Chương 5
Những ngày cuối tuần là những ngày tự do của tôi. Tôi sống trong sự mong chờ Giờ khắc quý báu[15] hằng tuần: tối thứ Sáu khi kẻ ma mãnh quay về Malmédy.
Tôi ngủ trên chiếc giường, giờ đã trở lại thành vật sở hữu của mình. Tôi lại khám phá sự xa xỉ lớn nhất hành tinh này: có một phòng ngủ cho bản thân, nơi ta có thể thụ hưởng sự yên tĩnh tuyệt trần. Flaubert cần có một cái loa[16]; còn tôi, tôi không thể sống thiếu một nơi để mơ mộng - một căn phòng không đồ đạc, không một bóng người, không vật chướng ngại cho sự tha thẩn vô định của trí óc, nơi vật trang trí duy nhất là cái cửa sổ - khi một căn phòng có cửa sổ nghĩa là ta đã có một phần bầu trời cho chính mình. Tại sao lại thèm muốn thứ khác cơ chứ?
Tôi đã kê chiếc giường của mình - bị Christa chiếm đoạt - ở vị trí có thể nhìn thấy bầu trời. Tôi nằm dài hàng giờ, mũi chếch nghiêng, để ngắm những đám mây và khoảng không của mình. Kẻ chiếm đoạt chỗ nằm của tôi không bao giờ nhìn về phía cửa sổ: nó trắng trợn đánh cắp tài sản quý giá nhất của tôi.
Tôi sẽ là kẻ bội bạc nếu phủ nhận việc Christa đã dạy cho tôi biết rõ hơn giá trị của thứ nó đã tước mất của tôi: nỗi cô đơn có chủ định, sự yên tĩnh, quyền đọc sách suốt các buổi chiều mà không phải nghe kể về Marie-Rose và Jean-Michel, niềm mê say lặng nghe tiếng ồn tắt ngấm, và hơn hết, sự mất dạng của nhạc rock Đức.
Về phương diện này, tôi sẵn lòng thừa nhận món nợ của mình. Nhưng giờ đây khi tôi đã hiểu được điều đó, liệu Christa có thể ra đi hay không? Tôi hứa sẽ không quên bài học này.
Từ tối thứ Sáu đến tối Chủ nhật, tôi chỉ rời phòng ngủ của mình cho những cuộc đổ bộ cần thiết vào phòng tắm hay nhà bếp. Tôi nán lại rất ít ở nhà bếp, mang theo những thứ dễ ăn vào giường. Tôi tránh mặt tối đa có thể những kẻ bội bạc, bố mẹ tôi.
Tôi nghe thấy họ lo lắng nói: “Con bé không sống nổi khi bạn nó không ở đây!”
Trên thực tế, tôi chỉ sống khi nó không ở đây. Chỉ cần cảm nhận sự có mặt của nó, ngay cả khi nó không ở cạnh tôi - chỉ cần cảm nhận sự có mặt của nó trong bán kính một trăm mét, dù tôi có nhìn thấy nó hay không, không quan trọng - là tôi cảm giác như có thứ hỗn hợp bê tông đang chảy tràn lên cơ thể làm tôi ngạt thở. Chẳng ích gì khi tôi lập luận, tự nhủ với bản thân rằng: “Nó đang ở trong phòng tắm, còn lâu nó mới xong: cậu được tự do, như thể nó không có ở đây vậy”, ảnh hưởng của Christa còn mạnh hơn cả thứ logic này.
- Từ tiếng Pháp cậu thích nhất là từ nào? một hôm nó hỏi tôi.
Những câu hỏi của Christa là câu hỏi tu từ. Nó hỏi tôi chỉ cốt để tôi đặt lại cho nó cùng những câu hỏi đó: chất vấn là một trong những phương tiện được nó ưa dùng cho thói tâng bốc bản thân muôn thuở của nó.
Tôi ý thức rằng nó sẽ không bao giờ lắng nghe câu trả lời của mình, tuy nhiên vẫn ngoan ngoãn nói:
- Biên cung. Còn cậu?
- Công lý, nó vừa nói vừa tách rời từng âm tiết, như người ta vừa khám phá ra một thứ gì đó. Cậu thấy không, sự lựa chọn của chúng ta mang tính biểu trưng đấy. Cậu chọn một từ vì tình yêu thuần túy đối với từ đó; còn với tôi, xuất thân từ một môi trường khó khăn, đó lại là một khái niệm mang giá trị dấn thân.
- Tất nhiên, tôi vừa bình luận vừa nghĩ, nếu sự kỳ cục gây chết người thì kẻ tiếm vị này lẽ ra đã phải biến mất từ lâu rồi.
Ít ra tôi cũng nhất trí ở một điểm: sự lựa chọn của chúng tôi có ý nghĩa. Sự lựa chọn của nó nhớt nhát thứ tình cảm hoa mỹ. Thực ra, nó không thể hiện chút tình yêu ngôn ngữ nào hết, mà là một nhu cầu điên cuồng tự tâng bốc bản thân.
Tôi biết khá rõ Christa để hiểu rằng nó không hề biết ý nghĩa của từ “biên cung”. Nó thà chết còn hơn hỏi tôi điều đó mặc dù đó là từ đơn giản nhất: biên cung là biên độ bắn của một chiếc cung tên, như sải chân là biên độ của chân và bước chân là biên độ của bước đi. Không có từ ngữ nào lại có nhiều khả năng làm tôi mơ mộng đến thế. Nó chứa chiếc cung tên căng cứng đến sắp gãy, mũi tên và nhất là giây phút thư giãn tuyệt vời khi mũi tên vụt bay vào trong không trung, lực căng hướng về vô định. Và người kỵ sĩ cũng sẽ gặp thất bại bởi lẽ, bất chấp ước muốn của chiếc cung, biên độ của nó cũng sẽ có giới hạn, đo được, sinh lượng sẽ bị đứt quãng giữa đường bay. Biên cung, đó là sự vươn lên ở mức cao nhất, từ lúc khai sinh đến khi mất đi, là thứ năng lượng thuần túy bị đốt cháy trong một khoảnh khắc.
Ngay lập tức tôi sáng tạo ra từ “christée”: biên độ Christa. Biên độ Christa chỉ chu vi của những nơi mà sự có mặt của Christa có khả năng gây ngộ độc. Biên độ Christa rộng bằng nhiều biên cung. Có một khái niệm còn rộng hơn cả biên độ Christa, đó là biên độ Antéchrista, là phạm vi đáng nguyền rủa nơi tôi sống năm ngày mỗi tuần, có chu vi theo cấp số mũ, bởi lẽ Antéchrista chiếm đoạt mọi thứ trong tầm mắt, phòng ngủ của tôi, giường ngủ của tôi, bố mẹ tôi, tâm hồn tôi.
Tối Chủ nhật, ách nô dịch lại tiếp diễn. Bố và mẹ tôi tiếp đón nồng nhiệt “cô bé mà chúng tôi đã nhớ thương biết bao” và thế là tôi bị phế truất.
Đến lúc tắt đèn, có hai khả năng xảy ra; hoặc Christa mệt mỏi nhìn tôi và nói với giọng bực tức: “Thôi đi, tôi chẳng việc gì phải kể hết với cậu mọi chuyện đâu” - mặc dù tôi chẳng hỏi gì nó; hoặc điều tồi tệ nhất là nó kể hết mọi chuyện với tôi - dù tôi không hỏi nó nhiều đến vậy.
Trong trường hợp thứ hai, tôi sẽ phải nghe những mẩu chuyện không dứt về quán bar ở Malmédy nơi nó làm việc, về những cuộc nói chuyện dù nhỏ nhặt nhất với Jean-Michel, Gunther và những khách hàng khác mà tôi chẳng mấy quan tâm.
Nó chỉ trở nên thú vị khi nói đến chủ đề làm tôi bí mật say mê, Detlev. Tôi tự dựng lên một huyền thoại xung quanh anh chàng mà tôi tưởng tượng giống với David Bowie ở tuổi mười tám. Anh ấy chắc hẳn phải đẹp trai lắm! Detlev hẳn phải là chàng trai lý tưởng: tôi chỉ có thể yêu mỗi anh ấy thôi.
Tôi đã yêu cầu Christa cho tôi xem ảnh anh ấy.
- Tôi không có. Ảnh iếc làm quái gì, nó trả lời.
Tôi nhận thấy câu nói này thật kỳ lạ khi được phát ra từ miệng của kẻ đã phủ kín mấy bức tường phòng ngủ của tôi những tấm áp phích mang dấu ấn các thần tượng của nó. Chắc hẳn nó muốn giữ Detlev cho riêng nó rồi.
Khi nói nó tỏ ra ít cố chấp hơn, tuy nhiên tôi nhận thấy nó nói rất dở về anh ấy: nó chẳng có vẻ gì cho rằng đó là một chủ đề thiêng liêng. Nó kể chuyện hai người thức dậy vào lúc mấy giờ, đã ăn những gì; nó không xứng với Detlev.
Từ đó, Christa thường xuyên dẫn tôi đến các buổi dạ hội sinh viên. Những buổi dạ hội này luôn diễn ra theo cùng một kiểu và mỗi lần điều kỳ diệu lại tái diễn: một anh chàng nào đó không có gì nổi bật rất muốn có được tôi.
Điều này chưa bao giờ vượt quá giới hạn một nụ hôn. Khi mọi chuyện có khả năng đột biến, Christa nói với tôi đã đến lúc phải về và tôi không cãi lại bao giờ. Tôi phải thú nhận rằng thái độ độc đoán của nó tiện cho tôi: trên thực tế, tôi không thể biết được liệu mình có muốn đi xa hơn không. Những gì diễn ra trong đầu tôi cũng mù mờ như trong cơ thể của tôi vậy.
Tuy nhiên, tôi luôn hào hứng với việc hôn. Hoạt động này cuốn hút tôi. Sự tiếp xúc mê hồn đó cho phép không phải nói năng gì cả nhưng vẫn tạo cảm giác quen biết đặc biệt đối với người đối diện.
Tất cả các anh chàng đều hôn rất tồi tuy nhiên chẳng ai hôn tồi giống ai. Về phần mình, tôi không biết rằng họ hôn tồi; tôi tưởng sau khi hôn xong mà mũi ướt sũng như bị gặp mưa hay mồm miệng khô khốc như khi quá chén là việc bình thường. Ở xứ sở của nụ hôn, các tập tục bản địa không làm tôi bị sốc bao giờ.
Trong một cuốn sổ tay ghi nhớ, tôi chép lại những chuỗi dài các tên gọi: Renaud - Alain - Marc - Pierre - Thierry - Didier - Miguel... Đó là danh sách tên của những chàng trai không nhận thấy tôi có cả ngàn khuyết tật không thể chấp nhận được. Tôi chắc chắn rằng không ai trong số họ còn giữ kỷ niệm về tôi, dù nhỏ nhất. Tuy vậy, giá như họ biết được họ đáng giá thế nào! Mỗi người, qua cách xử sự tầm thường và vô nghĩa của mình đã làm tôi tin, trong khoảnh khắc của một nụ hôn, rằng mình có thể.
Họ không phải là những anh chàng ga lăng, tình cảm, ân cần thậm chí lịch sự cũng không. Tôi đã không thể ngăn mình hỏi một trong hai anh chàng - nhưng anh chàng nào? Họ quá giống nhau - câu hỏi vẫn ám ảnh tôi:
- Tại sao cậu lại hôn tôi?
Anh chàng vừa nhún vai vừa trả lời:
- Vì cậu không xấu hơn các cô gái khác.
Tôi biết có ít nhất một cô đã cho kẻ thô lỗ ăn tát. Còn tôi, tôi nhìn thấy trong câu trả lời các lời khen ngợi tuyệt vời. “Không xấu hơn một cô gái khác”, điều đó còn tuyệt hơn những gì tôi dám hy vọng trong những giấc mơ điên cuồng nhất của mình.
- Đời sống tình cảm của cậu thực sự dở hơi nhất trái đất đấy, Christa nói với tôi sau một buổi dạ hội.
- Ừ, tôi trả lời, ngoan ngoãn.
Tôi thì lại nghĩ ngược lại. Trong sâu thẳm những phức cảm kỳ quặc của mình, tôi nhận thấy những gì xảy đến với bản thân thật khó tin. Tim cô bé Lọ Lem khi rời dạ tiệc khiêu vũ lúc nửa đêm cũng không xúc động bằng tim tôi. Tôi là một quả bí ngô hạnh phúc.
Tôi cố gắng giấu niềm vui của mình nhưng Christa đã cảm nhận được điều đó và ra sức phá hoại nó.
- Thực ra mà nói, cậu là một đứa con gái dễ dãi: ôi chưa bao giờ thấy cậu từ chối bất cứ một đứa con trai nào, nó nói với tôi.
- Vì những gì tôi làm với họ! tôi nhận xét một cách xác đáng.
- Làm sao cậu có thể bằng lòng với chút ít ỏi đó được chứ?
Tôi không thể trả lời rằng đối với tôi, như thế đã là quá tuyệt rồi. Vậy nên tôi nói:
- Có lẽ vì rốt cuộc, tôi không phải là một đứa con gái dễ dãi.
- Có chứ, có chứ. Cậu là một đứa con gái dễ dãi. Cậu không thể tự cho phép mình đóng vai các cô khó tính được.
- Thế ư?
- Nếu không, cậu sẽ chẳng có được ai.
Tôi hết sức ngạc nhiên với những gì nó muốn quẳng vào mặt mình.
- Một ngày nào đó cậu sẽ phải thay đổi đi thôi. Mười sáu tuổi và vẫn còn trinh trắng, thật đáng xấu hổ!
Điều tối thiểu tôi có thể nói đó là thái độ của Christa đối với tôi thật mâu thuẫn. Nó luôn là người đến tách tôi ra khỏi vòng tay của chàng trai khi mọi chuyện đang đến pha hồi hộp, thế nhưng, nó lại không bỏ lỡ bất cứ cơ hội nào để lên án sự trinh trắng tai tiếng của tôi. Tôi không thể tự vệ bởi lẽ tôi không tài nào biết được bản thân mình muốn gì. Liệu tôi có thuận lòng làm việc đó trong trường hợp Christa không can thiệp? Có hay không? Tôi hoàn toàn mù tịt.
Những ham muốn, tôi không thiếu: ôi cảm nhận chúng rộng lớn như bầu trời. Nhưng tôi muốn gì mới được chứ? Tôi không hề biết. Tôi cố gắng tưởng tượng những cử chỉ yêu đương thể xác cùng các chàng trai: liệu đó có phải là những gì tôi muốn không? Làm thế nào để biết được điều đó? Tôi đúng là một con mù ở xứ sở sắc màu. Với những hành vi lạ lẫm đó, có lẽ tôi chỉ cảm thấy tò mò thôi.
- Cậu không thể so sánh trường hợp của tôi với cậu được, tôi nói thêm. Cậu đã có Detlev rồi còn gì.
- Hãy lấy đó làm gương và thay vì cứ lăng nhăng với những anh chàng bất kỳ như thế, hãy kiếm cho bản thân cậu một người đứng đắn đi.
Một người đứng đắn! Nó nói nghe dễ thật đấy. Sao không tiện thể bảo luôn chàng hoàng tử đẹp trai chứ? Với lại, sao nó lại phản đối người bất kỳ chứ? Tôi rất thích người bất kỳ.
Tôi cũng vậy mà, tôi cũng là một người bất kỳ.
Hẳn nó đã cảm nhận được tôi đang nghĩ thầm điều gì đó trong đầu nên nó nói luôn:
- Này Blanche, cậu có nghe tôi nói gì không đấy?
- Có chứ. Cảm ơn những lời khuyên của cậu, Christa.
Nó không nhận thấy những lời cảm ơn của tôi chẳng hợp ngữ cảnh chút nào. Thái độ duy nhất tôi có thể có được, khi đối mặt với kẻ đột nhập này, đó là sự vâng lời tuyệt đối. May thay, bên trong, tôi không tự đè bẹp mình. Và những lời mỉa mai cay độc của Antéchrista không làm giảm bớt chút nào niềm mê say của tôi vì đã được một người bất kỳ hôn. Những niềm hạnh phúc bé nhỏ của tôi là một pháo đài vững chắc.
Ít nhất thì nó cũng không còn kể lể những hành động ngông cuồng của tôi với bố mẹ nữa. Đó là thắng lợi duy nhất của tôi.
Đôi lúc, tôi giận bản thân vì đã không yêu quý Christa: ở trường đại học, nếu tôi có hiện hữu thì cũng chính là nhờ Christa. Đa số sinh viên cương quyết bỏ qua tên tôi và gọi tôi là “bạn thân của Christa” hoặc “cô bạn của Christa”. Như thế còn tốt hơn không. Vì tôi có một tí chút bản sắc như thế nên đôi lúc mọi người cũng hạ cố nói chuyện với tôi:
- Cậu có thấy Christa đâu không? người ta hỏi tôi.
Tôi là vệ tinh của Antéchrista.
Tôi bắt đầu mơ đến việc ngoại tình: trong giờ học, tôi tìm kiếm xem có đứa con gái cũng bị bỏ rơi như tôi.
Một cô bạn Sabine nào đó có vẻ phù hợp với tôi. Tôi nhận ra bản thân trong con người nó: sự khó ở của nó lộ liễu đến mức lúc nào nó cũng thui thủi một mình, bởi lẽ không ai muốn sẻ chia cơn khó chịu của nó. Nó nhìn mọi người với vẻ cầu khẩn của con mèo đói ăn; không ai nhìn thấy nó. Thế là, tôi giận bản thân vì chưa bao giờ nói chuyện với nó.
Trên thực tế, những người như Sabine và tôi là kẻ có tội: thay vì hướng về những người giống mình và tương trợ lẫn nhau, họ lại muốn có những thứ nằm ngoài tầm tay - họ cần những người cách xa sự tự ti của mình cả nghìn dặm, họ cần những Christa, những nhân vật cuốn hút và tỏa sáng. Và sau đó, họ lại ngạc nhiên vì tình bạn của mình không được suôn sẻ, như thể một con báo có thể đồng hành cùng một chú chuột, một con cá mập có thể bơi cùng một con cá trích.
Tôi quyết định yêu tùy theo mức khiêm tốn của bản thân. Chú chuột đến trò chuyện cùng cá trích:
- Chào cậu, Sabine. Cậu có vở ghi bài học lần trước không vậy? Tôi chép thiếu một vài chỗ cậu ạ.
Chú cá bé nhỏ tỏ vẻ hốt hoảng, trố mắt nhìn. Tôi tưởng nó nghe không rõ mình nói nên lặp lại câu hỏi. Nó lắc đầu quầy quậy ý nói không có. Tôi cố nài nỉ:
- Nhưng hôm ấy cậu có đi học. Tôi có nhìn thấy cậu mà.
Sabine có vẻ như sắp khóc. Tôi đã nhìn thấy nó ư? Điều đó vượt quá ngưỡng chịu đựng của nó.
Tôi hiểu mình đã vào đề vụng về. Tôi thay đổi thái độ:
- Thầy Wilmots chán thật cậu nhỉ!
Tôi không hề nghĩ thế. Đó là một trong những giáo viên tốt nhất. Nhưng điều đó cốt là để tạo cảm tình.
Sabine đau đớn nhắm mắt lại và đặt một tay lên tim nó: nó đang lên cơn tim đập nhanh.
Tôi bắt đầu tự hỏi rốt cuộc, nếu không phải vì thương hại thì sẽ không ai đến bắt chuyện với nó hay sao.
Tôi lại ngu ngốc muốn cứu giúp nó:
- Cậu không khỏe à? Cậu làm sao vậy? Chú cá trích với cái mang phập phồng vì hoảng sợ lấy hết sức bình sinh rên rỉ:
- Cậu muốn gì ở tôi chứ? Hãy để tôi được yên.
Giọng nỉ non của một đứa trẻ mười hai tuổi. Đôi mắt phẫn nộ của nó cảnh báo rằng nếu tôi cứ khăng khăng quấy rầy, nó sẽ không ngại ngần viện đến những phương tiện mạnh bạo hơn - nó sẽ khuấy đục nước bằng chiếc vây, quăng quẩy chiếc đuôi của mình, quy mô trả đũa của nó sẽ hết sức kinh khủng.
Tôi bối rối bỏ đi. Thực ra, không phải vô cớ nếu ta thấy có ít tình bạn giữa các loài động vật bé nhỏ với nhau. Tôi nhầm khi nhìn thấy ở Sabine bản sao của mình. Đúng là nó đã cầu xin, nhưng nó cầu xin không phải để mọi người đến với nó, nó cầu xin để không ai đến cả. Sự tiếp xúc tối thiểu nhất đối với nó là hành động tra tấn.
“Thật là một ý tưởng kỳ cục khi học ngành chính trị học mà bản thân lại như vậy. Tốt hơn nó nên vào tu ở tu viện dòng thánh Carmel”, tôi nghĩ. Vào lúc đó, tôi thấy Christa nhìn tôi vẻ hả hê. Nó chẳng mất gì từ ý định ngoại tình của tôi. Đôi mắt nó bảo với tôi đừng nên mơ tưởng rằng tôi sẽ có thể không cần đến nó.
Các kỳ thi học phần diễn ra vào tháng Mười hai. Khẩu hiệu mới chính là: “Không cười nữa. Học thôi!”, dù rằng hình như tôi chẳng hề cười.
Christa không từ bỏ bất cứ một tham vọng nào. Chúng tôi được học môn triết học đại cương, lĩnh vực nó có chút thế mạnh. Nó ra vẻ tự tin về môn học đó để tỏ rõ nó thấu hiểu triết lý của Kant hơn chúng tôi đến mức nào.
- Triết học là sở trường của tôi, nó không ngần ngại tuyên bố.
Tôi nghĩ thế thật. Dù sao nó cũng nói tiếng Đức. Chắc hẳn đó là phương tiện tốt nhất để hiểu thấu thế giới của Schopenhauer và Hegel. Chắc hẳn nó đã đọc sách của Nietzche - rõ là tôi chưa bao giờ nhìn thấy nó đọc rồi, tuy vậy điều đó không nói lên được gì. Khi nó dùng từ tiếng Đức để chỉ một khái niệm hiện sinh nào đó, tôi run bắn cả người: như thế sâu sắc hơn nhiều.
Có một điều tuyệt vời trong giai đoạn thi cử đó là Christa không còn áp đặt việc mở nhạc trong phòng nữa. Chúng tôi ôn bài trong yên lặng. Mỗi người chiếm một nửa bàn làm việc. Tôi nhìn nó học, ngay trước mặt. Vẻ tập trung cực độ của nó làm tôi ngưỡng mộ; so với nó, tôi thấy mình thật chểnh mảng.
Đến buổi thi viết môn triết học. Môn thi kéo dài bốn tiếng, hết giờ Christa reo lên:
- Thật thú vị.
Những môn khác đều thi vấn đáp. Christa đạt kết quả cao hơn tôi rất nhiều. Điều đó chẳng có gì làm tôi ngạc nhiên. Nó giỏi hơn tôi và nó khéo ăn khéo nói.
Ở môn vấn đáp, giáo viên cho điểm lúc sinh viên rời khỏi phòng giáo viên. Để có kết quả thi viết môn triết học, phải đợi hai tuần. Christa yêu cầu tôi đi lấy kết quả ngay khi chúng được niêm yết. Nó còn yêu cầu tôi chép điểm của cả các sinh viên khác, một việc làm thật chán ngán vì lớp học có đến tám mươi sinh viên nhưng tôi không dám phản đối.
Trên đường đi tôi bực tức: “Nó muốn chắc chắn nó là người giỏi nhất đây! Thật thảm hại làm sao!”
Đến trước những tấm bảng điểm, tôi nhìn kết quả của mình trước tiên. Hast: mười tám trên hai mươi điểm. Tôi trố mắt. Điểm số cao hơn nhiều so với những gì tôi mong đợi. Tiếp đó, tôi tìm tên Christa. Bildung: mười bốn trên hai mươi. Tôi phì cười. Ta sẽ xem bộ mặt của nó. Tôi hoàn thành nhiệm vụ của mình và chép lại danh sách tám mươi sinh viên. Thế là tôi phát hiện ra rằng mười tám trên hai mươi là điểm số cao nhất và tôi là sinh viên duy nhất đạt được số điểm đó.
Quá tuyệt vời để có thể là sự thật. Chắc hẳn phải có sai sót nào đó. Đúng thế, không còn nghi ngờ gì nữa. Tôi xông vào phòng thư ký. Mọi người bảo tôi thầy Willems đang ở trong phòng làm việc. Tôi chạy đến đó.
Giáo viên triết học tiếp tôi với vẻ tức giận.
- Đương nhiên là để kiện cáo về điểm số đây, ông thầy giáo càu nhàu khi nhìn thấy tôi.
- Đúng thế ạ.
- Cô tên gì?
- Em là Hast ạ.
Thầy Willems nhìn vào chuỗi danh sách của mình.
- Cô quá đáng thật đấy. Điểm số mười tám trên hai mươi chưa đủ với cô à?
- Ngược lại, thưa thầy. Em nghĩ thầy đã chấm nhầm điểm cho em ạ.
- Thế là cô đến làm phiền tôi vì việc đó à? Cô thật ngốc.
- Là vì... em nghĩ thầy đã đảo nhầm hai kết quả. Có lúc nào thầy hoán vị điểm số của em với điểm số của bạn Bildung không ạ?
- Tôi hiểu rồi. Tôi có việc phải giải quyết với một cô gái bị chính nghĩa ám ảnh đây, ông thầy vừa nói vừa thở dài.
Ông cầm lấy tập bài làm dày cộp và tìm xem bài của sinh viên Hast và Bildung.
- Không, chẳng có sai sót nào, ông nói. Tôi chấm mười bốn điểm trên hai mươi khi sinh viên bê nguyên xi bài giảng của tôi vào bài làm và mười tám trên hai mươi khi sinh viên đưa ra được quan điểm độc đáo. Giờ thì để tôi yên hoặc là tôi sẽ hoán đổi kết quả nhé.
Tôi hớn hở chuồn đi.
Niềm vui của tôi không kéo dài được bao lâu. Tôi sẽ báo tin này với Christa thế nào đây.
Suy cho cùng, thông tin này chẳng có gì quan trọng. Chúng tôi đã đạt được điểm trung bình, đó là điều cốt lõi. Tuy vậy, tôi đoán rằng Christa sẽ không hài lòng. Đó là môn triết học, môn “sở trường của nó”.
Khi nhìn thấy tôi, nó hỏi, ra vẻ thờ ơ:
- Thế nào?
Tôi không dám trả lời và chìa cho nó tờ giấy tôi đã chép kết quả của tám mươi sinh viên. Nó giật tờ giấy từ tay tôi. Nó đọc và thay đổi vẻ mặt. Điều tôi cảm nhận thật kỳ lạ: tôi xấu hổ. Trước đó, tôi mong chờ tận hưởng sự thất vọng của nó, giờ tôi lại cảm thấy đau đớn thực sự. Tôi định an ủi nó thì nó giải thích:
- Điều này chứng tỏ rõ ràng rằng hệ thống đánh giá này chẳng có chút giá trị gì hết. Mọi người đều biết tôi là sinh viên giỏi nhất môn triết học còn cậu thì thiếu chiều sâu mà.
Thật quá thể. Làm sao nó lại dám?
Tôi nảy ra một ý tưởng xấu xa mà tôi đã tiến hành ngay sau đó. Tôi gợi ý một cách nhún nhường:
- Hẳn là có sai sót rồi. Nếu đúng như thế thật thì chắc là thầy Willems đã tráo kết quả của hai chúng ta rồi.
- Cậu nghĩ thế à?
- Hình như điều đó có khả năng xảy ra thì phải...
- Cậu đi gặp thầy Willems và hỏi thầy ấy đi.
- Không. Tốt hơn cậu nên đích thân đến đó. Cậu biết đấy, sẽ là chuyện phi lý nếu chính tôi là người đi kiện cáo bất lợi cho bản thân. Thầy Willems thì rõ rồi, điều đó có thể làm thầy bực mình đấy.
- Ừ.
Nó không dám bảo với tôi nó sẽ đi gặp thầy. Nó vờ tỏ ra không quan tâm đến những điều tầm thường này.
Tôi cười thầm trong bụng khi nghĩ đến nỗi nhục nhã nó sắp phải nếm trải.
Hai giờ sau, với vẻ giận dữ điên cuồng, nó đến nói với tôi:
- Cậu giỡn mặt với tôi à!
- Cậu nói gì thế?
- Thầy Willems bảo với tôi cậu đã đến gặp thầy ấy ở văn phòng!
- Thế ư? Cậu đã đến gặp thầy ấy à? tôi hỏi nó, vẻ ngây thơ.
- Sao cậu lại giở trò bẩn thỉu này ra với tôi?
- Thì đã sao nào? Mọi người đều biết cậu giỏi nhất môn triết học còn tôi thì thiếu chiều sâu mà. Hệ thống chấm điểm này chẳng có giá trị gì cả. Tôi không hiểu tại sao điều đó lại làm cậu lo lắng kia chứ.
- Đồ tồi!
Nó bỏ đi và đóng sầm cửa phòng lại. Tôi nghe thấy giọng bố:
- Có gì không ổn hả các con? Liên quan gì đến bố chứ?
- Chẳng có chuyện gì đâu chú ạ, Christa trả lời. Blanche khoe khoang vì nó đạt điểm cao hơn cháu môn triết học ạ.
- Ôi thật nhỏ nhen! mẹ tôi nói.
Nghe thấy điều đó dù sao cũng đỡ hơn là bị điếc.
Những kỳ thi học phần đã kết thúc. Ngày hôm sau, Christa về nghỉ lễ Noel với gia đình. Nó không để lại địa chỉ, không cả số điện thoại.
- Miễn là con bé quay lại với chúng ta! bố tôi thở dài.
- Nó sẽ quay lại thôi. Nó vẫn còn để lại một nửa số đồ dùng cá nhân cơ mà, tôi nói.
- Bạn ấy không coi trọng những thứ đó đâu, mẹ tôi bình luận. Không như con. Bạn ấy đạt kết quả cao hơn con ở tất cả các môn và bạn ấy không hề kiêu căng. Còn con, con lại huênh hoang về môn triết học!
Nó là sinh viên giỏi nhất rồi! Tôi không có ý định giải thích căn nguyên bí mật của câu chuyện này. Tôi đành chấp nhận vì dù tôi có nói gì chăng nữa thì bố mẹ vẫn cho là thánh nữ Christa có lý.
Tôi biết thế nào Antéchrista cũng sẽ quay lại. Không phải chỉ vì đồ đạc của nó mà còn vì chúng tôi nữa. Nó vẫn chưa thôi trò cướp bóc chúng tôi. Tôi không biết liệu chúng tôi còn lại những gì nữa, nhưng nó thì nó biết.
Hai tuần vắng nó: thật tuyệt! Tôi ngây ngất trước chuỗi ngày thanh bình đang trải dài dưới chân.
Bố mẹ tôi thì rên rỉ như những đứa trẻ mới lớn.
- Lễ với chả Tết, chả ra sao cả. Người ta buộc phải vui vẻ. Rồi lại còn phải đến thăm dì Ursule nữa chứ!
Tôi trách cứ bố mẹ:
- Thôi nào, dì Ursule vui tính đấy chứ, dì hay nói những chuyện kinh khủng!
- Sao nào, bố mẹ tưởng con không phải thanh niên cơ đấy. Bọn trẻ ghét Noel mà!
- Thế thì bố mẹ nhầm rồi. Christa thích lắm, có thể nói nó là người Đức và vì thế, nó tôn sùng Lễ Giáng sinh kiểu Đức. Và con cũng xin nhắc lại rằng chỉ nghe tên nó là đủ biết đó là ngày hội của nó rồi.
- Đúng thật! Chúng ta lại không thể chúc mừng giáng sinh cho cô bé được. Nó ra đi một cách tức tưởi quá! Blanche, nếu con lại đạt điểm cao hơn bạn lần nữa thì tránh vui mừng nhé. Cô bé xuất thân từ hoàn cảnh khó khăn nên có mặc cảm...
Trong tâm tưởng, tôi thầm bịt chặt tai lại trước những lời nói xuẩn ngốc không bao giờ dứt này.
Dì Ursule là họ hàng duy nhất của chúng tôi. Dì sống tại một khu nhà dành cho người già. Dì dành hết thời gian của mình vào việc hành hạ nhân viên và bình luận thời sự.
Bố mẹ tôi buộc mình phải đến thăm dì mỗi năm một lần.
- Sao trông như xác chết cả thế hả ba đứa!
Bà già thốt lên khi tiếp chúng tôi.
- Tại chúng cháu nhớ Christa ạ, tôi nói, thấy chua xót khi phải rình xét phản ứng của dì về chủ đề này.
- Christa là ai thế?
Bố tôi nước mắt lưng tròng kể về con bé đáng yêu kể từ nay sẽ sống với chúng tôi.
- Bồ của con à?
Mẹ tôi tức tối: Christa mới mười sáu tuổi bằng Blanche, họ coi cô bé như con gái mình.
- Ít ra nó cũng trả tiền thuê nhà cho các cháu đấy chứ?
Bố tôi bèn giải thích cho dì Ursule rằng đó là một cô bé nghèo và chúng tôi cho nó ở miễn phí.
- Con nhãi ranh ma! Nó đã vớ được bọn ngốc tốt bụng.
- Dì Ursule này, nhà cô bé này ở xa, tận một tỉnh miền Đông...
- Cái gì? Lại còn là người Đức nữa? Thế các cháu không thấy ghê à?
Rõ là những phản ứng thái quá! Những nhận xét kiểu đó không còn phù hợp với thời nay nữa rồi, dì Ursule. Mọi việc đã thay đổi so với hồi dì còn trẻ. Vả lại các tỉnh miền Đông thuộc nước Bỉ kia.
Tôi nhấm nháp cốc nước sữa.
Cuối cùng khi chúng tôi chia tay với bà dì thì bố mẹ tôi lo lắng.
- Chúng ta sẽ không kể gì về chuyến viếng thăm dì Ursule với Christa nhé?
Không, tất nhiên. Thật đáng tiếc!
Tối hôm đó là thời điểm tổ chức tiệc Giáng sinh. Vì chúng tôi không theo đạo nên không kỷ niệm gì cả. Chúng tôi uống rượu ấm, vì thích thế. Bố tôi ngửi thật lâu ly rượu của mình rồi nói:
- Chắc chắn con bé cũng đang uống rượu rồi.
- Anh nói đúng, mẹ tôi nhận xét. Rất Đức. Tôi nhận thấy không còn cần thiết phải nói cụ thể “con bé” là ai nữa.
Bố và mẹ tôi nâng niu ly rượu trên tay như thể yêu quý nó lắm. Bố mẹ tôi nhắm mắt hít hà hương vị của nó. Tôi thừa biết, qua những mùi quế, đinh hương, vỏ cam và quả đậu khấu, bố mẹ tôi cảm nhận được Christa. Và nếu họ có hạ mí mắt xuống thì cũng là để sử dụng chúng như một chiếc màn hình, qua đó họ được nhìn con bé ngồi cạnh người thân của nó, đang hát bài ca mừng Giáng sinh bên cây đàn piano và ngắm nhìn qua ô cửa sổ những bông tuyết từ miền quê xa xôi của nó.
Những hình ảnh tầm thường này không mấy quan trọng. Tôi tự hỏi làm thế nào Christa lại có thể chiếm được tâm hồn của bố mẹ tôi nhiều đến thế và của tôi thì ít đến vậy.
Bởi lẽ tôi ghét nó cũng vô ích, nó vẫn luôn ám ảnh tôi. Bất cứ chỗ nào trong người tôi cũng vấp phải sự có mặt của nó. Tôi còn tệ hơn cả những đấng sinh thành của mình. Ít ra họ cũng chỉ để cho người họ yêu mến xâm chiếm.
Giá như tôi có thể yêu quý nó được! Như thế tôi sẽ được an ủi phần nào khi nghĩ rằng tôi gặp phải điều không may này là vì một tình cảm cao quý. Mà thật ra, tôi cũng không kinh tởm nó đến mức đó: tôi những muốn yêu thương Christa, và đôi lúc tôi cảm thấy mình đang đứng bên bờ vực thẳm của cám dỗ hay của sự khốn cùng mà dưới đáy vực thẳm ấy tôi sẽ tìm ra cách để yêu quý nó. Có cái gì đó như níu kéo không cho tôi ngã xuống đó mà tôi không tài nào xác định được: tinh thần phê phán? Sự tỉnh táo? Hay đơn giản chỉ là sự khô héo của con tim? Hay là sự ghen tị?
Tôi không muốn là Christa, nhưng lại muốn được yêu thương như nó. Tôi có thể trao tặng không ngần ngại phần còn lại của cuộc đời mình để được thấy sự yếu ớt và mạnh mẽ, sự từ bỏ, sự quy phục, sự cam chịu đầy hạnh phúc trước tình yêu thương phi lý này, vì bản thân mình, được thắp sáng lên trong ánh mắt của ai đó, dù cho đó là người cuối cùng của những người cuối cùng.
Vậy là, đêm Giáng sinh là đêm Giáng sinh của Antéchrista ngay cả khi nó không có mặt.
Nó trở lại với chúng tôi vào đầu tháng Giêng. Tôi đau lòng khi nhìn thấy niềm vui của bố mẹ mình.
- Hôm nay là ngày Lễ Hiển linh[17] đấy ạ! Nó vừa nói vừa chìa ra hộp bánh nó mới mua ở hiệu.
Chiếc áo măng tô của Christa được bỏ ra, vẻ tươi tỉnh trên khuôn mặt nó được khen ngợi, đôi má nó được ôm hôn, hai tuần lễ vắng nó được xót xa và chiếc bánh ga tô của nó được đặt trịnh trọng lên bàn, cạnh những vương miện làm bằng bìa màu vàng.
- Ý tưởng hay quá! mẹ tôi thốt lên. Cô chú chả bao giờ nghĩ đến việc tổ chức ngày Lễ Hiển linh cả.
Con bé cắt chiếc bánh ra làm bốn phần. Mỗi người ăn phần của mình một cách thận trọng.
- Cháu không có hạt đậu, Christa vừa nuốt miếng bánh cuối cùng vừa nói.
- Chú cũng không, bố tôi nói.
- Thế thì là Blanche rồi, mẹ tôi tuyên bố vì bà cũng không có nốt.
Mọi ánh mắt đều dồn về phía tôi, khi ấy tôi đang nhai miếng bánh cuối cùng.
- Không, con cũng không có, tôi nói rành rọt và đã cảm thấy mình có lỗi.
- Chỉ có thể là con thôi! bố tôi bực dọc.
- Chả nhẽ cháu lại mua phải chiếc bánh không có hạt đậu? Christa ngạc nhiên.
- Tất nhiên là không phải thế, mẹ tôi cáu kỉnh. Blanche ăn nhanh quá có khi nuốt mất hạt đậu mà không biết đó thôi.
- Nếu con ăn nhanh thế thì mẹ giải thích thế nào khi con là người ăn xong sau cùng?
- Điều đó chẳng có nghĩa lý gì cả, miệng con bé tí thế kia mà! Lẽ ra con cũng phải ý tứ chứ, đúng không nào? Christa đã chu đáo là thế, còn con thì lại làm hỏng mọi chuyện rồi.
- Thật kỳ cục. Nếu có người đã nuốt hạt đậu, sao mẹ cứ nhất quyết đó phải là con? Có thể là mẹ, bố hay Christa lắm chứ?
- Christa là người quá tinh tế, không thể nào nuốt trôi hạt đậu mà không biết! mẹ tôi đỏ mặt lên.
- Trong khi con lại là người thô thiển, cả ngày con ngồi nuốt chửng cả một đội lính cứu hỏa chứ gì! Nếu con là người như thế thì đó có thể là do bố mẹ truyền sang con. Như vậy nghĩa là hạt đậu có thể do bố hoặc mẹ nuốt mất lắm chứ!
- Thôi nào Blanche, thôi trò cãi cọ nực cười này đi! Christa nói xen vào bằng giọng dàn hòa.
- Cứ làm như con là người bới chuyện ra ấy!
- Christa nói đúng đấy, bố lên tiếng. Thôi đi Blanche ạ, chuyện này có gì quan trọng đâu.
- Dù sao thì Christa cũng là Hoàng hậu của chúng ta! mẹ tôi tuyên bố.
Rồi bà cầm lấy chiếc vương miện và đặt lên đầu con bé.
- Hay ho quá nhỉ! tôi bình luận. Nếu ai cũng nghĩ con là người chẳng may nuốt mất hạt đậu thì con mới là người xứng đáng với danh hiệu đó chứ!
- Đây, tôi cho cậu chiếc vương miện này, vì cậu đã thèm muốn nó đến vậy, Christa nói, mắt ngước lên trời - và với một tiếng thở dài khó chịu, nó thực hiện ngay điều vừa nói.
- Chuyện này không phải như vậy, Christa! Cháu quá tốt bụng! Chính cháu là nữ hoàng!
- Nhưng Blanche nói đúng, như thế không công bằng! Christa vừa nói vừa tỏ vẻ muốn bảo vệ tôi.
- Cháu độ lượng quá, bố tôi thán phục. Đừng mắc trò của Blanche, nó là người kỳ cục.
- Liệu con có được nhắc lại rằng chính mẹ là người khơi ra chuyện này không? tôi hỏi.
- Thôi nào Blanche, đủ rồi đấy! mẹ tôi ngán ngẩm ngắt lời. Con bao nhiêu tuổi rồi hả?
Tôi tưởng tượng thấy cái tiêu đề này trong mục Thông tấn xã vỉa hè: “Một cô gái mười sáu tuổi sát hại bố mẹ và cô bạn thân nhất của mình bằng con dao làm bếp vì một vụ việc kỳ quặc liên quan đến chiếc bánh Hiển linh.”
Christa lấy tông giọng của kẻ chịu thiệt mong muốn làm bầu không khí bớt căng thẳng:
- Vì cháu là Hoàng hậu nên cháu cần một vị vua. Cháu chọn chú Franois ạ!
Rồi nó đặt chiếc vương miện còn lại lên đầu bố tôi, ông sung sướng:
- Ôi, cám ơn Christa!
- Ngạc nhiên quá! Đúng là lựa chọn khó nghĩ nhỉ! tôi nghiến răng.
- Đầu óc cậu thật đen tối! con bé nói.
- Thôi để ý đến nó làm gì, mẹ tôi tiếp lời. Cháu thấy rõ là nó đang ghen tị mà.
- Lạ thật, tôi nhận xét. Khi mẹ nói về Christa trước mặt nó thì mẹ nói Christa. Còn nói về con trước mặt con thì mẹ bảo nó.
- Con có vấn đề rồi con có biết không, bố lôi tôi ra và lắc đầu.
- Bố mẹ có chắc con là người có vấn đề không? tôi hỏi.
- Có, mẹ tôi trả lời.
Con bé đứng lên, vẻ tử tế hết chỗ nói, lại gần ôm lấy tôi:
- Mọi người yêu cậu mà, Blanche, nó mỉm cười nói.
Bố mẹ hoan nghênh bức tranh quyến rũ này. Tôi lấy làm tiếc vì sự lố bịch không gây chết người.
Vì hành động ngừng chiến đã diễn ra một cách chính thức nên buổi lễ ngẫu hứng tiếp tục mà không gặp trở ngại nào. Chưa khi nào Lễ Hiển linh lại mang cái tên tồi đến thế. Bố mẹ và tôi lập thành một đội ba kẻ rước lễ khù khờ đến để chỉ ra kẻ sẽ là Nữ chúa cứu thế. Tôi thấy sợ hãi khi nhận ra các giá trị đã bị đảo lộn đến mức nào. Vì Chúa là Antéchrista, nên mặc nhiên tôi là Balthazar[18], vị Vua đen, bởi tên gọi của tôi nghĩa là Trắng mà.
Theo truyền thống Cơ Đốc giáo, nếu một trong ba vị vua là người da đen thì chính là để cho thấy lòng vị tha của Chúa lớn đến nhường nào. Trường hợp của tôi giống thế. Antéchrista chiếu cố để cho Blanche, bộ hạ thuộc đẳng cấp thứ hai tôn sùng mình. Lẽ ra tôi phải khóc vì vui sướng trước sự ban ơn cao cả này nhưng tôi chỉ muốn cười chảy cả nước mắt.
Còn phải xem vua Gaspard[19] và vua Melchior phân phát lễ vật nữa. Đó là vàng bạc từ sự dịu dàng khờ khạo, là nhựa cây trầm hương đang tuôn trào và hương thơm tỏa ra từ lòng ngưỡng mộ của họ đối với tác giả của trò bịp bợm này.
Theo thánh Jean, sự xuất hiện của kẻ phản chúa sẽ là khúc dạo đầu cho ngày tận cùng của thế giới.
Chắc chắn rồi, ngày tận thế đang cận kề.