.” Nàng không nhìn thấy gã, nàng chỉ nghe tiếng quẹt diêm và ngửi thấy mùi khói thuốc bay tới nàng!
Gã đứng dậy, bộ mặt vô cảm.
— Ông không cần tôi nữa chứ?
— Không phải lúc này. Tôi nhắc lại với ông điều tôi đã nói lúc này: Can đảm lên!
Gordes thêm, khi đưa gã qua phòng bên:
— Ông nhớ chứ... một phần nghìn... và còn hơn nữa!
Không đúng như thế. Jeantet không phản đối vì gã biết chỉ vô ích, và chẳng ai tin gã. Không phải là gã không nghĩ mấy tới điều đó và gã tin chắc rằng chính họ mới nhầm.
Có thể là Jeanne đã dùng thuốc ngủ. Một khi nàng bị chết, chắc chắn là như thế. Cũng có thể nàng đã uống một mình gần hết chai sâm banh chỉ để thêm can đảm. Và còn có thể nàng nảy ra ý nghĩ rải hoa hồng lên khăn trải giường và nắm chặt bó hoa trong tay trước khi...
Gã dừng lại trên cầu thang. Nàng đã chết. Gã mới chỉ bắt đầu tin điều đó. Ngay cả sáng nay, trong căn phòng ở phố Berry điều đó cũng khác xa với thực tế.
Trong khi bước ra khỏi cửa, phía trước là những xe máy xếp thành hàng, suýt gã đâm vào một người đàn ông bé nhỏ đang đi vào. Gã quay lại xem có đúng là cái người ngoại quốc có những giấy tờ đủ mọi màu sắc hay không. Ông ta trở lại vì trách nhiệm, một mình chống lại tất cả, chống lại luật pháp, các quy chế, chống lại cả cái bộ máy cai trị, ngoan cố, tin vào sự trung thực của mình, vào chân lý, vào thứ lôgích của chính ông ta.
Điều lạ lùng là gã không nghĩ tới tay tình nhân, về tất cả những gì mà người ta đã cho gã biết, chính hắn lại ít làm gã choáng váng nhất. Điều làm gã đau buồn hơn cả, chính là chiếc váy áo, chiếc váy áo đen và đôi giày cũ mà Jeanne đã cho chị hầu phòng. Gã có lẽ thích lấy lại những thứ đó và nếu như gã dám làm, có lẽ gã đã chạy ngay đến đó để đòi lại, để chuộc lại với bất cứ giá nào.
Nàng đã mặc đồ trắng. Nàng chết trong một chiếc váy áo gã chưa hề trông thấy và nàng để tóc theo cách gã không hề quen thuộc. Lẽ ra nàng có thể để lại chiếc váy áo đen trong tủ hoặc trong một xó nhà cùng với đôi giày. Phải chăng, đối với nàng, viêc đó có thể tạo nên môt sự khác biệt lớn?
Một ý nghĩ khác đập vào đầu gã. Gã đi về phía bến xe buýt, xếp chỗ trong hàng người chờ xe. Lúc này là giờ điểm tâm. Gã luôn không thấy đói. Gã nên quay lại ngay lập tức phố Berry để đòi bức thư. Bởi gã tin chắc thế nào Jeanne cũng không thể bỏ đi mà không viết cho gã đôi lời. Tất cả sẽ tự cắt nghĩa.
Người ta đã không nghĩ đến việc trao lại cho gã thư nhắn lại. Những người trong khách sạn có thể không biết gã là ai. Gã vẫn trên xe, lòng trấn tĩnh lại, giờ đây gã gần như đã hiểu, và một khi đã xuống xe, gã đã tìm lại được bước chân dài của gã, tuy hơi chậm.
Không còn cảnh sát ở trước cửa. Gã vào. Thay vào chỗ người đàn bà tóc bạc ban sáng, là một người đàn ông trẻ hơn nhiều, tóc chải gôm và đang xem xét sổ sách kế toán như thế là ông chủ vậy.
— Ông muốn gì?
— Tôi là Bernard Jeantet.
Cái tên hình như không tác động gì đến con người này.
— Vâng?
— Lúc nãy tôi đến với cảnh sát để nhận dạng thi thể...
— Ông quên điều gì chăng?
— Người bị chết là vợ tôi.
— Tôi hiểu. Tôi xin lỗi.
— Tôi gần như tin chắc cô ấy đã để lại cho tôi một bức thư, vài dòng chữ, một lời nhắn.
— Vậy ông phải trình bày với Sở Cảnh sát, bởi chính các vị ấy đã kiểm kê căn phòng. Họ đã mang một số đồ đạc đi và đã đóng dấu niêm phong trên cửa.
— Ông không có mặt à?
— Tôi không có mặt ngay cả ở khách sạn.
— Ông không biết ai ở đó khi cảnh sát đến à?
— Chị hầu phòng ở tầng trên, chắc chắn vậy. Một khi chính chị ấy...
— Chị ấy còn đây không?
— Để tôi gọi.
Không ngừng quan sát gã, người đàn ông nói vào điện thoại nội bộ.
— Chị ấy xuống ngay... ông ta thông báo.
Đó là một trong những người đàn bà mà Jeantet đã thấy, trong bộ đồng phục, trên bậc nghỉ cầu thang.
— Ông Jeantet muốn hỏi chị một việc.
— Tôi biết ngài này.
— Chị có thấy liệu cảnh sát có tìm được bức thư nào trong phòng không?
— Một bức thư à?... - Chị ta lặp lại ra vẻ suy nghĩ.
— Hoặc một mẩu giấy... Một mẩu giấy nào đó... chị là người đầu tiên vào phòng phải không?
— Vâng... ngay cả... Nhưng tôi thích tốt hơn là không nói về chuyện đó, vì tôi vẫn còn chưa hoàn toàn hồi phục... Ông nói, một bức thư? Lúc đó tôi ở trong một trạng thái như... Tuy nhiên... Bây giờ ông nói với tôi về việc đó, nó cũng nói với tôi một điều gì đấy. Ông không hỏi các vị cảnh sát à?
— Chưa.
— Ông phải hỏi họ thôi... Chính là cái thùng đựng sâm banh. Tôi thấy hình như có một vật gì đó ở đằng trước, trên cái khay, một vật gì đó vuông, sáng sáng, như một chiếc phong bì... Khoan đã!.... Tôi nhớ lại động tác của một trong những ông thanh tra khi cầm nó trong tay, ông ta liếc mắt rất nhanh nhìn vật đó, rồi nhét vội vào túi mình.
— Chị không nhớ ông nào à?
— Cùng một lúc họ có những tám người trong căn phòng...
— Xin cảm ơn chị.
Jeantet bước ra ngoài phố, rồi lại quay gót trở lại để nhét một chút tiền thưởng vào tay chị hầu phòng.
— Ồ, không nên.
Gã chỉ còn việc đòi lại bức thư của gã. Gã không nhầm mà. Nàng đã viết thư cho gã, và mọi việc sẽ được sáng tỏ.