← Quay lại trang sách

PHẦN HAI - I -

Cuộc sống mới của gã không có gì khác biệt lắm với xưa kia, gần giành lại được nhịp điệu bình thường. Gã tiếp tục trải qua một số giờ nhất định trong ngày, trước bàn vẽ, lao động từ từ, bởi gã vốn tỷ mỉ, chỉ ngừng lại để gọt bút chì, rửa bút lông và bút sắt, để nhìn qua cửa sổ hay hơn nữa, bởi mắt gã đã bám vào vật gì, một vết bẩn, bất kể là cái gì trong căn hộ.

Cơ thể gã đã để nhiều thì giờ ngồi trong ghế bành hơn lúc Jeanne còn sống, và đến mức mất ý thức về sự trôi đi của thời gian chăng?

Ngày lại qua ngày, vẻ ngoài trông vắng và yên bình. Người ta có thể tưởng là gã sống một cuộc đời lười biếng, bởi chỉ mình gã biết, sự lao động âm thầm đang tiếp tục trong gã.

Gã không cần gì cả. Những sự cố bên ngoài đều vô nghĩa, tuy gã tỏ ra chú ý đến, chính là vì gã không muốn mất cái gì, tất cả đều đáng kể. Gã lựa chọn, xếp loại trong đầu gã. Thường thường, gã đi tìm trong ký ức gã một thực đơn được kê trong quá khứ vì một sự so sánh, vì một sự nhầm lẫn.

Đó không phải là một độc thoại tiếp diễn, một sự lý giải được gọi là những kết luận lôgích. Tại chiếc bàn, trong chiếc ghế bành của gã hay ngoài phố, đều có chút ý tưởng đến với gã. Gã lật đi, lật lại tất cả các mặt của chúng trước khi để dành cho sau này, như những câu đố cuối cùng đã tìm ra được lời giải. Gã không vội vàng gì. Trái lại, gã có lẽ sợ thấy nó đi quá nhanh.

Gã đi chợ, nấu bếp, rửa bát đĩa. Những nhà buôn đã quen với việc thấy gã mỗi buổi sáng, vẫn vào giờ này, lễ phép, lu mờ, vừa đợi đến lượt mình vừa mơ hồ nhìn quầy bán hàng, những hộp mứt hay một phần tư con bò treo trên móc. Gã không biết rằng khách mua hàng hích tay nhau, đưa mắt nhìn nhau sau lưng gã và, khi gã đã đi ra, những cái lưỡi đua nhau uốn éo. Gã đã trở thành một nhận vật: kẻ góa vợ, chồng của một phụ nữ đã tới mức phải đến tự vẫn trong một phòng khách sạn ở Quảng trường Champs-Elysées.

Có lẽ gã đã có thể tránh được sự hiếu kỳ. Lẽ ra gã chỉ cần đi mua xa hơn hai trăm mét, chẳng hạn đi xuyên qua đại lộ Sébastopol là được. Gã sẽ thấy mình trong một khu phố khác, nơi gã chỉ là một người không quen biết. Gã không nghĩ ra điều ấy. Gã giữ thói quen, và với một số khuôn mặt quen thuộc, cả đời gã, gã vốn cần một thói cũ, và gã không bao giờ chịu nổi việc phải thay đổi nó, trái với lòng mình.

Để tìm một người đàn bà giúp việc nội trợ, gã đã phải leo lên rất cao, nơi vùng ngoại ô Saint-Denis, hỏi những người gác cửa, những người buôn bán, leo đến hai mươi lần năm sáu tầng lầu. Những người đàn bà, tất cả đều hơn năm mươi, thường là bảy mươi, đều lắc đầu: thời gian của họ kín cả rồi, hoặc gã ở xa quá và họ đi lại khó khăn.

Bà Blanpain, người cuối cùng, bằng lòng đến tuần một lần, vào buổi sáng thứ sáu. Bà ta cũng đã có tuổi, cao lớn và vai rộng như gã, và còn bệ vệ hơn, rắn rỏi hơn. Bà ta sống với cô con gái đang chuẩn bị thi Nhạc viện. Bà ta không biết gì về vụ tự tử. Cái tên Jeantet không làm bà ta nhớ lại bài báo ngắn đã đăng trong các báo hàng ngày. Chắc hẳn bà ta không đọc. Buổi sáng đầu tiên của bà, bà đã lau chùi sạch sẽ bếp núc, rồi sắp xếp lại các tủ tường.

— Tôi không biết ai là người đàn bà đã sống ở đây, việc đó không liên quan đến tôi, nhưng điều tôi có thể nói, đó là bà ấy không được chu đáo lắm.

Bà ta thêm, vì sợ làm gã bị tổn thương:

— Có lẽ bà ta làm việc ở ngoài và không có nhiều thời gian để lo việc nội trợ chăng?

Bà ta tìm thấy những kẹp tóc, một chiếc lược gãy đằng sau tủ và cả đôi giày cũ đi trong nhà mà Jeantet không nhớ ra.

Gã không bao giờ nhận thấy sự lơ là của Jeanne.

— Nếu tôi có thể sắp xếp tôi được tự do cả ngày, tuần tới, nếu ông đồng ý, tất nhiên rồi, tôi tiện thể lau rửa các bức tường, vì cũng rất cần đấy. Trông nó sẽ sáng sủa hơn.

Bà ta đã làm vậy. Để lau chùi phòng ăn, bà ta buộc phải tha cái giường gấp hết xó này đến xó khác. Luôn luôn bà ta vấp phải nó.

— Ông vẫn dùng cái thứ đồ cũ chiếm mất bao nhiêu chỗ ấy ư? Tôi biết có người trong cư xá của tôi, đang tìm một chiếc giường cho một bà họ hàng từ tỉnh đến. Nếu ông không đòi quá đắt...

Bà ta đã tháo mấy đường khâu chừng vài xăngtimét ở cái đệm, xem có cái gì bên trong.

— Trong là len. Nhưng đã lâu quá rồi không được trải lại...

Một ông già bé nhỏ đến tìm chiếc giường cùng với một chiếc xe kéo tay. Cái xe làm gã nhớ lại cái xe gã đã thấy trước đèn đỏ, hôm thứ Tư, cái ngày gã thấy nhà mình trống vắng, và gã đã để mắt nhìn theo vô cớ.

Cứ thế, những hình ảnh đan xen nhau rối bù. Gã thấy lại một chiếc xe kéo tay chính gã đã đẩy ở Roubaix, khi gã mới mười hai tuổi và khi gã đi tìm một chiếc tủ bếp do mẹ gã mua ở phòng bán đấu giá.

Anh gã đã gọi điện thoại cho gã, hôm Chủ Nhật đầu tiên. Buổi sáng, khi gã đang làm việc như gã tự hứa với mình, trước cửa sổ, và mưa rơi, không nặng hạt như đêm trước, đủ để vạch lên những bức tranh ròng ròng trên cửa kính. Chuông reo làm gã giật mình. Gã đã nghĩ đến tất cả, cảnh sát, dịch vụ tang lễ, S.N.C.F, nhưng lại không nghĩ là anh gã.

— Lucien đang nói với chú đây. Tôi biết tin trên báo. Vợ tôi và tôi bày tỏ lòng chia buồn với chú.

— Cảm ơn anh Lucien.

— Chú có khỏe không?

— Không tồi.

— Anh chị không nhận được mời tham dự và tự hỏi việc mai táng đã tiến hành chưa...

Câu đó, chính là vợ anh ta nhắc.

— Bố mẹ cô ấy thích đem thi hài về làng.

— Chú không suy sụp quá chứ? Chú không đến thăm chúng tôi vào một trong những ngày này sao?

— Có lẽ... chắc hẳn...

— Blanch chắc không biết, vì nó đi nghỉ hè ở ponne-les-Bains, bãi tắm. Gần đây, chú không gặp nó à?

— Không.

— Anh chị cũng vậy. Cuộc đời nó vẫn luôn bí ẩn như thế đấy. Nếu như chúng tôi biết nó ở ponne, chính vì nó đã gửi một bưu ảnh cho bọn trẻ... Sớm gặp lại!

— Sớm gặp lại!

Ít lâu sau khi cưới Jeanne, gã cùng với nàng tới thăm anh gã và người chị dâu, vào một ngày Chủ Nhật, trong căn nhà bạt của họ ở Alfortville. Lúc đó, đang tháng chạp, và như Francoise nói, người ta không thể thẩm định một ngôi nhà về mùa đông, nhất là một ngôi nhà ở vùng ngoại thành. Gã nhớ những căn phòng quá nhỏ đến ngạt thở. Ba đứa trẻ, vào thời đó còn rất nhỏ. Đứa lớn độ tám chín tuổi và đứa nhỏ nhất còn bò dưới đất.

Người vợ của Lucien đứng ra tiếp họ ở bộ sa lông, chắc chưa bao giờ dùng đến và ở đó tất cả đều lờ mờ và lạnh cóng. Chị ta xin lỗi đi một lúc và bổ nhào vào một hiệu bánh ngọt ở khu vực đó, mời họ nhấm nháp. Lũ trẻ con kêu khóc. Chị ta đuổi chúng đi, trừ đứa bé nhất, ra chơi ở bên ngoài, mắt vẫn theo dõi chúng qua cửa sổ, mồm không ngừng nói, đúng hơn là nêu những câu hỏi.

Lucien, tẩm ngẩm hơn, vẻ khó chịu, quan sát em trai và em dâu, không để lộ mình đang nghĩ gì.

— Như thế, dẫu sao cô cũng đã đi tới quyết định kết hôn với em rể tôi - Francoise vờ tỏ ra phấn khởi - chú ấy luôn luôn quá sợ đàn bà. Cô quen chú ấy đã lâu chưa?

Những câu hỏi cứ nối tiếp nhau: cô gặp chú ấy ở đâu? Chú ấy tỏ tình thế nào? Cô thích trẻ con chứ? Cô định có mấy đứa? Cô là người bán hàng trong một cửa hàng à? Đánh máy ư? Không phải à? Nghề cô là nghề gì? Bố mẹ cô để cô một mình đến sống ở Paris à? Cô không có họ hàng ở đó à? Lúc bắt đầu không cực nhọc lắm chứ?

Ngày hôm đó, Jeantet mới phát hiện ra sự độc ác của người chị dâu. Sự lưu loát cũng như vẻ khờ khạo của chị ta không giấu nổi một kế hoạch đã định trước. Chị ta đã quyết định phải biết và chắc sau một nửa tiếng đồng hồ chơi trò tàn bạo ấy, chị ta đã đoán ra tất cả.

Jeanne không đứng vững, cố cầm nước mắt, đưa mắt nhìn gã van xin đến cứu nàng.

Lucien, bản thân anh ta không hụt hẫng. Anh ta hình như đã mua sự yên bình bằng sự câm lặng của mình, một lần cho xong chuyện.

Jeanne còn bị suy sụp về chuyện đó trong nhiều ngày sau, và kỷ niệm đó chắc đã trở lại với nàng từ rất xa. Mãi lâu sau, nhân cả hai nói chuyện về gia đình nói chung, nàng đã hỏi gã:

— Tại sao anh không dám nói ra sự thật cho chị dâu anh? Anh xấu hổ ư?

Gã không chắc nàng đã tin gã, khi gã khẳng định với nàng rằng không phải vì gã mà là vì nàng mà gã ngồi im. Đó là sự thật. Gã không có gì hổ thẹn vì quá khứ của Jeanne.

— Anh hãy thú nhận đã đến lúc anh hối tiếc.

— Không.

Gã thật lòng và giờ đây nàng không còn ở đây nữa, gã càng nhận ra điều ấy hơn bao giờ hết.

Nhiều lần, gã đã suýt nói, khi họ chạm đến chủ đề quá khứ.

— Em thấy không, chính là do cái đó, trái lại...

Gã kìm lại đúng lúc. Thật khó cắt nghĩa, hiểu được còn khó hơn. Bản thân gã cũng không tin chắc đã hiểu.

Chủ Nhật tiếp đó, gã đã tới chỗ Lucien, thấy anh mình đi ra với một cái bụng tạo thành một ổ đệm dưới áo sơ mi và đôi cánh tay càng ngày càng lông lá. Vợ anh ta, đã nhuộm tóc hung đỏ, và đã trở nên cực kỳ đỏm dáng. Họ ngồi với nhau trong khu vườn nhỏ xưa kia Lucien trồng rau và bây giờ mọc toàn hoa.

— Marguerite và Jacques đi bơi.

Marguerite đứa con gái duy nhất, có lẽ đã mười ba. Jacques là đứa mà lần cuối cùng gã đến thăm, còn đeo yếm dãi.

— Julien, trong quân đội. Nó nhập ngũ trước tuổi, để vào không quân. Nó là học sinh sĩ quan ở trường hàng không Saint-Raphael.

Qua chiếc cửa sổ nhỏ, gã phát hiện ra một bộ xa lông hiện đại, và một cái bếp rất mốt.

— Chú thấy ngôi nhà đã thay đổi chứ? Khốn nạn thay người ta cứ phải xây những ngôi nhà tương xứng đối diện chúng tôi. Trước, đây hầu như một đồng quê và nhìn thấy sông Seine. Hiện thời, chúng tôi luôn đợi bị trưng thu để làm chỗ cho một nhóm mới của H. L. M.

Lucien vừa hút tẩu vừa nhìn em trai, nhận xét.

— Chú không thay đổi mấy... Đúng ra, chú bao nhiêu tuổi rồi? Ba chín à?

— Bốn mươi.

— Đúng, chú sinh vào tháng sáu...

Anh ta đi về phía ngôi nhà để tìm rượu vang. Chị vợ lợi dụng ngay:

— Chuyện đó xảy ra thế nào? Chú được cảnh sát báo cho biết à?

Gã trả lời bằng một cử chỉ mơ hồ.

— Việc đó đã như một cú đánh, tôi hiểu ra như vậy. Tôi luôn cho rằng, dù Lucien muốn nói thế nào thì nói, nó chỉ đến cái gì phải đến, và cuối cùng chúng tôi cũng đã nhận ra rằng đó là đối với hạnh phúc của chúng tôi. Theo ý kiến tôi, nếu chú cho phép, người đàn bà đó không bình thường. Cô ấy không phải được sinh ra cho chú, càng không phải cho loại người sống như chú. Điều đó đã đập vào tôi, chỉ một lần tôi gặp cô ấy, và sau đó tôi đã nói ngay tất cả với anh chú. Cuộc sống không dễ dàng với cô ấy, phải không? Chú thấy chưa, Bernard, quá khứ không tự xóa nhòa được, cho dù phải chịu khổ đến đâu chăng nữa.

Lucien quay lại với một cái chai và mấy cái cốc.

— Cô nói gì thế?

— Em bảo Bernard, suy cho cùng, đó là một điều tốt với chú ấy. Anh có nhớ cuộc chuyện trò của chúng ta cách đây tám năm không? Điều làm em lạ là sao điều đó lại kéo dài lâu đến thế. Có một cái gì đó trong đôi mắt cô ấy...

Lucien đưa mắt nhìn em trai, sợ rằng thấy gã bị choáng, hoặc tức giận nhưng anh ta ngạc nhiên bắt gặp một nụ cười trên môi gã.

— Thôi! Đừng nói về chuyện ấy nữa, cái gì đã qua, thì đã qua rồi! Chú bằng lòng với công việc của chú chứ?

— Tôi làm việc rất nhiều.

Bởi gã đã bắt đầu như một thợ nhỏ trong một nhà in nhỏ ở Roubaix, gia đình gã luôn thấy gã mặc áo khoác màu xám, trước một máy in.

— Tôi thấy có vẻ hợp với ý đồ của tôi. Tôi làm việc cho những tờ tạp chí và các nhà xuất bản.

— Trả khá chứ?

— Cũng tạm.

— Chú không đi thăm mẹ?

— Không.

— Chúng tôi đã đến đó dịp Giáng sinh, cùng với lũ trẻ. Bà không thay đổi gì. Người ta thề rằng đáng lẽ bà phải già đi, bà lại trẻ ra, chính Poulard lại đang ra đi một cách nhẹ nhàng. Khi chúng tôi ở đấy, ông ta không rời khỏi chiếc ghế bành nữa, và tối hôm ấy, một người hàng xóm giúp mẹ kéo ông ấy lên giường. Thằng con Méreau, xem nào, chú cùng đi học với nó, bây giờ nó có một cửa hàng máy thu thanh. Chú còn nhớ Méreau chứ?

— Thằng tóc hung phải không?

— Phải rồi. Nó sống ngay cạnh cái quán rượu mà chẳng bao lâu nữa mẹ sẽ là chủ sở hữu duy nhất. Thật ra, mẹ đã là chủ rồi.

— Hình như Poulard có một cô con gái?

Họ nói về người chồng thứ hai của mẹ mình.

— Cô ta vẫn sống. Cô ta đã bỏ chồng, bỏ con đến sống ở Paris.

— Vậy ít ra cô ta cũng sẽ được thừa kế một phần chứ?

— Không phải vốn buôn, bởi mẹ đã nhận được của Poulard món quà tặng lúc còn sống.

Tiếp đó, họ không nói về ông Poulard nữa, cũng chẳng về Jeanne mà nói về gã.

— Chú không cảm thấy đơn độc ư?

— Tôi quen rồi.

— Chú có tìm ai đó giúp việc cửa nhà không?

Thú nhận với họ, gã tự đảm đương lấy sáu ngày trên bảy ngày để được ích gì?

— Chú ăn tối với chúng tôi chứ? Lũ trẻ con sẽ không về muộn đâu. Chúng khó lòng nhớ ra chú, việc đó sẽ làm chúng vui thích vì đã biết được chú mình.

— Tôi phải về Paris...

Gã có lẽ không thể nói được cuộc viếng thăm này bổ ích với gã được cái gì; thế nhưng, gã tin chắc việc đó đã không phải là chuyện mất thì giờ.

Mấy câu nói của người chị dâu làm gã nhớ lại câu nói của cô Couvert: “Cô ấy không định thử xem có được hạnh phúc không đâu.”

Jeanne đã sống với gã tám năm, trong một không gian chừng mấy mét vuông, những bức tường vây bọc, càng đơn côi thêm bởi cái sàn nhà và cái trần. Thế mà, nay đã khó hình dung ra khuôn mặt nàng, thấy lại bóng dáng nàng ở những nơi mà nàng vẫn quen đứng đó. Hình ảnh vẫn nhòe, tựa như không thực nữa. Gã nghĩ tới, chẳng hạn, chiếc váy áo đen của nàng, nước da trắng của nàng, tới những mó tóc của nàng rũ trên một bên má, nàng ngồi trước máy khâu, Pierre xuống nhà mang theo sách vở...

— Ngài cho phép chứ, thưa ngài Bernard?

Từ chỗ gã đang ngồi, gã nghe thấy tiếng nói của Jeanne và đứa bé, tiếng rào rào của chiếc máy khâu. Pierre đọc một bài toán số học kiểu vấn đề của những thùng vang này có bao nhiêu lít và thùng vang kia có bao nhiêu lít. Jeanne đứng trong khung cửa, sách cầm tay.

— Cháu được nghĩ một lúc...

— Cháu hiểu bài toán chứ?

Gã không hình dung được trông nàng lúc đó thế nào.

Sáng sớm, nàng trần truồng ra khỏi phòng tắm; thường thì nàng hay có chuyện phải xem lại bếp ga trước khi mặc quần áo. Gã quen thuộc với khuôn hình, màu sắc, sự căng chắc của cơ thể nàng, nhưng giờ đây điều đó với gã hình như phi thực.

Nàng không hiểu, lần đầu tiên, khi, một buổi tối, nàng muốn luồn vào giường gã, tưởng làm cho gã thích thú, và gã đã đẩy nàng ra. Nàng thấy nhục.

— Tôi xin lỗi ông... - Nàng vừa ấp úng vừa nhặt chiếc áo ngủ gã đưa cho nàng.

Họ vẫn còn xưng ông tôi, cô tôi với nhau. Đó là trước khi có cuộc viếng thăm của thanh tra Gordes và Jeantet chưa biết cuộc sống của nàng. Má của cô gái trẻ lúc đó còn lâu mới liền sẹo.

Chắc đã nửa đêm. Đèn nhà đã tắt và xưởng vẽ, lúc sáng lúc tối nhờ cái biển hiệu đèn néon của nhà buôn đồng hồ. Gã đã đưa tay ra nắm lấy bàn tay Jeanne ngồi ở mép đi-văng.

— Không phải cái đó... - Gã thì thào.

Nàng không tin gã, cố giữ để khỏi khóc, dẫu sao những giọt nước mắt cũng lăn trên má nàng, và một giọt đã rơi xuống bàn tay gã.

— Ông nói vậy là để làm tôi không hổ nhục. Chính tôi đã nhầm. Ngày mai, tôi sẽ ra đi. Ông đã tốt với tôi, lẽ ra tôi phải hiểu ngay mới phải...

Không có thứ nửa sáng nửa tối kỳ lạ đó, có lẽ gã đã không dám.

— Lại thật gần tôi nào...

— Ông hãy thú nhận như thế là chỉ để làm vừa lòng tôi...

— Không...

Gã nói vào tai nàng và, và giây lát sau, gã không còn biết nước mắt đầm đìa trên má gã là nước mắt của Jeanne hay là của gã nữa.

Gã cố làm cho nàng hiểu, tránh những câu quá rõ ràng, rằng gã không tin vào khả năng, rằng chỉ vì lẽ đó mà gã đã đẩy nàng ra, rằng gã chưa bao giờ dám mong có một người đàn bà hoàn toàn...

Không nhìn thấy nàng, gã đoán ra được sự hoang mang ở nàng, rồi là tình thương, cuối cùng, về sau, một thứ tình cảm trìu mến.

Họ ôm lấy nhau.

— Ông đã thử thực sự chưa?

— Rồi.

— Luôn không?

— Cũng luôn đấy.

Gã đã tưởng hiểu được việc nàng chỉ về phía trước cửa ngôi nhà chứa, phía bên kia đường phố.

— Với...?

Cả nàng nữa cũng không dám nói thẳng ra. Sau một phút im lặng, nàng lại nói, thì thào.

— Im nào!... Đừng nói nữa... Để em làm.

Gã xấu hổ. Mười lần, gã định đẩy nàng ra. Chưa bao giờ, gã cảm thấy xa cách mọi thứ đến thế. Paris, phố phường, nhà cửa, khách qua đường, những tiếng ồn, không gì tồn tại nữa. Bernard Jeantet không tồn tại nữa. Gã là một cơ thể gắn vào một cơ thể. Gã nghe thấy tiếng thở hơi khác với tiếng thở của gã, cảm thấy một trái tim đập nhưng không phải là trái tim của gã.

Gã muốn nói với nàng: “Được ích gì, một khi đó là điều không thể được?”

Mọi sự hổ nhục trở về với gã, từ rất xa, dày vò trái tim gã.

Bật sáng lên, lấy lại chỗ đứng trong thực tại, trong cái hàng ngày... Mỗi lần gã động đậy, nàng lại bám chặt lấy, miệng lặp lại:

— Suỵt, im nào!...

Và có thể nói, từng tí, từng tí một, nàng đã lọt được vào ý chí của gã, vào niềm tin của gã. Cơ thể gã liên thông với gã, cả nhịp điệu, cuộc sống. Cứ mỗi lần thất bại, gã lại giãy giụa, và nàng lại tiếp tục cái công việc về phần nàng.

Việc đó kéo dài ba tiếng đồng hồ, trong khoảng thời gian đó, gã có cảm giác hàng trăm lần, đâm sầm xuống một vực thẳm đen tối và tuyệt vọng, loáng thoáng những tia sáng mờ nhạt vừa nhìn thấy đã tắt ngấm, ba giờ đồng hồ đau đớn nhất và kỳ diệu nhất trong đời gã.

Gã luôn nhớ mãi tiếng reo của phụ nữ, khàn khàn, chiến thắng:

— Anh thấy chưa?

Lần ấy, gã khóc vì vui sướng, về phía nàng, nàng cũng khóc, vì mệt mỏi, rã rời. Nàng vừa xưng anh em với gã, và vẫn nằm dài ra, má áp vào má gã.

— Hài lòng chứ?

Lúc đó, nhẹ nhàng, trìu mến, gã ghì chặt nàng trong vòng tay, bàn tay ngập ngừng trong bóng tối, sợ vết sẹo còn đau, gã mơn man vuốt tóc nàng. Họ im lặng rất lâu. Sau đó gã thầm thì bằng một giọng khó phân biệt:

— Em sẽ không bỏ đi chứ?

Nàng lấy đầu ngón tay ấn vào miệng gã, như áp dấu vào một thoả ước:

— Anh có tin anh có thể sống được với em không?

— Có.

— Mặc dầu...?

Nàng cười.

— Bằng chứng đấy!

— Nhưng...

— Thôi anh đừng nói nữa! Đến giờ anh phải ngủ rồi... Sáng mai, anh còn có công việc.

Nàng gỡ ra, hôn vào trán gã, vẻ nghĩ ngợi như thể điều đó đã có một ý nghĩa trong đôi mắt nàng, và gã đã nhìn thấy thân hình nàng đang đi về phía cửa.

Trong đầu gã, với gã, đó là đêm của họ, cái đêm quan trọng nhất trong cuộc đời gã. Sáng ra, gã không dám mở mắt. Gã nghe thấy nàng đi đi lại lại trong cái bếp chật chội. Nàng đã thay bằng chiếc váy áo đen. Nàng đã tắm rửa, sửa sang đầu tóc, trừ một mảng tóc, vẫn là nó, buông xuống một bên má. Nàng mang cà phê cho gã, mỉm cười e thẹn, như thể, cả nàng nữa, nàng cũng sợ điều đó không tiếp tục nữa.

Nàng suýt đã gọi gã bằng ông, điều đó sẽ làm cho công việc tiếp theo khó khăn hơn. Đoán vậy, nàng ép mình:

— Anh ngủ ngon chứ?

Điều tồi tệ, sự ngượng ngùng, sự nặng nề đã qua đi, chỉ còn lại điều tốt, sự reo vui chiến thắng trong hơi ấm tình người của chiếc giường.

— Anh thấy chưa!

Họ không nói với nhau về điều ấy nữa, không bao giờ. Nàng nhận ra một vài dấu hiệu nào đó, mà chính gã cũng không biết, những buổi tối mà nàng có thể tìm lại được điều đó. Có thể nàng đã cố ý làm điều đó, bằng việc kéo dài thêm tư thế trần truồng chăng? Nàng vẫn chào tạm biệt gã như thường lệ. Về phần gã, đến lúc gã tiếp tục đọc ít lâu, trong chiếc ghế bành của gã.

Khi gã cuối cùng đã đi nằm, gã nghe thấy ngay tiếng cọt kẹt của lò so thép chiếc giường gấp. Gã không bao giờ nghe thấy tiếng bước chân của Jeanne trên sàn nhà, tuy biết nàng đang đứng im trước cửa, sẵn sàng rút lui nếu gã không ra hiệu.

— Lại đây em!

Đó là bí mật của họ, ít ra gã cũng tin là thế. Trong cuộc thăm viếng Chủ Nhật vừa rồi, chị dâu gã đã chả nói với gã ư:

— Cũng còn may là chú không thể có con... chú nghĩ xem, lẽ ra chú đã có thể còn lũ nhóc trên tay!...

Phải chăng vì thế mà gã đã luôn luôn theo dõi những người gã mới tiếp xúc và đôi khi cả những người gã gặp trên đường phố?

Khi gã gặp Jeanne, gã chỉ miễn cưỡng. Tối ấy gã đứng rất lâu bên cửa sổ, quan sát những gì đang xảy ra ở phố Sainte-Apolline. Gã không chủ tâm chọn căn hộ của gã. Gã chỉ tìm được một cách ngẫu nhiên, trong khi gã còn không biết nữa, ít nhất cũng không chắc phải như vậy.

Đó là cái khách sạn đầu tiên loại ấy, ở Paris, gã đi vào, cùng với một người đàn bà, một cô gái tóc hung mặc áo hồng, và mười lăm phút sau, gã đi ra, đầu cúi gằm, và thề rằng sẽ không bao giờ thử lại nữa.

Tối này sang tối khác, gã nhìn những phòng chứa sáng ánh đèn. Những rèm che, ở cửa sổ bên trái, ở lầu một, không khép kín và con mắt gã cắm xuống chiếc giường.

Jeanne hẳn đã nhận ra cảnh đó, chỉ hai ba tháng sau cuộc hôn nhân của họ, bởi ít khi nàng nhìn từ góc ấy, thêm nữa phòng ấy chắc phải có người. Nàng đã quay lại phía gã, cau mày, như thể một ý nghĩ nào vừa đập vào đầu nàng, như thế cuối cùng nàng đã phát hiện ra chìa khóa của cái bí ẩn đang dày vò nàng.

Phải chăng, đấy là buổi tối đầu tiên, nàng không có một chút nghi ngờ thuộc loại ấy?

Điều đó trở nên rõ ràng hơn. Với nàng, gã không còn là một người xa lạ vừa mới nhặt nàng về trên đường phố. Nàng biết gã hơn bất cứ ai trên đời.

Cái lần đó, giữa hai người đã có một phút sượng sùng. Gã đã muốn nói với nàng, khẳng định với nàng rằng nàng nhầm, gã chưa trải qua những buổi tối bên cửa sổ, đợi căn phòng trước mặt sáng đèn lên.

Điều đó đã xảy ra, chắc chắn rồi, trước khi có Jeanne kia, bởi gã vẫn luôn hy vọng. Cuối cùng, gã đã lao ra ngoài. Gã biết những phố khác, trong những khu phố khác, với những khách sạn hoàn toàn tương tự và những người đàn bà đang giậm chân trong vùng nửa sáng nửa tối.

Cả gã nữa, vì gã nhìn thấy điều đó được làm ngay trước nhà gã, gã nhìn tận mặt. Gã không quan tâm đến vẻ xinh xắn, hình dáng cơ thể họ. Gã theo dõi đôi mắt, cái miệng, nét mặt họ. Gã đã học được cách nhận ra, chỉ bằng cái liếc mắt, những người nào cợt nhạo, những người nào tức giận, những người nào đang sốt ruột và những người nào mà tình mẫu tử làm gã tê cóng.

Phải chăng đó là cái mà Jeanne đã hiểu? Phải chăng có thể có người nào khác gã hiểu được? Ngay cả trước khi gã trở thành kẻ góa bụa, những người khu phố đó nhìn gã như một người khác thường và thường tự hỏi liệu họ có đoán vậy không, luôn luôn gã cảm thấy một sự tò mò ngờ vực, như thể người ta đang tìm cách gỡ điều gì đang vướng mắc.

Jeanne ngẫu nhiên đã bước vào đời gã. về phía gã, không hề có bất kỳ có ẩn ý nào, khi gã tới nhặt nàng trên hè đường, và gã thấy mình hầu như bất đắc dĩ phải đưa nàng về nhà.

Gã không mưu đồ gì. Đã có một đêm của họ, và sau đó, gã đã xây đắp cuộc đời gã xung quanh nàng, nàng hẳn phải cảm thấy điều đó. Nàng là tài sản quý báu nhất của gã. Gã muốn nàng hạnh phúc. Đó là sự quan tâm trên hết của gã. Không phải bởi ích kỷ, để cảm thấy được dễ chịu, cũng không phải bởi hàm ơn. Gã cần biết có một người ở trên đời đem lại hạnh phúc cho gã.

Gã tự hỏi, bây giờ liệu nàng có nhận ra điều đó không. Gã không chắc lắm. Bản thân gã cũng bắt đầu không còn tin mấy nữa cơ mà.

Ngày ngày, gã làm việc, gọt bút chì, lau rửa bút lông, ngòi bút sắt, làm thêm chút nữa, rồi, trong chiếc ghế bành của gã, hay ăn, đối mặt với chính mình, gã nghĩ đến Jeanne với cảm giác nàng trở nên mờ nhòe hơn, ít quan trọng hơn và rút cục chính Bernard Jeantet mới là người gã cố gắng đến say mê để hiểu.

Có lẽ gã đã sống với Jeanne ít hơn là với chính gã trong tám năm trời ấy chăng? Phải chăng nàng chỉ là một sự có mặt, một kẻ đồng lõa, ai biết được, một nhân chứng cần thiết. Nhưng một nhân chứng về cái gì?

Một buổi chiều, nàng đã đến để chết trong một phòng khách sạn mà gã không biết cả sự tồn tại của nó nữa, ở một khu phố khác hẳn khu phố của họ. Nàng đã đem chiếc váy áo, đôi giày ở đại lộ Saint-Denis của nàng cho cô hầu phòng. Người ta đã không tìm thấy chiếc túi của nàng, không thấy giấy chứng minh, không thấy gì thuộc về gã, có một chút quan hệ với gã.

Điều đó, gã đã hiểu ngay tức khắc, phố Berry và những bông hoa là những điều giãi bày, biểu lộ ra như một ý nguyện hoàn toàn lạc lõng. Gã chưa bao giờ tặng nàng hoa. Một hôm, nàng mang hoa từ chợ về, gã tỏ ra khó chịu, và vì nàng hỏi gã, cuối cùng gã đã thú nhận là hoa làm gã tức giận.

Đúng là như vậy. Gã liên tưởng hoa với miền quê mà gã không yêu, với những khu vườn ở ngoại ô tê cóng dưới mặt trời, cũng như khu vườn của người anh Lucien của gã, mà chỉ nhìn thôi gã đã cảm thấy hoang mang vô cớ.

Cái chết của Jeanne, là một sự chạy trốn, mà chính là gã, nàng đã chạy trốn. Gã cần phải biết tại sao. Đó là quyền của gã. Đó là sự cần thiết, bởi vì phần còn lại của đời gã phụ thuộc vào đấy. Và chính vì lẽ đó mà gã vẫn nghĩ rất nhiều đến bức thư.

Ngay cả nếu như nàng chỉ viết vài dòng, gã có thể biết được nàng đã nhìn nhận gã ra sao, gã thế nào trong con mắt người khác, của ai đó đã trải qua tám năm trời xem gã sống.

Ở tờ Nghệ thuật và Đời sống, ông Radel-Prévost đã đợi hai ngày thứ Tư để nói với gã bằng một sự bối rối.

— Jeantet ạ, về chuyện tôi biết điều gì đã xảy ra với ông, và tôi xin bày tỏ lời chia buồn.

Người ta cảm thấy ông ta đang tự hỏi liệu ông ta làm như vậy có đúng không và ông ta đang đợi sự phản ứng của gã.

— Xin cảm ơn ông! Tôi rất cảm động.

— Ông không cảm thấy quá bối rối chứ? Ông đã bắt đầu vượt qua được rồi chứ?

Rồi, lơ đãng, ông nhìn lên bức chân dung con gái ông:

— Tôi cứ định hỏi, ông xoay sở ra sao với đàn con của ông đây, nhưng tôi nhớ ra ngay, ông không có con... Năm nay, khi nào thì ông nghỉ hè?

— Tôi không định rời khỏi Paris.

— Có lẽ ông có lý, bởi đâu đâu người ta cũng thấy những người là người... vợ tôi và các con đang ở Evian, tôi sẽ đến cùng với họ vào ngày thứ sáu trong ba tuần...

Gã thấy Paris cứ mỗi lúc càng thêm trống rỗng như thế, những lỗ hổng trong khối nhân sự những nhà gã làm việc. Một số văn phòng đóng cửa hoàn toàn. Rồi, gã tham dự vào chuyển động ngược lại, trước hết vào sự trở về của những người làm công, bắt đầu bằng những người tầm thường nhất để kết thúc bằng các ông chủ, những người còn tiếp tục trải qua kỳ nghỉ dài ở biển hoặc trong những ngôi nhà của họ ở miền quê.

Một buổi thứ Tư, trong khi rời khỏi phố Francois đệ nhất, gã đến lang thang ở phố Berry, không có chủ định rõ ràng. Gã vẫn luôn biết rằng gã sẽ quay lại đây. Gã đứng im rất lâu trên vỉa hè, đối diện với khách sạn Gardénia, và thấy một đôi đi vào. Người đàn bà cười cợt. Người đàn ông tự mãn, hơi giống ông Radel-Prévost.

Gã không bắt gặp chị tớ gái người Ý. Gã thử tính xem chị ta đã rời khỏi phần việc của mình được bao lâu.

Gã tính quay trở lại.

Gã nghĩ ngợi rất nhiều, ngày hôm đó, trong khi bước đi trên đường phố. Và khi gã đi nằm, tuy mệt mỏi, gần hai tiếng đồng hồ, gã vẫn mở to mắt.

Không còn ai nữa, trên ngưỡng cửa, rình đợi dấu hiệu của gã...