- IV -
Người ta có lẽ quá ngạc nhiên về gã nếu như, hai tiếng đồng hồ trước đó chẳng hạn, khi gã ra khỏi cơn ác mộng của căn phòng 44, hoặc hơn nữa, đêm trước, trong căn hộ của gã, khi gã đang chờ đợi, không nhúc nhích, số phận quyết định đời gã, khấn thầm mong đến nhanh lên, người ta có lẽ đã ngạc nhiên và tức giận nếu như người ta báo cho gã rằng gã đã ăn điểm tâm ngày hôm đó ở trên bãi trống của một nhà hàng diễm lệ ở phố Ponthieu, sẽ khá đắt đấy.
Gã có chủ tâm thế đâu. Thoạt đầu gã đến Đồn Cảnh sát khu phố Berry, cách khách sạn Gardénia vài bước chân. Gã thấy không khí làm việc ở đây cũng như Đồn Cảnh sát khu phố gã, chỉ khác gã đếm được tám người, năm chàng trai rất trẻ, ăn mặc gần giống nhau và ba cô gái, ngồi trên chiếc ghế dài.
Trong giây lát, gã đã sợ người ta yêu cầu gã ngồi vào chỗ còn trống đầu chiếc ghế dài. Gã ngập ngừng tiến về phía quầy làm việc sợ rằng phải qua chỗ một người nào đó sẽ đòi gã xuất trình giấy tờ.
— Tôi là Bernard Jeantet. Tôi là chồng của...
—... cô gái tự vẫn, tôi biết. Ông đã nhận được giấy mời chưa?
Lại chuyện đó.
— Giấy mời nào?
— Hình như tôi vừa thấy lúc nãy một giấy mời mang tên ông. Một người đi xe đạp đã mang đi cùng với những giấy khác. Nếu tôi không nhầm, ông cảnh sát trưởng đợi ông vào sáng mai.
— Tôi không đến vì ông cảnh sát trưởng. Tôi chỉ muốn nói hai câu với ông thanh tra phụ trách việc này.
— Họ đi ăn điểm tâm cả. Trừ Sauvegrain... Đợi đã.
Anh ta hét to về phía trước cửa nửa khép nửa mở, trong đó có tiếng máy chữ:
— Sauvegrain có còn đấy không?
— Đi với Massombre được năm phút rồi.
— Việc riêng à, ông Jeantet?
— Vâng, tôi tin như vậy... Tôi cần biết đôi điều về vấn đề điều gì đã diễn ra trong căn phòng ấy...
Viên hạ sĩ cau mày lẩm bẩm:
— À, phải rồi...
Rồi, vì việc đó không liên quan đến anh ta:
— Vậy hai giờ ông quay lại... Muộn hơn một chút càng tốt vì buổi sáng nay họ có nhiệm vụ.
Chính lúc ra phố, gã bất ngờ thấy đói, việc đã không xảy đến từ ba ngày nay. Đi dọc theo các hè đường, gã ngạc nhiên thấy mình liếc nhìn thèm thuồng các nhà hàng và đến phố Ponthieu, gã để mặc mình bị cám dỗ bởi cái hiên rộng có những bàn phủ thảm đỏ. Sự thể chỉ có ba khách hàng, ba người đàn ông ở đó khiến gã yên tâm.
Ở nhà cũng chẳng có gì để ăn. Cuộc hẹn ở phòng cảnh sát lúc hai giờ không cho gã đủ thời gian để quay lại cổng Boulevard Saint-Denis và đi chợ. Thêm nữa, gã còn chưa sắp xếp, cũng chưa cả nghĩ đến việc sắp xếp cuộc đời góa bụa của gã.
Đây là quãng thời gian chết, một cảnh hạ màn, một bữa ăn không có gì đáng kể. Gã cảm thấy một cảm giác kỳ lạ khi ngồi xuống đơn độc, rồi gã xem thực đơn bồi bàn đưa cho gã. Giá cả làm cho hắn hơi choáng, nhưng một lần nữa, đây là ngoại lệ, ngoài lề thói cũ, của cái trước đây cũng như cái sắp được thiết lập. Chẳng có gì nguy hiểm nếu việc đó tạo nên một tiền lệ.
Đã lâu rồi, từ nhiều tháng nay, gã không ăn ở nhà hàng, bởi gã cảm thấy tởm lợm, có lẽ một sự sợ hãi nào đó, nếu ra khỏi cuộc sống chung của hai người như nàng đã sắp xếp một cái khung không giới hạn lại dần dần có được giá trị của một biên cương.
Tự cảm thấy vụng về, nếu không cảm thấy lố bịch, gã gọi nhiều món đặc sản khác nhau.
— Với dưa hấu và giăm bông miền Parme à?
Gã không dám nói không, cũng không dám từ chối món bầu dục nướng người ta đề nghị.
Ba người đàn ông, bàn bên cạnh, đang nói về cuộc du hành của hai trong họ chiều nay. Họ đi Cannes và vấn đề là một chiếc xe hơi Mỹ cần phải trao đổi trong những hoàn cảnh bí mật tại một điểm nào đó trên đoạn đường đi. Là một chiếc xe hơi đánh cắp chăng? Quay nhìn vào phía trong nhà hàng, gã cũng thấy ở mấy người khách khác một vẻ khả nghi, và trong suốt bữa ăn, một trong số phụ nữ ngồi trên những chiếc ghế đẩu cao ở quầy rượu, cứ nhìn gã như thể đang đợi một dấu hiệu gì. Điều đó làm cho gã có ấn tượng là gã thấy mình trở lại trong thế giới mà gã hầu như đã quên, gã chưa bao giờ biết tới, và chỉ có trong báo chí.
Gã đã biết được bao nhiêu người ở Paris, trong số hàng triệu con người mà gã đã sống bao nhiêu năm trời giữa họ. Gã đã quen biết anh trai Lucien và em gái Blanch của gã, khi họ còn là những đứa bé. Sau này gã đã gặp lại họ, Lucien đã lấy vợ là cha trong gia đình, trong chiếc nhà bạt của anh ta ở Alfortville mà anh ta rất tự hào, Blanch trở thành nữ hộ sinh, vẫn chưa chồng, tự vây quanh mình bằng một sự bí ẩn lạ lùng. Từ tám năm nay, gã không đi lại nhà họ nữa, tuy không bất hoà với họ. Có thể nói hầu như gã quên tới thăm họ.
Phố Francois đệ nhất, ở toà báo Nghệ thuật và Đời sống, mỗi thứ tư, gã lại gặp những nhà báo, nhà phê bình, các họa sĩ, đôi khi các tác giả quen thuộc cùng ngồi trong phòng chờ như gã. Phần lớn họ đều ít nhiều bạn hữu với nhau, và chuyện gẫu, trong khi gã luôn luôn ngồi im không nhúc nhích ở một góc, chiếc kẹp giấy và miếng bìa các tông lớn đã vẽ ở cạnh ghế gã.
Gã đợi đến lượt mình để được ông Radel-Prévost, thư ký toà soạn, một người đàn ông đẹp trai, lịch sự, tiếp trong chiếc phòng làm việc đầy ấn tượng của ông ta, trong đó chỗ nào cũng thấy những tấm ảnh của vợ ông, con trai, con gái ông, viền bằng khung bạc. Cùng với tạp chí này, ông ta say mê gia đình mình, và ngày hết, ông ta lại phóng chiếc ôtô thể thao, lao trên đường về với gia đình mình, cách Paris ba mươi kilômét. Một vài tấm ảnh được chụp quanh một bể bơi, có lẽ là bể bơi riêng trong biệt thự của ông ta.
Họ xiết tay nhau, thảo luận về việc trình bày một bài viết, về sự cân bằng về màu sắc của một trang đôi, nhưng họ không hề đề cập đến chuyện riêng tư. Chỉ có một lần ông Radel hỏi gã:
— Ông có con rồi chứ?
— Không.
— Ồ!
Jeantet vội nói thêm:
— Tôi cũng muốn có.
Có lẽ đúng như vậy. Gã cũng không tin chắc lắm. Jeanne, nếu như nàng cũng muốn, nàng cũng không dám nói với gã, thừa biết gã không thể cho nàng.
Tại đây, vài bước đến Quảng trường Champs-Elysées, gã cảm thấy mình ở quá xa khu phố của gã, và thấy mình lạc lõng. Gã thầm rủa những khách qua đường, cả đàn ông lẫn đàn bà, ăn mặc theo lối khác, nói một tiếng nói khác, không thuộc cùng giống người ở đại lộ Saint-Denis. Đôi khi gã nhìn đồng hồ, sợ bị trễ, như thể gã có một cuộc hẹn hò thật sự vậy.
Gã còn quen biết cô Couvert, đương nhiên rồi, gã biết cô là người thuê nhà lâu năm nhất của chung cư, cô đã sống ở đây từ bốn mốt năm rồi. Thế nhưng gã lại không biết bản chất những mối liên hệ của cô với đứa bé mà gã không biết nó mang họ gì.
Ngoại ô Saint-Honoré, bởi người ta chăm lo đến việc quảng cáo một số việc buôn bán loại đồ sang trọng, gã không hề trông thấy, nếu không do tình cờ, giữa hai khung cửa những ông chủ lớn, anh em nhà Blumstein. Mọi người đều nói một cách thân mật về ông Max và ông Henry. Chính gã cũng tự hài lòng, ở tận cuối hành lang, xa các phòng khách và các bàn giấy mà mọi người được tiếp đón, được gặp một con người bé nhỏ hói trán đã từng lâu năm là nhà báo, biên tập các bài và các tiêu đề mà Jeantet phải trình bày. Ông ta tên là Charles Nicollet và đã trở thành Charles.
Làm việc xong với ông ta, hàng tuần, Jeantet gõ cửa một phòng khác trong một hành lang khác, và viên thủ quỹ đòi gã phải ký vào hai chỗ trước khi trao cho gã một tấm ngân phiếu cho những việc đã giao trong tuần trước.
Gã có thể tự phụ kiểu ông Charles sao? Con người này đang uống thuốc viên đau dạ dày, và có những túm lông đỏ hung ở lỗ mũi và lỗ tai. Ông ta sống ở đâu và thế nào, với ai, tại sao, trong niềm hy vọng gì, Jeantet không biết chút nào.
Còn về Nhà in Delabourse, đó là loại người vô danh khác đang điều hành ở đó, những con người mặc những chiếc áo khoác màu xám, nước da xám xịt như thứ chữ chì mà họ sắp xếp suốt ngày, tỏ ra có một chút thông cảm nào đó, nhưng mà là một sự thông cảm thuần tuý nghề nghiệp.
Về phần gã, đối với họ, không còn là ông Jeantet nữa, mà là ông Bernard. Họ kính trọng gã, chắc chắn ghen với gã không bị nhốt kín suốt ngày dưới tấm khung kính màu xanh lơ, và chỉ sau một vài giờ làm việc với đá phấn, đã có quyền rong chơi khắp phố phường.
Gã không hiểu ai khác nữa một cách rõ ràng. Những bóng dáng, những khuôn mặt. Bà bán bơ sữa Dorin và ông chồng có bộ ria mép màu hung đỏ sáng sáng vào lúc năm giờ, đi đến các chợ, giao sữa, rồi ông bán thịt, bà bán bánh chao chát, ông chủ người vùng Alsace của cửa hàng giải khát, cả một đám đông, hẳn thế rồi, nhưng cũng không bền chặt gì hơn những học sinh xếp hàng trên những tấm ảnh chụp cuối năm học.
Gã hiểu Jeanne. Mà, đúng là có kẻ nào đó không hiểu nàng, và do méo mó nghề nghiệp, đã phân loại con người thành các hạng khác nhau, tự phụ là hiểu nàng hơn gã.
Nàng đã chết, không ư? Thanh tra Gordes, tới thứ Tư đã chẳng cho rằng nàng còn sống ư? Vậy sao đây?
Sáng nay, ông ta tỏ ra nhân đạo hơn, bởi ông ta vẫn luôn nói kiểu đó với những người sắp gặp bất hạnh. Vào lúc cuối, dẫu sao ông ta cũng không thể đứng vững trên cái nghĩa bóng cuối cùng cho cái trường hợp trứ danh phần nghìn của ông ta.
Jeantet ăn, mắt dõi nhìn những khách qua đường. Gã vẫn lắng nghe không tỏ thái độ gì, câu chuyện của ba người đàn ông đã gọi rượu armagnac cho vào cà phê. Bản thân gã vốn uống được rất ít rượu vang, chẳng hiểu sao lại uống cả một bình vang trắng nổi bọt.
Gã thôi không nghĩ tới những vấn đề sắp đặt ra lát nữa khi gã trở về căn hộ phố Saint-Denis, nơi gã sẽ sở hữu trong sự cô đơn. Trước hết gã phải giải quyết vấn đề bức thư đã.
Gã đến Đồn Cảnh sát lúc hai giờ năm phút. Viên hạ sĩ, người đã tiếp gã, ngước mắt nhìn đồng hồ.
— Ông đến hơi sớm...
Trên chiếc ghế dài, gã lại thấy vẫn những khuôn mặt ấy, trong vẫn cái trật tự ấy. Một trong những chàng trai đang ngủ, đầu dựa vào tường, mồm há hốc, cổ áo sơ mi mở phanh ra.
— Ông lại đây... Tôi sẽ dẫn ông đến phòng làm việc của họ.
Gã bước qua cái cửa nhỏ và người ta dẫn gã vào một căn phòng lớn kê sáu chiếc bàn. Không có ai ở đó. Người ta chỉ cho gã một chiếc ghế.
— Ông ngồi đấy. Họ sẽ về ngay thôi...
Trên một chiếc bàn, người ta đã đẩy máy chữ sang một bên, gã bất ngờ nhìn thấy những váy áo, những đồ lót, những chiếc giày, một mớ hổ lốn, như một sự dọn đồ, hoặc cuộc khởi hành du lịch. Gã không dám đứng dậy, đi đến gần để xem. Cửa vẫn mở và gã thích tỏ ra kín đáo. Phải chăng đấy là quần áo của Gordes đã nói với gã, những thứ người ta tìm thấy trong tủ áo?
Những thứ đó khác với những thứ Jeanne thường mặc cũng như tiệm ăn gã vừa tới dùng điểm tâm khác với tiệm ăn của những người lái xe ở phố Sainte-Apolline. Tất cả đều lượt là, mềm nhẹ, tươi sáng và hoa hoét. Nó làm người ta nghĩ đến bức ảnh trên các tạp chí hoặc các nữ diễn viên trên sân khấu hơn là những người đàn bà người ta gặp trên đường phố. Những đôi giày có đế quá cao, quá nhọn đến mức không thể bước nổi, một đôi dát bạc, đôi giày đi trong nhà bên cạnh, bằng những màu hồng sẫm, thêu thiên nga trắng.
Gã lau mồ hôi, ngập ngừng châm một điếu thuốc, rồi lại thôi, mặc dù trên các mặt bàn, những gạt tàn đầy cuống điếu.
Gã nghe thấy tiếng nói phía bên:
— Ai đó đợi trong phòng...
— Ai?
Có tiếng thầm thì. Người ta nói về gã, người chồng, kẻ góa bụa. Hai người cùng bước vào, gã chắc đã gặp sáng nay và gã đứng dậy.
— Thanh tra Massombre.
Một người vừa tự giới thiệu vừa ngồi vào bàn giấy của mình, còn người kia đi về phía một chiếc tủ tường, cuối căn phòng, treo áo ngoài.
— Ông cảnh sát trưởng đã mời ông chín giờ ngày mai. Giấy mời hẳn đã tới chỗ ông, vì gửi bằng người đi xe đạp.
Viên thanh tra rút một điếu thuốc lá, chìa gói thuốc ra:
— Ông hút chứ?
— Vâng, cảm ơn.
Về phía mình, Jeantet chìa một que diêm đang cháy ra. Viên cảnh sát này trẻ hơn Gordes, lịch sự hơn, một sự lịch sự giống như sự lịch sự của những người ngồi cạnh gã ở tiệm ăn.
— Hình như ông có điều gì muốn biết phải hỏi tôi?
— Sáng nay ông có mặt ở khách sạn chứ?
— Sauvegrain và tôi là những người đầu tiên tới đó.
Theo con mắt của gã, Sauvegrain là người vừa cởi áo khoác, và bắt đầu gõ máy chữ bằng hai ngón.
— Trong trường hợp ấy, chắc hẳn ông là người giữ bức thư?
Jeantet không quay lưng lại hoàn toàn với Sauvegrain. Gã cũng không nhìn thấy mặt ông ta. Với gã đó chỉ là môt cái bóng, đúng giới hạn tầm mắt của gã. Tuy nhiên gã có cảm giác rõ ràng, gần như chắc chắn rằng, bằng một động tác máy móc, Sauvegrain sờ túi mình. Ngoài ra, tiếng lách cách của máy chữ ngừng lại một lát, chứng tỏ điều đó.
Còn Massombre thì tỏ ra ngạc nhiên.
— Ông nói bức thư nào?
— Bức thư ở trên chiếc bàn tròn, cạnh thùng sâm banh đó.
— Cậu có nghe nói đến điều đó không, Sauvegrain?
— Nghe nói về cái gì?
Phải chăng con người kia lặp lại câu hỏi để tranh thủ thời gian?
— Về bức thư thấy cạnh thùng sâm banh ấy.
— Do ai viết? - Massombre hỏi lại Jeantet.
— Tôi không biết. Tôi tin chắc vợ tôi viết cho tôi.
— Cô ấy có thể gửi qua bưu điện chứ?
— Không, người ta đã thấy nó trên chiếc bàn tròn.
— Ai trông thấy?
— Một chị hầu phòng.
— Chị nào?
— Tôi không biết tên. Một chị da nâu, khá khỏe, hơi có tuổi, nặng giọng.
— Chính chị ta đã nói với ông về bức thư? Ông quay lại Khách sạn Gardénia ư?
— Vào lúc trưa... xế trưa một lúc... Sau đó, tôi đến đây ngay, và viên hạ sĩ đã bảo tôi...
— Cậu có bản kê khai chứ, Sauvegrain?
— Tôi đang bận đánh máy nó đây. Cậu muốn bản nháp chứ?
Những tờ giấy đầy chữ viết bằng bút chì. Đôi môi ông thanh tra mấp máy trong khi ông ta lướt đọc bảng danh sách. Bao nhiêu là váy áo. Bao nhiêu áo lót. Bao nhiêu đôi giày. Bao nhiêu là quần đùi, nịt ngực. Ba túi xách tay.
— Tôi không thấy có vấn đề bức thư...
Đúng lúc ấy, Jeantet quay đầu lại và bắt gặp Sauvegrain đang sờ túi áo khoác ngoài của mình trong tủ tường. Một sự ngẫu nhiên chăng? Hay anh ta đang cố đổi chỗ khi rút chiếc mùi soa ra?
— Tôi lấy làm tiếc, ông Jeantet. Tôi chẳng thấy cái gì mà chị hầu phòng muốn nói với ông cả. Ông nhớ rõ ràng chứ? Một phụ nữ giọng nặng, đúng là chị Massoletti, người Ý, nếu tôi nhớ đúng...
Người ta mang đến cho viên thanh tra những tờ giấy khác nữa và môi ông ta lại mấp máy.
— Chị ta không nói với chúng tôi về bức thư. Có đúng là chị ta đã kể lại với ông không? Khoan đã! Tôi cho rằng ông đã yêu cầu gặp chị ấy? Và chính ông là người đã đề cập đến bức thư trước?
— Tôi tin chắc là vợ tôi...
— Trong trường hợp này, có thể chị ta đã trả lời ông có, là để làm ông vừa lòng...
— Chị ấy đã nhìn thấy một thanh tra tuồn một phong thư vào túi áo của mình.
— Chị ấy biết người nào? Có tả lại cho ông không?
— Không.
— Chị ấy nói rõ là một phong thư?
Mồ hôi lấm tấm trên trán Jeantet, và mỗi lần trả lời, lại cảm thấy như đất sụt dưới chân mình.
— Không chính xác là thế, nhưng...
— Ông nghe đây. Chúng tôi không có một lý do nào để giấu ông bất cứ điều gì, một khi ông đường đường là chồng cô ta. Các vị cưới nhau với chế độ chung tài sản chứ? Đó là một trong những câu hỏi mà ông cảnh sát trưởng sẽ hỏi ông ngày mai.
— Chúng tôi không có khế ước hôn nhân.
— Vậy là, chung tài sản rồi. Trường hợp này, tất cả những gì ông thấy ở kia, trên chiếc bàn là thuộc về ông.
Ông ta chỉ đống váy áo và các đồ mặc khác.
— Sau khi các thủ tục đã hoàn tất, ông có thể...
Jeantet lắc đầu:
— Chỉ có bức thư là tôi quan tâm.
— Người ta sẽ tìm. Chúng tôi sẽ làm hết khả năng của chúng tôi... Sauvegrain, vậy cậu có khẳng định không có một bức thư nào lẫn trong đó...
Một thanh tra khác bước vào.
— Cậu đến thật đúng lúc,... Cậu có thấy một bức thư, sáng nay ở Gardénia không? Một chị hầu phòng cho rằng có một bức thư trên một chiếc bàn.
— Trên chiếc bàn tròn, gần chai sâm banh - Jeantet nói rõ thêm, với cảm giác người ta đang tìm cách làm cho bức thư càng ngày càng không có thể có và chỉ là hư ảo.
— Chẳng thấy gì?
Sauvegrain đang đưa tay sục sạo trong đám vải vóc lụa là, về phía mình cũng thông báo:
— Chẳng có lấy một mẩu giấy nào.
— Còn trong những túi xách?
— Chẳng có gì. Tóm lại, tôi cũng không thấy cả giấy chứng minh.
— Tuy vậy vợ tôi có đấy.
— Trong một trong những túi xách này ư?
— Không, trong túi của cô ấy.
— Thế cái túi ấy đâu?
— Tôi không biết.
— Cô ấy không để lại nhà khi ra đi?
— Không.
— Túi đựng một số tiền lớn?
— Vài trăm francs.
— Sauvegrain, cậu ghi vào thì tốt hơn.
— Ghi rồi.
— Đánh dấu chỗ đó lại trong báo cáo.
Massombre có dáng vẻ một người đang đề phòng những rắc rối, và nhìn Jeantet bằng con mắt vừa nhã nhặn vừa cau có.
— Ông hãy tin là chúng tôi sẽ quan tâm tới bức thư đó, nếu quả nó có thực.
— Nó có thực đấy.
— Nhân tiện ông ở đây, ông có thể nói cho chúng tôi biết là vợ ông có gia đình không.
— Có cha mẹ, anh, chị em cô ấy...
— Ở Paris à?
— Ở Esnandes, gần La Roehelle.
— Cậu ghi đấy chứ, Sauvegrain?
— Có. Chữ ấy viết thế nào?
Gã đánh vần.
— Tên của họ?
— Moussu... Người cha là chủ một ngư trường nuôi sò hến.
— Thế nghĩa là thế nào?
— Ông ấy nuôi ngao sò trên những cây cọc ở bờ biển.
— Ông biết ông ấy chứ?
— Tôi chưa bao giờ thấy ông ấy, cả vợ ông ấy nữa.
— Hôn nhân tiến hành ở đâu?
— Ở Ban Hành chính quận Hai.
— Bố mẹ không đến à?
— Họ đã gửi thư đến bảo bằng lòng.
— Con gái họ không đến thăm họ?
— Từ tám năm nay thì không. Còn trước, tôi không biết.
— Cô ấy có họ hàng ở Paris không?
— Cô ấy có nói với tôi về một người anh, là một nha sĩ ở ngoại ô.
— Cô ấy cũng không lui tới nhà người anh?
— Theo tôi biết thì không.
— Còn người nào khác không?
— Bốn hay năm chị em gái và người anh thứ hai nữa, tất cả đều ở Charente-Maritime.
— Bố mẹ cần được báo cho biết trước khi tiến hành lễ an táng. Ông có muốn đảm nhận việc đó không?
Gã không nghĩ tới điều đó. Cái từ lễ an táng làm gã cau mày, vì từ đó gợi lên những phức tạp đối với gã hình như rất đáng sợ.
— Việc an táng sẽ tiến hành thế nào? - Gã hỏi.
— Ông muốn nói sao?
— Ngày mai... Sau khi...
— Sau cái gì?
— Thanh tra Gordes đã nói với tôi mổ tử thi.
— Vâng, việc đó làm tối nay. Sáng mai, khi ông đã gặp ông cảnh sát trưởng và ký vào một số giấy tờ, ông có thể khâm liệm tử thi...
Việc đó cản trở gã cảm thấy dưới mắt họ, cả ba hình như đều coi gã như một quái tượng và đôi khi còn trao đổi với nhau bằng con mắt đồng lõa.
Gã có lẽ đã có thể đáp lại luôn: “Để làm gì?” Nhưng gã lặng im. Vấn đề ít nhiều hiện trong đôi mắt gã. Hai bàn tay gã ẩm ướt. Gã cũng đã thua từ cái ngày mà, trần trụi từ đầu đến chân, hổ thẹn vì cái thân hình to lớn có nước da quá trắng của gã, giữa những tiếng cười, gã đã qua được hội đồng phúc khảo.
— Ông sinh ở Paris à?
— Ở Roubaix.
— Trường hợp này, ông không có đất chôn trong một nghĩa địa ở Paris?
Gã điếng người lắc đầu ra hiệu không có.
— Điều đó phụ thuộc vào ông và gia đình. Nhất là ông, là chồng, ông có đủ mọi quyền. Nếu ông đảm nhiệm, vợ ông có thể được chôn ở nghĩa địa Ivry, và trong trường hợp ấy, tôi khuyên ông nhanh chóng đến gặp một nhà thầu tang lễ, họ sẽ lo các thủ tục. Nếu gia đình muốn đưa cô ấy về, và nếu ông đồng ý, sẽ phải thu xếp việc quá giang, vào mùa này, cái nóng và những vụ nghỉ hè, điều đó sẽ không dễ đâu. Tôi cũng tự hỏi, tình trạng như thế... của...
Gã không dám nói tiếp tử thi.
—... những hoàn cảnh như thế, nếu bên đường sắt chấp nhận...
Lúc này, Jeantet nhìn họ qua mồ hôi long lanh trên mi mắt.
— Còn về việc mang tử thi đi, cũng như việc mai táng ở Ivry hay về tỉnh, là tùy ông chọn cả. Ông có ý định đưa về quê ông không?
Không chuẩn bị, gã không tài nào hiểu nổi. Gã còn đang nghĩ tới quá khứ, tới cuộc sống của vợ chồng gã trong căn hộ ở cổng Boulevard Saint-Denis, tới bức thư, và người ta lại đặt những vấn đề cụ thể ra cho gã mà gã không thể tìm ra câu trả lời nào.
— Tôi không yêu cầu ông phải quyết định ngay, vả lại việc này không liên quan tới tôi. Nếu tôi tự cho phép nói với ông về việc đó là để ông có thể suy nghĩ. Đại thể, các gia đình không thích tang lễ khởi hành từ Viện Pháp y...
Massombre đứng lên, chìa tay ra cho gã. Hai người kia vẫn ngồi. Lúc rời căn phòng đó, gã theo dõi con mắt của Sauvegrain và tin chắc rằng anh ta cố ý cắm mặt xuống chiếc máy chữ.
Trong bữa điểm tâm, gã cảm thấy thoải mái, gần như tiếp xúc được với thế giới bên ngoài và hình như đối với gã, việc nối tiếp sẽ không mấy khó khăn. Từ đây, một khi gã đã là một kẻ góa bụa, gã sẽ nỗ lực để thích ứng với tình thế mới của gã, không để mất Jeanne như thế, bằng cách giữ lấy chỗ của nàng cho gã. Điều đó, gã không định giải tường cho họ, vì tin chắc rằng họ sẽ không thể hiểu được.
Một lần nữa, người ta lại vừa mới làm gã quay cuồng, May thay, để khỏi hoàn toàn bị hẫng hụt, gã có những bước đi phải hoàn tất và trước hết, trong một trạm bưu điện, viết bằng chữ in, một bức thư tín:
Kính gửi ông bà Germain Moussu ở Esnandes Maritim. Jeanne qua đời. Đợi ý kiến về tang lễ. Bernard Jeantet.
Gã không thấy gì khác để nói với họ, không một hình thức nào phải thêm. Gã không biết họ. Gã đi xuống ngoại ô Saint-Honoré, như gã vẫn làm vào ngày thứ tư, lần này, không dừng lại trong cư xá có những văn phòng của anh em nhà Blumstein chiếm hai tầng lầu. Gã đã hứa giao cho họ, thứ Tư tuần tới, một công việc khẩn cấp gã bắt buộc phải làm, nhưng chắc chắn không phải ngày mai, vì cuộc hẹn của gã với cảnh sát trưởng và tất cả những gì tiếp theo, nhưng chủ nhật chẳng hạn thì sao.
Gã nhớ tới một đại lý tang lễ trên các đại lộ, và qua đó hơn nửa giờ, rồi đi ra với hai túi nhét đầy giấy cáo phó và bảng giá thông thường. Gã chưa đi đến một quyết định nào, trừ việc đặt mua một cỗ quan tài bằng gỗ sồi, và người làm thuê đã hứa sẽ tự mình đi đến Viện Pháp y, hình như rất quen thuộc với anh ta, để đo kích thước cơ thể.
Người ta nói về thi hài. Người ta nói về người quá cố. Điều đó đối với gã thật lạ lùng, những câu nói ấy không làm gã chướng tai, không gây cho gã một xúc cảm nào. Đó là phi thực. Điều đó không liên quan tới gã. Dẫu sao, người ta vẫn có thể đàm luận về một con người hoàn toàn không quen biết.
Vừa rồi, ở Đồn Cảnh sát phố Berry, khi người ta có ý cho gã quyền lựa chọn giữa hai nghĩa địa, gã suýt đã nóng nảy văng ra; “Các người cứ việc làm theo ý thích các người.”
Về phía nhân viên tang lễ, anh ta chắc đã khẳng định rằng Jeantet, một con người trái tim sắt đá, có lẽ lại vui vì rũ bỏ được vợ mình.
Đây đó, người ta coi gã phần thì như một con người, phần thì như một kẻ độc đoán, một dị nhân, bởi vì gã không có đủ can đảm để tự bảo vệ đến cùng, và gần như chắc chắn, mai đây thôi, họ sẽ mang cái thi hài ấy vào nơi cư trú của gã.
Điều đó làm gã bực mình, gã không thể nói rõ ra tại sao. Đó cũng không phải do câu chuyện khách sạn và tự vẫn, trái với những gì họ có thể nghĩ. Có lẽ, nếu Jeanne chết trong vòng tay gã ở đại lộ Saint-Denis...
Ngay cả thế nữa!... Không! Nhân viên nhà tang lễ đã giới thiệu với gã những tấm ảnh của những tiểu giáo đường đỏ chói, những bức tường với những chữ đầu bằng bạc trang trí trước cửa nhà. Cửa nào trong hai cửa? Cái lỗ tối, cạnh quán giải khát phía đại lộ ư? Hay lối vào phía ngõ Sainte-Apolline, đối diện vối ngôi nhà chứa?
Người ta cũng nói với gã về một cái bàn với kích thước nào đó cho linh cữu, và mau miệng thêm rằng nếu Jeantet không có, họ sẽ đảm nhiệm cung cấp những mễ nữa.
Đặt tất cả những thứ đó vào phòng nào đây? Trong xưởng vẽ ư? Trong phòng ăn, có lẽ hợp lý hơn, một khi đó chính là lãnh địa của Jeanne? Nhưng phòng ăn có nhỏ quá không? Và tại sao nhỉ? Cho gã ư? Gã sẽ đơn độc, trong thời gian bao lâu, xoay quanh một cái linh cữu được che chở bằng hai ngọn nến cháy...
Chưa hẳn gã đã muốn trở về nhà. Gã không quên bức thư. Gã nghĩ đến nó hơn bao giờ hết, từ khi gã có những ngờ vực, nếu không có những bằng chứng rõ ràng.
Đúng, gã đã hỏi chị hầu phòng người Ý một lúc trước khi chị ta nhớ ra bức thư, hay một mẩu giấy, hay một chiếc phong bì, chị ta không biết chính xác. Nhưng, bản thân chị ta, chẳng phải chị ta đã nhớ ra cử chỉ của một viên thanh tra cầm lấy cái vật gần chai sâm banh, liếc qua vật đó, như để đọc xem, rồi luồn ngay vào túi áo của mình sao?
Jeantet không đề cập đến việc có gì trong đó, dù cho nó có chuyện mù mờ. Gã không buộc tội. Cử chỉ đó không nghi ngờ gì, chỉ là tự nhiên, máy móc. Họ gồm nhiều người sục sạo căn phòng, thu thập chứng cứ, để dành những gì sẽ phục vụ cho báo cáo của họ. Họ đã mang đi tất cả váy áo, đồ lót, giày, túi xách tay. Họ đã gửi chiếc ly và ống thuốc đến phòng xét nghiệm. Rồi đây họ sẽ thấy bức thư...
Bằng chứng cho biết gã không nhầm, rằng không phải là thuần túy tưởng tượng, chính là Sauvegrain đã tỏ ra lúng túng ở Đồn Cảnh sát, khi anh ta được hỏi về bức thư. Anh ta đã nhắc lại câu hỏi, khi mà anh ta chắc đang chăm chú đến những gì tự nó nói ra. Một lát sau, Jeantet đã bắt gặp anh ta thò tay vào túi áo treo trong tủ tường và làm như để lấy chiếc khăn mùi soa. Sự thực là chính anh ta đã mang bức thư đi và không biết mình đã để ở đâu nữa. Anh ta chối không nhận. Chắc chắn, anh ta sẽ tìm nó khắp mọi chỗ nhưng nếu anh ta không tìm thấy, phải đề phòng anh ta sẽ kiên quyết chối cãi. Jeantet quyết định đẩy anh ta đến tận chân tường. Nếu cần thiết, gã sẽ thu xếp để chị hầu phòng đối mặt, và sẽ có mọi cớ để chị nhận mặt anh ta.
Họ cứ việc giữ cái thi hài lại, nếu đó là sự chuyên đoán của họ, nhưng họ phải trả lại gã bức thư. Bức thư thuộc về gã. Gã không có một tấm hình nào của Jeanne. Gã sẽ không thu hồi lại chiếc váy áo đen và cái túi xách tay cũ kỹ đã biến mất cùng với giấy chứng minh của nàng. Gã chịu được hết, với điều kiện gã phải có bức thư.
Gã mải bước, không để ý rằng những khách qua đường đang đi ngược lại lối gã đi, bởi vì gã đi theo con đường của gã, bước chân dài và mềm yếu, chẳng nhìn ai, mắt hướng thẳng phía trước, rất xa, rất chăm chú như thể một số người nào đó đang tò mò theo dõi hướng đi của gã, lòng bực bội chỉ thấy được những dãy nhà, một khoảng trời giông bão, những xe buýt, xe hơi, hàng nghìn con người, lớn nhỏ, béo gầy, mặc màu sẫm hay màu sáng, đi về mọi ngả, mà không thấy được một cảnh tượng kỳ lạ.
Điều đó chợt biến mất, như trong một cái bẫy, khi gã đi xuyên qua cái sân tối om nơi người chồng bà gác cửa luôn nhồi rơm lại chiếc ghế của mình và khi gã đi vào cầu thang mà chân gã quen thuộc từng bậc một.
Tờ giấy mời được luồn vào dưới cửa, màu vàng. Gã nhặt lên, treo mũ trùm lên chiếc áo mưa, ngồi vào chiếc ghề bành bằng da của gã, hai chân duỗi ra, nhìn lên tường.