← Quay lại trang sách

- V -

Đêm đó, gã đã có thể ngủ trên giường gã, quần áo cởi ra, dưới tấm chăn dạ, vì gã không có gì phải chờ đợi nữa.

Chính vì cô Couvert, mà gã không ăn tối ở nhà, như đã định, bởi vì, gã nên quen lại với việc nấu ăn và ăn một mình thì tốt hơn. Khi gã định xuống mua thức ăn ở những cửa hàng quanh đấy, thì Pierre gõ cửa. Vẫn còn ngồi trong ghế bành, gã đang thầm tóm tắt lại danh sách những gì còn thiếu, quyết định phải trả lời bà Dorin, bà bán bánh, ông hàng thịt ra sao nếu họ hỏi gã.

— Vào đi, Pierre...

Đứa bé đứng im trong khung cửa, bàn tay vê khuy áo, nhìn gã như thể gã đã trở thành một con người khác, một sinh linh lạ lùng, rồi thốt lên bằng một giọng không ra tiếng người nữa:

— Bà Couvert hỏi liệu ông có muốn lên nhà không?

Nó vụt chạy lên nhà nó, Jeantet từ tốn đi theo nó, thấy cửa khép, nên gõ cửa.

— Mời vào.

Giọng của cô gái già cũng không như thường lệ nữa. Gã cảm thấy một cái gì đó không vui sắp sửa diễn ra. Gã hiểu ra rằng bà ta đã khóc, vì vẫn còn sụt sịt và mùi soa vẫn trong tay. Trước mặt bà, đôi kính mắt dày, gọng thép, đặt trên một tờ báo mở.

Gã không thích cái mùi trong căn hộ này, cũng không thích cô gái khâu già, chính xác là thế, nhưng, vì Jeanne, và cũng vì Pierre nữa, gã tránh để lộ ra.

Bà ta không nhìn gã, mặt quay về phía tờ báo, sát hẳn vào, bởi vì đó chính là loại người không làm điều gì không có ý định trước. Bà ta hỏi:

— Ông biết chuyện này khi nào vậy?

— Sáng nay...

— Thế mà ông không lên nói cho tôi biết.

Bà ta chùi mũi, chùi mắt.

— Phải chờ thằng Pierre đọc báo cho tôi nghe tôi mới biết!

Đứng ở góc cửa sổ, đứa bé vẫn đang quan sát Jeantet, với một sự tò mò đã trở thành thù hận.

— Tôi ngồi đây mà cứ bồn chồn cả người. Tôi không ngừng cho đứa bé đó xem tin tức thế nào. Thế là đùng một cái...

— Tôi xin bà thứ lỗi. Tôi có nhiều việc phải làm quá. Tôi hầu như vắng nhà suốt cả ngày...

— Người ta có nói với ông liệu cô ấy có đau đớn lắm không?

Gã lúng túng vì đã không nghĩ tới điều đó, không biết trả lời ra sao, tiếp tục tự bào chữa một cách vụng về:

— Bà biết đấy, có bao nhiêu thủ tục phải hoàn tất...

— Thủ tục gì?

Gã liếc nhìn về phía Pierre và lặng im không nói. Bà ta có cho sự im lặng của gã là một sự hờ hững không?

— Khi nào người ta đưa cô ấy trở lại đây?

— Chưa quyết định thế nào cả. Sáng mai tôi phải đến gặp ông cảnh sát trưởng. Tôi đã điện cho bố mẹ cô ấy.

— Ông có báo cho anh cô ấy không?

— Tôi không biết anh ấy ở đâu.

— Ở Issy-les-Moulineaux.

— Chính cô ấy nói với bà à?

— Cô ấy nói với tôi luôn, và cả một cô chị lấy chồng bên Anh nữa.

— Cô ấy có một người chị lấy chồng bên Anh?

— Và lấy chồng giàu, một đại điền chủ chỉ săn bắn.

Gã không biết gì về chuyện đó và, đáng lẽ ái ngại cho gã, bà ta lại như có vẻ trách móc gã sao lại không biết. Cũng có thể chẳng có gì đúng trong những chuyện về anh và chị đó. Với gã cũng vậy, ngay từ lúc đầu, nàng cũng bắt đầu bằng việc kể ra những chuyện.

— Cô ấy nói với tôi ít hơn với bà... - Gã nói khẽ, tin rằng làm bà ta hài lòng.

Nhưng gã nhầm. Mặt cô gái già đanh lại, như thể bà ta còn biết nhiều điều nữa, nhưng bà ta thích im thôi.

— Tôi đã làm những gì tôi có thể để cô ấy được hạnh phúc...

Gã có vẻ tự bào chữa. Gã vẫn nhầm. Con mắt của Pierre, sắc nhọn, nhìn từ người này sang người kia, với vẻ hiểu tất cả. Cô Couvert im lặng một lúc, tìm lời đáp lại.

— Cô ấy nào có định thử xem có được hạnh phúc không đâu...

Có lẽ một lần nữa gã lại nhầm, là đã không hỏi bà ta đúng ra bà ta muốn gì. Bà ta không nói vào không khí. Bà ta chắc đang trông đợi vào những câu hỏi và có trời biết bà ta đang giữ kẽ với gã điều gì.

Vì vẫn cứ đứng đó, lặng im, bà ta thở dài:

— Rốt cuộc!

Rồi chỉ tờ báo:

— Ông đã đọc chưa?

Gã chưa đọc gì cả. Đã ba ngày nay, gã không có cái hiếu kỳ mở báo ra. Gã đọc lướt qua mấy dòng viết về vụ việc này, phía dưới trang ba:

Người phụ nữ có tên là Jeanne. Jeantet, sinh ở Moussu, hai mươi tám tuổi, đã có chồng, không có con, sống ở đại lộ Saint-Denis, Paris, đã tự vẫn trong một phòng thuê của Khách sạn phố Berry bằng cách uống cả một ống thuốc ngủ.

Người ta không nói gì đến chai sâm banh, cũng chẳng nói đến những váy áo. Thế nhưng tờ báo thêm:

Trước khi nằm trên chiếc giường để chết, con người tuyệt vọng đó đã phủ hoa hồng lên đó và người ta còn thấy một bó hồng lớn trong tay

Gã không kéo dài cuộc thăm viếng cô gái già. Bà ta cũng không cố giữ gã lại. Bà ta đã nói những gì bà ta đã nói và gã hiểu rằng từ đây quan hệ giữa họ sẽ càng ngày càng thêm lạnh nhạt. Nếu như điều đó không ảnh hưởng gì đến gã, tuy vậy gã không thấy ở đó như một dấu hiệu. Người ta ghen tức gã, không lý do xác đáng nào, như thể người ta đổ hết trách nhiệm lên đầu gã về những gì đã xảy đến.

Gã không có can đảm để đương đầu với bà bán bơ sữa, nhất là với bà bán bánh có bộ mặt vác lên và đôi mắt màu thép xám. Tất cả những nhà cung cấp hẳn đã đọc báo hoặc đã nghe nói về tin đó. Những viên cảnh sát, cả bọn họ cũng vậy đều đã nhìn gã một cách đặc biệt, khó hiểu. Phải chăng chính gã là người đã không có được thái độ thích hợp trong trường hợp tương tự?

Gã thích ăn tối trong một tiệm ăn nhỏ của những vùng phụ cận của Quảng trường Cộng Hòa, nơi các món ăn được viết trên một chiếc bảng đen và người hầu gái có đôi chân bẩn thỉu, một chiếc váy áo đen buông xuống tấm thân mệt mỏi. Gã ăn món Ra-gu nấu cá, rồi những quả mận chua. Với gã cũng thế cả thôi, gã tiếp tục nhìn thẳng trước mặt gã, không phải vì gã đang suy nghĩ. Thực ra, gã chẳng cảm thấy gì hết. Gã không trong thực tại, mà phần nào ở giữa quá khứ và tương lai. Tóm lại, gã không còn hiện tại nữa.

Gã mở giường gấp, cởi quần áo, kéo rèm cửa, nghe thấy tiếng gót giày những cô gái trên vỉa hè trước mặt, vẫn luôn luôn đi số ngần ấy bước chân về mỗi ngả.

Việc mai táng làm gã lo lắng, và chiếm một quy mô khiếp sợ. Tuy nhiên, cuối cùng gã cũng ngủ được và bảy giờ sáng hôm sau, khi gã thức dậy, gã không còn giữ được một kỷ niệm nào đã diễn ra đêm trước.

Hãy còn cà phê xay trong cái hộp, không nhiều lắm, vừa đủ hai tách. Gã thấy bánh và sữa ngoài bậc nghỉ cầu thang. Vì không còn chút bơ nào trong chạn, gã dùng mứt bơ mà Jeanne làm cho nàng, vì gã không quen ăn thứ đó.

Bầu trời trở nên gần như liền màu xám xịt. Nếu giông gió nổ ra ở đâu đó, nó lại không ở Paris và không khí nóng hơn, tù hãm hơn mọi ngày. Lũ ruồi bay, tiếng vù vù khó chịu, và bám vào da thịt.

Khi đi qua sân, gã cúi xuống cửa sổ giao dịch hỏi bà gác cửa đang chọn thư:

— Tôi có điện không?

— Nếu có, người ta đã mang lên cho ông.

Khi gã đã đi khỏi, bà ta chui ra từ cái hang tối. Cả bà ta nữa bà ta cũng đã đọc báo.

— Khi nào người ta đưa cô ấy về?

— Tôi không biết.

— Tôi tưởng rằng việc chôn cất phải tiến hành trong phạm vi ba ngày?

Bà ta không tỏ lời chia buồn với gã. Không ai có ý định chia buồn với gã. Gã đã góa bụa và không phải là kẻ góa bụa thực thụ. Liệu mọi người không hiểu gã có cách nhìn khác, có khả năng cảm thấy thế không?

Cảnh sát trưởng khu phố Berry xử sự rất đúng, nhưng với một sự lạnh lùng ra mặt. Người ta chắc đã báo trước cho ông ta rằng Jeantet là một kẻ lắm chuyện về vấn đề bức thư trứ danh đó, dù thực hay chỉ là tưởng tượng. Ông ta đã đọc biên bản của y sĩ pháp y, khẳng định rằng bị ngộ độc vì bị hấp thụ một liều lớn thuốc gây ngủ và dẫn đến tử vong vào khoảng giữa mười chín đến hai mốt giờ ngày thứ tư. Tóm lại vào khoảng tám giờ tối, nghĩa là vào lúc Jeantet nói về vợ mình với thanh tra Gordes ở cảnh sát khu vực.

Với gã, việc đó mới chỉ bắt đầu, còn như với nàng, thế là đã hết.

Phòng thí nghiệm thành phố khẳng định rằng chiếc ly tìm thấy trên chiếc bàn đêm đã đựng một liều mạnh thuốc ngủ, và Sở Giám định tiếp đó kiểm tra chỉ thu được những dấu vân tay của người chết.

— Như ông thấy đó, ông Jeantet, việc tự vẫn là không còn điều đáng ngờ nữa. Ông có mang theo sổ kết hôn như tôi đã yêu cầu trong giấy mời không?

Ông ta xem cuốn sổ.

— Theo phòng nhân sự của khách sạn, những thứ thu được trong căn phòng là của vợ ông và theo luật thuộc về ông. Nó sẽ được chuyển lại cho ông theo biên nhận khi nào ông muốn. Ông còn chỉ việc trở về Ban Hành chính nơi ông khai tử và giao lại tờ giấy này cho nhân viên, mọi việc sẽ dễ dàng hơn.

Cuối cùng thì Jeantet cũng có thể nêu câu hỏi:

— Người ta đã tìm lại được bức thư chưa?

— Quả là họ có nói với tôi về cái bức thư ông đòi, và đích thân tôi đã hỏi các thanh tra của tôi. Sáng hôm qua, tôi cũng ở hiện trường. Tôi là một trong những người đầu tiên đến đó cùng với thư ký của tôi. Tôi có đủ cớ để tin không có gì ở đấy đã bị xáo trộn và tôi không thấy thư nào.

— Chị hầu phòng...

Viên cảnh sát trưởng ngắt lời gã, vì đã đề phòng câu đáp lại đó:

— Tôi biết, cái chị tên là Massoletti đã được thẩm vấn chiều qua...

Ông ta im không nói thêm và nhìn gã:

— Chị ta nói thế nào?

Jeantet cảm thấy toàn bộ câu chuyện này đã được chuẩn bị sẵn.

— Rằng ông đã cho chị ta một khoản tiền thưởng khá và rằng chị ta muốn làm ông vừa lòng.

— Sau đó, tôi mới cho chị ta.

— Không phải điều gì rút ra từ lời khai của chị ta. Dù thế nào đi nữa, chị ta cũng khẳng định rằng chị ta không biết gì hết, rằng chị ta không thấy bất kỳ người nào của tôi xoáy mất bức thư trong phòng số bốn mươi tư.

— Tôi không kết tội ai. Tôi chỉ nghĩ rằng...

— Lúc này, chúng ta hãy để việc đó lại, nếu ông vui lòng. Tôi còn có những cuộc hẹn khác và chỉ thu xếp được rất ít thì giờ.

Lúc này gã đành phải ký các tờ giấy, không biết bao nhiêu chữ ký nữa.

— Ông mang những thứ thu được này về chứ?

— Không.

— Khi nào ông trở lại lấy?

— Tôi không muốn lấy.

Người ta bắt đầu khó chịu với gã. Hơn bao giờ hết, gã quyết định là không bỏ cuộc. Trước đó, gã đã buộc lòng phải làm xong phần mình với cái người ta gọi là thi hài.

Từ sáng tối tối, gã đã hy vọng nhận được một bức điện của bố mẹ Jeanne trả lời bức điện của gã, và sự im lặng của họ khiến gã lo lắng. Nhân viên nhà tang lễ đã nói rõ với gã rằng gã phải gánh tất cả, tiểu giáo đường đỏ chói, việc mang thi thể đi, nghĩa địa Ivry, trừ phi gã cho phép bố mẹ nàng và nếu như họ bày tỏ ý định...

Trước khi trở lại Ban Hành chính quận Hai, gã tạt qua đại lộ Saint-Denis.

— Vẫn không có bức điện nào cho tôi ư?

Người chồng chắc là đi giao ghế, vì không thấy ông ta ở trong sân. Đèn vẫn thắp như mọi ngày. Bà gác cửa đang gọt khoai tây.

— Không. Họ đến đây hai người, một đàn ông, một đàn bà, hỏi ông.

— Họ có cho biết tên không?

— Họ chỉ nói họ là bố mẹ của vợ ông thôi.

— Họ ở đâu?

— Họ lưu lại một lúc lâu trên hành lang, rồi trong sân, khẽ tranh cãi với nhau. Cuối cùng, họ bỏ đi, sau khi đã hỏi tôi tại sao thi hài không có ở đây. Tôi không biết trả lời ra sao. Họ có vẻ không bằng lòng.

— Họ chắc phải quay lại?

— Họ không nói như vậy.

Gã đi bộ tới Ban Hành chính, phố Baker; vào sâu trong một toà nhà lớn, theo mũi tên chỉ, cuối cùng tìm thấy Phòng dân sự, cuối cùng tới cửa trên đó đề: Khai tử.

Một cặp đàn ông và đàn bà đã luống tuổi, thấp và mập như nhau ngồi lặng lẽ đợi trước chiếc cửa như thể ngồi canh gác. Gã cảm thấy bị quan sát từ đầu đến chân, đẩy cánh cửa, lại một cửa giao dịch trổ trên một vách kính sần sùi, trong một hành lang.

Hai người kia nhìn theo, và khi gã nói tên gã với nhân viên phụ trách, người đàn bà reo to lên:

— Tôi đã đoán với mình chính là anh ta mà!

Nhân viên tỏ ra đã biết chuyện.

— Ông bà ấy đã đợi anh một lúc lâu - Ông ta giảng giải - Hình như ông có những vấn đề phải thương lượng với họ trước khi hoàn thành các thủ tục.

Người đàn bà nói không được nhã nhặn lắm:

— Chúng tôi là bố mẹ của Jeanne.

Và, lấy khuỷu tay hích chồng.

— Mình nói với anh ta đi, Germain!

Ông ta có bộ mặt rám nắng mặt trời và nước mặn. Người ta cảm thấy ông có vẻ không thoải mái trong bộ complê đen, trong chiếc áo sơ mi hồ bột cứng và đôi giày bóng xi chắc là quá chặt.

— Chúng tôi đã đọc báo, khi tới nhà ga sáng nay - ông ta bắt đầu - Chúng tôi đi tàu đêm, bởi không thể đi sớm hơn, và nếu đi tàu khác lại phải đổi tàu ở Ponthieu,

Bà ta ngắt lời chồng, như có vẻ đe doạ:

— Vắn tắt lại, chúng tôi đã biết là con gái chúng tôi đã tự tử, điều chưa hề xảy ra ở gia đình chúng tôi. Anh đừng có tưởng ai tin rằng, nó được hạnh phúc mà lại tới một phòng khách sạn để hủy hoại đời mình. Tôi cứ tự hỏi tại sao nó lại không viết thư, không bao giờ về thăm chúng tôi cả. Dẫu sao, cũng không thể nói được rằng chúng tôi đã bỏ rơi nó trong cái thành phố bẩn thỉu đó, nơi nó chỉ gặp những bất hạnh...

Bà ta tuồn ra liền một hơi, đưa mắt nhìn chồng tự mãn, rồi nói thêm, lấy người nhân viên làm chứng:

— Tôi đã nói với ông đây rằng, ngay cả nếu chúng tôi phải đi gặp cấp cao, cũng phải trả nó cho chúng tôi, để nó được chôn cất tử tế ở làng quê của nó. Ở đấy, ít ra cùng có người đặt hoa trên mộ nó.

Jeantet vui vẻ nói:

— Được thôi.

Họng gã se lại. Nhân viên làm việc ngạc nhiên.

— Ông chấp nhận à?

Gã nhún vai.

— Dẫu sao cũng cần chính ông phải khai tử?

— Tôi đã mang giấy tờ đây.

Cũng như người ngoại quốc hôm thứ Tư ở Đồn Cảnh sát, chỉ khác ở đây người ta tìm người nhà theo nguyên tắc. Rõ ràng, lại có thừa một người, và người chức trách khó chịu, sợ có chuyện bậy bạ, liền gọi điện đến Sở cảnh sát quận Tám yêu cầu giải thích.

Trong khi ông ta điền vào chỗ trống các giấy tờ, Jeantet nói khẽ với ông bà Moussu:

— Thật ra, tôi đã đặt mua quan tài.

— Ít nhất cũng phải như thế, chứ không à?

— Ông bà muốn tôi phải giao quan tài cho ông bà ở đâu?

— Ờ, thế hiện nay con bé ở đâu? Chẳng phải nó vẫn ở viện... gọi là viện gì nhỉ, Germain?

— Tôi quên rồi.

— Vâng, cô ấy vẫn ở đấy.

— Vậy thì... Tôi cho rằng nên giao ở đấy, có phải vậy không?

— Còn sau đó?

— Cái gì, sau đó ư? Anh sẽ chuyển thi hài cho chúng tôi về Esnandes, thế thôi. Chẳng phải đã thỏa thuận thế ư?

Lát sau, khi nói về việc vận chuyển thi hài, bà ta thêm:

— Tốn bao nhiêu thì tốn chứ sao.

Không gặp bất cứ sự phản kháng nào về phía gã, chống lại mọi sự mong đợi của bà ta, bà ta tiện thể gán luôn việc vận chuyển cho gã chịu.

— Được thôi.

Gã còn lòng dạ nào tranh cãi, chỉ thấy nhẹ nhõm vì không có chiếc linh cữu tại nhà mình, tránh được việc tang ma sẽ khiến cả hàng phố chú ý.

— Thế còn mọi việc của nó? Bây giờ tính sao?

— Những việc gì?

— Quần áo của nó, những váy áo của nó, tất cả những gì nó có, thứ có thể đem dùng cho chị em nó.

Bà ta thất vọng vì ông chồng đã không đủ can đảm nói ra tất cả những gì họ đã bàn bạc với nhau.

— Mình không muốn hỏi gì ư, Germain?

Ông ta vờ lục lọi trong ký ức, đỏ mặt lên.

— À, phải rồi... Về vấn đê tiền bạc...

— Tiền bạc nào?

— Thì nó cũng phải có một ít tiền chứ... Và đồ đạc... Như tất cả mọi người, chứ sao!

— Cô ấy vào nhà tôi với một chiếc váy áo mặc trên người.

— Tuy nhiên, vào lúc đó, nó đã làm việc được hai năm...

— Việc gì phải thế?

Người phụ trách gọi gã, yêu cầu gã ký.

— Ông có muốn ký làm chứng không? - Gã hỏi ông bố.

— Anh tưởng tôi phải ký à?

— Nếu ông đây bảo ông ký...

Bà ta tin vào người viên chức, chứ không tin Jeantet, gã con rể mà họ không bao giờ gặp và đã làm chết con gái họ.

Trong đại sảnh, cặp vợ chồng già không rời khỏi gã. Rồi trên bậc thềm nữa, hình như họ cứ bám chặt gã, Jeantet tự hỏi tại sao.

— Thế còn những váy áo?

— Đi với tôi.

Cả ba đi bộ dọc các vỉa hè. Bà Moussu nhìn các cửa hàng nhỏ bằng con mắt chê trách. Trong cầu thang ở đại lộ Saint-Denis, bà ta lắc đầu, động lòng trắc ẩn.

Căn hộ không gây ấn tượng gì cho bà ta, và cái mà bà ta để mắt tới đầu tiên là chiếc máy khâu.

— Tôi cho rằng đó là của Jeanne? Một trong số chị em của nó, vừa mới lấy chồng ở... đúng là đang cần một...

Bà ta ôm lấy chiếc máy khâu cùng với số váy áo đã xem xét không chút cảm tình.

— Tất cả nó chỉ có thế thôi ư?

Và bà ta nói với chồng mình:

— Thật quá cực nhục tới sống ở Paris!

Jeantet ngập ngừng dẫn họ đến Đồn cảnh sát ở phố Berry để chuyển cho họ những tài sản tìm thấy trong phòng khách sạn. Bọn chị em gái chắc hẳn phải thỏa mãn hơn.

— Mang tất cả những thứ này về thế nào đây, Germain?

— Tôi cho là tôi phải đi tìm một chiếc taxi.

— Ông sẽ tìm thấy ngay phía đối diện trên đại lộ ấy.

Khi ông ta đã đi khỏi, bà vợ tấn công trên một mặt trận khác.

— Tôi hy vọng anh không định đến Esnandes dự lễ tang chứ?

— Tôi còn chưa nghĩ tới điều này.

— Người ở đấy sẽ không hoan nghênh việc thấy anh khóc trước linh cữu một người vợ mà anh đã làm cho khốn khổ đến nỗi đẩy nó đến chỗ tự sát đâu.

Lần đầu tiên, kể từ sáu giờ ngày thứ Tư ấy, gã mỉm cười, một nụ cười không niềm vui, cũng chẳng làm người đàn bà kia kém tức giận.

— Đó là tất cả những gì anh tìm được để trả lời một người mẹ ư?

Người chồng lên gác, thở hổn hển.

— Lại đây, Germain! Tôi nhanh chóng muốn ra khỏi đây. Tôi đến ngạt thở mất. Mình bê cái máy. Tôi mang những thứ còn lại...

Gã nhìn họ đi ra, lệ mệ khiêng chiến lợi phẩm, và người vợ còn quay lại ném cái nhìn đe dọa về phía gã.

— Tốt nhất, anh hãy khẩn trương gửi thi hài nó về... Bằng tàu tốc hành ấy...!

Ở tầng dưới, có một viên mõ tòa một bên, bên kia lũ trẻ đang tết hoa giả, chắc hẳn để làm vòng hoa tang. Thứ đó chẳng bao giờ tác động tới gã. Cô gái già, gần như đã mù bên trên đầu gã, tức gã về điều theo như cách diễn đạt của bà ta, “Jeanne nào có định được hạnh phúc đâu.”

Lúc đó, gã đã ghi nhớ câu nói đó trong lòng, không thêm gì. Giờ đây, gã tự hỏi, đúng ra cô Couvert muốn nói điều gì. Gã không có thì giờ để nghĩ ngay tới điều đó. Tốt nhất là làm xong các thủ tục, giữ lời hứa với những người ở Esnandes là bố mẹ vợ gã.

Nhân viên tang lễ thất vọng vì mất việc đặt mua tiểu giáo đường đỏ chói và việc mai táng ở Paris. Hắn ta không giấu sự bất mãn của mình.

— Nếu đúng như đó là nguyện vọng của gia đình...

Hắn chỉ tin gã một nửa và ngờ rằng khách hàng của mình muốn rũ bỏ trách nhiệm vất vả.

Trong khi Jeantet lướt đọc một tờ tạp chí trong phòng đợi, hắn điện cho S.N.C.F, rồi cho đối tác của mình ở La Rochelle, cuối cùng cho Viện Pháp y.

— Bên đường sắt nêu một số khó khăn, nhưng cuối cùng đã chấp nhận. Ông may đấy. Chiếc quan tài sẽ đắt hơn, vì phải tuân thủ một số quy định. Tàu sẽ khởi hành lúc mười bảy giờ, bằng chuyến tốc hành, sáng mai sẽ đến La Rochelle, ở đó, một chiếc xe tang sẽ chở linh cữu đến Esnandes. Ông có địa chỉ chính xác chứ?

— Không. Tôi cho cử Germain Moussu, chủ nuôi ngao sò ở Esnandes là đủ.

— Tôi buộc phải yêu cầu ông trả tiền trước. Nếu ông cho phép một lát thôi...

Hắn bắt tay vào tính toán, đối chiếu với các ba-rem, điện thoại cho những dịch vụ khác, gọi lại cho S.N.C.F, cộng thêm tiền thuế, tiền hoa hồng. Cuối cùng hắn chìa ra cho Jeantet một con tính cộng dài.

— Ông trả bằng ngân phiếu chứ?

— Không.

Gã có tiền mặt trong túi, gã đếm giấy bạc, và người kia đếm lại.

— Ông cũng đi chuyến tàu mười bảy giờ chứ?

Gã lắc đầu ra hiệu không, hờ hững bỏ đi mong hắn buông tha gã.

Lần này, gã có thể tin mọi cái đã xong, gã đã rũ bỏ được cái thi hài và gã sắp lấy lại được sự yên bình để đối mặt với Jeanne. Tuy nhiên, chính gã là kẻ đã làm chậm trễ cái giờ phút gã vẫn cầu mong này.

Gã vừa cho vận hành, bằng cách cân nhắc một khoản tiền quan trọng hơn gã dự đoán, một cơ chế, từ nay về sau không cần gã phải tham dự vào nữa, là đưa về nghĩa địa Esnandes, cô gái trẻ đã đến Paris mười năm trước đây.

Mọi chữ ký đã ký cả rồi, những khoản hoa hồng đã dự đoán, kể cả cho đứa trẻ đồng xướng ở làng quê. Từ đây, gã, Bernard Jeantet, không tồn tại nữa trong công việc này, cái công việc mà người ta đã làm cho gã hiểu, tốt nhất hãy tránh xa ra.

Trên đại lộ, trong lúc sấm đang ầm ì phía xa xa và gió cuốn lên những xoáy bụi làm sạch bóng hè đường, đột nhiên gã thèm được ở đó, vô danh, trong đám đông, lúc con tàu chuyển bánh. Gã suýt quay chân trở lại, để hỏi nhân viên tang lễ xem liệu ông ta có chắc cái toa hàng sẽ được móc vào tàu hành khách hay không. Rồi gã đổi ý. Gã không có can đảm ngồi đợi năm tiếng đồng hồ, càng không thể thấy bố mẹ vợ mình cùng lên tàu với chiếc máy khâu và những váy áo của Jeanne.

Gã cứ bước mãi, không dừng lại để lau mồ hôi trên mặt. Đêm qua, gã cũng đã bước đi như thế, nhưng hôm nay, gã có một mục đích. Đi về phía đường bờ sông, gã lên tận độ cao của cầu Austerlitz để nhận ra toà nhà hiện đại của cái trước đây người ta gọi là Nhà xác và bây giờ gọi là Viện Pháp y. Mặt tiền làm người ta nghĩ tới một đại xí nghiệp thương mại, hay một trường cao học. Một toa móc ôtô, kiểu dáng không chắc chắn, đỗ trước cửa với một tài xế ngồi ở tay lái. Gã không thấy người ra, người vào. Đành rằng người ta còn chưa đến tìm thi hài Jeanne, nhưng có chắc người ta đến mang một ai khác đi không?

Nếu như gã không xin phép, liệu người ta có để gã vào tòa nhà đó không, nhiều lắm chỉ trong hành lang thôi. Gã do dự. Tốt nhất không nên. Những giọt mưa lớn bắt đầu rơi, toé bắn trên mặt nước sông Seine, lộp bộp trên mặt hè. Khách đi đường chạy tìm chỗ trú. Trong phút giây, hè đường bóng loáng và những chiếc xe hơi bắt đầu văng nước bẩn lên.

Gã mỉm cười, không phải nụ cười hạnh phúc, mà nụ cười mà Jeanne rất quen thấy ở gã, và luôn làm nàng thắc mắc.

— Tại sao anh cười?

— Chẳng tại gì cả. -Gã trả lời.

— Người ta bảo anh nhạo em.

— Anh không bao giờ nhạo em

— Vậy thì nhạo ai?

— Chẳng ai cả.

Gã thèm được bỏ mũ ra để mặc nước tuôn chảy trên đầu. Trong khi gã nhìn vào từng cửa sổ một của tòa nhà thênh thang đó, như cha mẹ học sinh, vào đầu năm học, cố nhận ra lớp học của con mình.

Jeanne ở đó, sau những bức tường, sau những khung cửa sổ dó, còn hơn cả đã quá lâu, và nàng sắp làm lại cuộc du hành nàng mới chỉ hoàn thành có một lần, theo hướng ngược lại.

— Anh hạnh phúc chứ, Bernard?

Chính là nụ cười trứ danh vẫn luôn luôn làm gã hứng thú trước câu hỏi đó.

— Tại sao anh không trả lời?

— Tại vì anh không biết trả lời thế nào.

— Anh không hạnh phúc à?

— Anh không bất hạnh.

Nàng không chịu thôi:

— Nhưng anh không hạnh phúc phải không?

Gã không nói.

— Tại em ư?

— Không.

— Anh chắc thế không?

— Chắc.

Ít lâu sau những ngày đó, gã nghe thấy nàng sụt sịt ở phòng bên. Nàng cố khóc không ra tiếng. Cả hai, đều đã kiên nhẫn rất nhiều. Họ đã tạo ra một nỗ lực lớn, hay đúng hơn muôn vàn những nỗ lực nhỏ gần như hàng ngày.

Nhân viên giao thông, đôi giày đánh xi, giỏ nước, chắc phải tự hỏi gã đang làm gì ở đó, to lớn, cò lả, đơn độc ở vỉa hè, không nhúc nhích, chịu mưa. Gã không thể ngờ rằng, xuyên qua những bức tường ấy, đó chính là lần tiếp xúc cuối cùng của họ, người ta đã không cho phép họ lần nào khác nữa. Vả lại, như thế để làm gì?

— Em hạnh phúc chứ, Jeanne?

Nàng vội mỉm cười với gã, hơi quá vội. Nàng có khả năng, chỉ trong tích tắc, tạo nên ánh lửa trong mắt mình.

— Tại sao anh lại hỏi em thế?

— Bởi vì anh không tin chắc làm cho em hạnh phúc.

— Anh biết thừa, anh là người tốt nhất trong những người đàn ông.

— Không đâu.

— Sống với anh, em hạnh phúc.

Sống với anh! Gã vẫn thường nghĩ tới điều đó. Đã tám năm trôi gã quan sát nàng. Có những ngày, gã tưởng đã hiểu. Những lần khác, gã lại tự hỏi, liệu, ngay từ lúc đầu, gã có đi sai đường không.

— Không xảy ra chuyện gì khiến cô ấy phiền muộn chứ?

— Tại sao cô ấy lại phiền muộn chứ?

Gã lắng nghe những câu đó, nàng và Pierre, khi cả hai cô cháu trong phòng ăn, và bản thân gã đang làm việc trong xưởng vẽ. Gã nghe thấy những chuỗi cười ròn rã, những câu nói không có ý nghĩa gì to tát nhưng chan chứa niềm vui.

Có những buổi tối, một mình trong giường ngủ, nàng bị hoảng hồn, gã biết, vì gã đã học được cách nhận ra cách nàng trăn trở, lật người đi, lật người lại, một nhịp thở nào đó của nàng.

— Em không ngủ được ư?

— Không.

Gã không hỏi nàng tại sao. Chính gã là người đã đi tìm một viên thuốc ngủ và một cốc nước trong buồng tắm cho nàng.

— Uống đi.

— Anh không mệt mỏi vì em chứ?

Gã vuốt nhẹ tóc nàng.

— Tới một ngày anh sẽ mệt mỏi thôi... Đó là định mệnh... Và khi đó...

Nước đã lọt qua áo khoác của gã, dán áo sơ mi vào da gã, ướt sũng đôi giày, lạnh buốt. Gã ném cái nhìn lần cuối về phía nàng. Cái toa móc vẫn không nhúc nhích phía dưới bậc thềm. Một người đàn ông đi ra, xòe ô và ra hiệu gọi một chiếc taxi.

Gã phải đi thôi. Gã không còn bất cứ lý do nào để ở lại đấy. Gã lại tiếp tục bước, đủ can đảm để không ngoái lại. Gã hài lòng về cơn giông đó đã che chở gã và tìm lại được bước đi đặc trưng của gã khiến có thể nhận ra gã từ xa.

— Ngay cả, nếu như anh chỉ nhìn thấy đôi chân em, cách xa hai trăm mét...

Nàng cũng quan sát gã, chăm chú đến cả những tật xấu, những thói mê cuồng, đến từng run rẩy nhẹ ở môi trên, và đặc biệt khi gã đang bị xúc động. Không cần thiết phải một xúc động mạnh. Cũng chẳng phải vì một lý do nặng nề hay nghiêm trọng nào. Trái lại, luôn luôn hầu như vì một nguyên cớ không đâu, một ý nghĩ vô tình, một hình ảnh vừa đến trong đầu, một câu nói, cái nhìn của người đi đường.

— Anh có điều gì vậy, Bernard?

— Anh có chuyện gì nào?

— Anh đang nghĩ gì?

— Anh không cả nghĩ nữa mà.

Nàng vẫn dò tìm, bướng bĩnh, thầm lặng. Điều đó làm gã vui. Gã biết rằng, chín trên mười lần, cuối cùng nàng cũng tìm ra, và ngay cả nếu nàng không nói gì về sự khám phá của mình, gã cũng không thích bị phanh trần.

Gã đã không nhầm khi đoán rằng sẽ đến lúc điều đó sẽ bắt đầu. Giờ đây khi làm xong mọi việc với cái thi hài, với việc tang lễ, giấy tờ, những nhà chức trách và gia đình nàng, gã lại thấy mình đơn độc với nàng.

Bất thình lình, gã nhảy lên bậc một xe buýt gã vừa đợi nơi xe đỗ. Hành khách tránh xa gã, vì người gã ướt sũng. Gã cố châm một điếu thuốc lá đang bục ra trong những ngón tay ướt át của gã.

Chuyện ấy không sao. Càng không thất vọng tìm lại bức thư, gã càng hiểu ra. Hôm nay thứ Bảy. Mai, Chủ Nhật, gã sẽ làm việc lên trang cho báo Nghệ thuật và Đời sống. Gã mong mưa cứ tiếp tục, bởi vì gã không thích gặp người trên bàn vẽ cạnh cửa sổ trông xuống đại lộ, khi nước mưa ngoằn ngoèo trên kính cửa sổ.

Gã không ăn ở tiệm ăn nữa, kể cả trưa nay. Gã sẽ trở lại ngay với những thói quen cũ của gã, những thói quen trước khi có Jeanne.

Ngay từ buổi đầu đến Paris, tình cờ khi gã đã tìm ra được căn hộ ở cổng Saint-Denis, tồi tàn đến nỗi không ai muốn ở, gã buộc phải tự nấu ăn. Sáng ra, gã đi mua thịt, rau nấu chín, pho mát, hoa quả, đôi khi cả bánh ngọt nữa. Khi trở về, gã bật bếp ga, đổ đầy xoong, dọn bàn ăn. Hiếm khi, gã để bát đĩa bẩn kéo dài và thời đó, gã chỉ thuê phụ nữ, nội trợ nửa ngày cho một tuần. Chắc gã sẽ không tìm lại được bà ta. Đó là bà góa của người bảo vệ toà thị chính và nếu như bà ta có còn sống chăng nữa, bà ta cũng đã quá già không thể làm việc được.

Gã sẽ trả lời sao, nếu cô Couvert còn hỏi gã về chuyện tang lễ? Gã không muốn làm bà ta bực tức. Cả bà gác cửa nữa, không ai cả. Gã luôn luôn cố gắng không làm phật ý mọi người. Gã sẽ nói rằng gia đình vợ mình cứ đòi cô ấy phải được chôn cất ở làng quê. Sự thật không hẳn, không hoàn toàn như thế. Thế mà, lạ thay, nó lại trở thành sự thật. Không hẳn gã không đủ quyền đưa Jeanne về nhà mình.

Gã vào cửa hàng quét vôi trắng của bà Dorin, có bộ ngực cao và to, gần như tới cằm. Bà ta nhìn gã bằng con mắt sầm tối.

— Thế nào, ông Jeantet, ai lại tin được như thế?

Gã cố bắt chước vẻ mặt bà ta bằng vẻ mặt mình.

— Có đúng là ông bà già cô ấy đến đây sáng nay không? Thật choáng váng đối với những con người tội nghiệp đó!

Phải thoát ra khỏi chuyện này ngay lập tức.

— Họ cứ khăng khăng đòi cô ấy phải được chôn cất ở Esnandes... - Gã nói rất nhanh.

— Tôi hiểu. Tôi không muốn ai trên đời này bị chôn trong một trong những nghĩa địa tồi tàn mà họ đã tạo nên xung quanh Paris này. Thế nghĩa trang ở đâu?

— Ở Charente-Maritim.

— Tôi cứ tưởng ở vùng phụ cận Bayonne.

— Không.

— Vào khi nào?

— Ngày mai.

— Tối nay ông đi chứ?

— Tôi cũng không biết nữa. Cho tôi nửa cân bơ, nửa tá trứng, một gói bơ camembe... cho cả nửa cân đỗ nữa...

Gã chuyển qua cửa hàng khô, hàng thịt, và, vì gã không có túi đựng thực phẩm, những gói hàng bị ướt chồng chất trên đôi tay gã.

Mưa rơi nặng hạt hơn, từng đợt mù mịt, những giọt mưa nẩy tung tóe, những dòng nước to dần dọc theo hè đường, ngập cả một phần mặt đường. Những tiếng sấm vang ầm ngay trên các mái nhà, và trong khoảng tranh tối tranh sáng những cửa hiệu nhỏ, người ta thấy những người đàn bà làm dấu Thánh mỗi khi có ánh chớp.

Gã leo lên cầu thang. Trên bậc nghỉ, gã phải vất vả mới lấy được chìa khóa trong túi ra, không để bị rơi các gói hàng. Gã đang đến và đã đến.

Xếp những gói hàng lên bàn bếp, gã vội lao đi đóng các cửa sổ, bởi đã có những vũng nước trên sàn nhà.

Rồi gã cởi áo khoác ra, và bắt tay vào làm cái công việc nội trợ nhỏ mọn của gã.