← Quay lại trang sách

Chương 13

Lúc mười một giờ, tôi đang ngồi ở gian thứ ba phía bên tay phải tính từ căn phòng phụ của nhà ăn. Tôi dựa lưng vào tường và có thể nhìn thấy bất cứ ai ra vào. Đó là một buổi sáng trong lành, không khói mù, thậm chí không có sương dày, và vầng dương chiếu sáng mặt hồ bơi kéo dài từ ngay bên ngoài bức tường kính của quầy rượu đến cuối phòng ăn. Một cô gái trong bộ áo tắm màu trắng, trơn láng, dáng người khêu gợi đang leo những bậc thang lên tấm ván cao. Tôi quan sát vạch màu trắng lộ ra giữa làn da rám nắng trên đùi cô ta và bộ đồ. Tôi nhìn đầy trần tục. Rồi cô ta biến mất, bị che khuất bởi vòm mái nhà sâu. Một lúc sau, tôi thấy cô phóng xuống hồ trong cú nhảy một vòng rưỡi. Tia nước phun lên cao vừa đủ để đón ánh mặt trời, tạo ra một áng cầu vồng xinh đẹp ngang ngửa cô. Sau đó, cô leo lên bậc thang, tháo mũ và giũ giũ mái tóc tẩy màu bạch kim của mình. Cô lắc mông đi đến chiếc bàn nhỏ màu trắng, ngồi xuống bên cạnh một tay thợ xẻ gỗ mặc quần vải đay trắng, đeo kính râm đen và có làn da rám nắng sẫm màu đều đến mức anh ta không thể làm nghề gì khác ngoài nhân viên trực hồ bơi. Anh ta vươn tay vỗ nhẹ lên đùi cô gái. Cô mở cái miệng như cái xô cứu hỏa và cười phá lên. Hình ảnh đó cắt đứt hứng thú của tôi đối với cô. Tôi không thể nghe thấy tiếng cười nhưng tôi chỉ cần nhìn cái hang ngoác ra trên mặt cô nàng khi cô ấy mở khóa kéo hai hàm răng là đủ.

Quán rượu khá vắng. Cách ba lô ghế về phía cuối phòng, một cặp đang cò kè bán cho nhau cổ phần của hãng phim Twentieth Century Fox, dùng cả hai cánh tay diễn tả thay vì tiền. Một chiếc điện thoại đặt trên bàn, giữa bọn họ và cứ vài ba phút họ lại chơi trò đấu trí để xem ai phải gọi điện cho Zanuck, chủ tịch hãng Fox, để trình bày một ý tưởng thú vị. Họ trẻ trung, đen tối, háo hức và tràn đầy sức sống. Họ bỏ sức lực cơ bắp vào một cuộc nói chuyện điện thoại tương đương với tôi cõng một gã béo lên bốn tầng cầu thang.

Một chàng buồn rầu ngồi trên chiếc ghế tại quầy rượu nói chuyện với người pha chế, anh ta đang đánh bóng ly cốc và lắng nghe với nụ cười giả tạo mà người ta mang lên mặt khi đang nỗ lực hết sức để không gào thét. Người khách ở độ tuổi trung niên, ăn mặc bảnh bao và say khướt. Ông muốn nói và không thể ngừng nói, cho dù trước đó ông ta không thực sự muốn trò chuyện. Ông lịch sự, thân thiện và khi tôi lắng nghe, dường như ông cũng chưa say đến líu lưỡi, nhưng mọi người đều biết rằng ông đã lọt xuống đáy chai và chỉ từ bỏ khi lăn ra ngủ mỗi đêm. Ông sẽ như vậy cho đến hết đời và cuộc đời của ông ta chỉ có bấy nhiêu. Anh sẽ không bao giờ biết vì sao ông ra nông nỗi đó, bởi vì cho dù ông có tâm sự với anh, đó cũng chưa chắc là sự thật. Cùng lắm là một ký ức méo mó về sự thật mà ông đã biết. Trong mọi quán rượu yên tĩnh trên thế giới đều có một người đàn ông u buồn như thế.

Tôi nhìn đồng hồ và thấy người đại diện nhà xuất bản đầy quyền lực này đã trễ hai mươi phút. Tôi sẽ đợi đúng nửa giờ, sau đó tôi sẽ rời đi. Anh sẽ không bao giờ thu được tiền công nếu anh để cho khách hàng tự đề ra mọi quy tắc. Nếu họ có thể bắt nạt anh, họ sẽ cho rằng ai cũng có thể bắt nạt anh, và do đó họ sẽ không thuê anh. Và lúc này tôi không cần việc làm đến mức để cho một gã óc heo miền đông sử dụng tôi như tay dắt ngựa, nhân vật điều hành cấp cao làm việc trong văn phòng tường ốp gỗ trên tầng tám mươi lăm, với dãy nút bấm và máy bộ đàm, cùng cô thư ký trong bộ cánh nghiệp vụ của nhà mốt cao cấp Hattie Carnegie với đôi mắt to long lanh đầy hứa hẹn. Đó là loại người yêu cầu anh có mặt chính xác chín giờ sáng và nếu hai tiếng đồng hồ sau anh không còn lặng lẽ ngồi chờ với nụ cười nhu mì trên mặt khi anh ta ghé vào sau khi chiêu một ly Gibson đúp, anh ta sẽ nổi cơn thịnh nộ khủng khiếp tới mức phải điều trị khoảng năm tuần tại Acapulco trước khi anh ta có thể bắt nhịp lại với những cú đi bóng nguy hiểm ráo riết của mình.

Người bồi già đi ngang qua và khẽ liếc nhìn ly Scotch pha loãng của tôi. Tôi lắc đầu và ông khẽ lắc nhẹ mái tóc trắng, và ngay lúc đó một giấc mơ bước vào. Trong giây lát, tôi cảm giác như không có âm thanh nào trong quán rượu, rằng cặp đôi thời trang ngừng đôi co và gã say trên ghế quầy ngưng lải nhải, giống như khi nhạc trưởng gõ vào giá nhạc và giơ tay lên ở tư thế ra hiệu sẵn sàng.

Cô gái mảnh khảnh và khá cao trong bộ đồ may đo bằng vải lanh trắng với chiếc khăn chấm tròn đen trắng quanh cổ. Mái tóc của cô có màu vàng nhạt tựa như nàng công chúa trong truyện cổ tích. Chiếc mũ nhỏ ngự trên đó để mái tóc vàng nhạt nép vào như một con chim trong tổ. Đôi mắt cô có màu biếc như hoa thanh cúc, một màu mắt hiếm có, hàng mi dài và gần như quá nhạt màu. Cô gái ngồi xuống, luồn đôi găng tay vào dưới quai túi và cảm ơn bằng một nụ cười dịu dàng, thuần khiết đến mức người bồi già gần như tê liệt. Cô nói điều gì đó với ông bằng một giọng rất khẽ. Ông ta vội vã đi, chúi người về phía trước. Một anh chàng đã thực sự tìm được sứ mệnh trong cuộc đời.

Tôi nhìn chằm chằm. Cô ấy bắt gặp tôi nhìn chằm chằm. Cô ấy ngước mắt lên vài phân và tôi không còn tồn tại ở đó nữa. Nhưng dù đang ở đâu tôi cũng vẫn nín thở.

Có vô số cô gái tóc vàng khắp nơi và bây giờ cụm từ “cô gái tóc vàng” gần như là một câu bông đùa. Mọi cô gái tóc vàng đều có nét riêng, có lẽ ngoại trừ những cô gái có mái tóc màu vàng ánh kim sau lớp thuốc tẩy, và tính cách mềm mại như vỉa hè lát đá. Có cô gái tóc vàng nhỏ nhắn dễ thương luôn líu lo và ríu rít, và cô gái tóc vàng cao lớn như bức tượng thẳng tay chặn ngang lời tỏ tình với ánh mắt xanh lạnh như băng. Có cô gái tóc vàng ngước lên nhìn anh đầy ngưỡng mộ, có mùi hương đáng yêu, lấp lánh, bám vào tay anh và luôn vô cùng mệt mỏi khi anh đưa cô nàng về nhà. Cô ta khoác lên dáng điệu bất lực đó và mắc chứng đau đầu chết tiệt đó, và anh chỉ muốn cho cô ta một quả đấm, nhưng dù sao anh cũng rất mừng vì đã phát hiện ra chứng đau đầu đặc biệt đó trước khi đầu tư quá nhiều thời gian, tiền bạc và hy vọng vào cô ấy. Vì cơn đau đầu sẽ luôn có mặt, thứ vũ khí không bao giờ lỗi thời và nguy hiểm chết người như thanh kiếm nhọn của đấu sĩ bò tót hay lọ thuốc độc của Lucrezia Borgia.

Có cô gái tóc vàng dịu dàng, nhu thuận và nghiện ngập, không quan tâm chính mình đang mặc bộ cánh gì miễn sao đó là lông chồn nhung, hay đang đi đâu miễn sao đó là nhà hàng Ngàn sao với vô số ly sâm banh nguyên chất. Có cô gái tóc vàng nhỏ nhắn, vui tươi, trông hơi nhợt nhạt và muốn tự trải con đường riêng bằng lao động của mình, tràn đầy ánh nắng lạc quan và thấu hiểu, đồng thời biết judo từ đầu đến chân và có thể quăng một gã tài xế xe tải qua vai mà không bỏ sót quá một câu trong bài xã luận trên tờ Bình luận thứ Bảy . Có cô gái tóc vàng vô cùng xanh xao mắc bệnh thiếu máu không gây tử vong nhưng không thể chữa khỏi. Cô nàng luôn uể oải và u buồn, cô ấy cất lời dịu dàng chẳng ăn nhập vào đâu, nhưng anh không thể động một ngón tay tới cô ấy bởi vì trước hết anh không muốn và kế tiêp cô ấy đang đọc quyển thơ Đất hoang của Eliot, hay nguyên tác thơ Dante, hoặc tiểu thuyêt Kafka, hoặc triết học Kierkegaard hoặc nghiên cứu phương ngữ Provençal. Cô ấy say mê âm nhạc và khi dàn nhạc giao hướng New York chơi nhạc của Hindemith, cô ấy có thể cho anh biết cây vĩ cầm nào trong số sáu cây bè trầm cất tiếng muộn một phần tư nhịp. Tôi nghe nói Toscanini cũng có thể làm điều đó. Trên đời chỉ hai người họ làm được thế.

Và cuối cùng là một vật phẩm trưng bày lộng lấy nhất, có thể sống sót lâu hơn ba kẻ lừa đảo hàng đầu thế giới và sau đó kết hôn với một vài triệu phú với giá một triệu đô la mỗi người và kết toán với một biệt thự Địa Trung Hải màu hồng nhạt tại Cap Antibes, một chiếc Alfa-Romeo hoàn chỉnh với cơ trưởng và cơ phó, một rạp đầy những ngài quý tộc cũ mèm chán ngắt, những người mà cô ta sẽ đối xử bằng vẻ lơ đãng trìu mến của một vị công tước già nói chúc ngủ ngon với người quản gia lâu năm của mình.

Giấc mơ bên kia lối đi không phải là một trong những loại này, thậm chí không cùng thế giới với họ. Cô ấy không thể phân loại được, xa xăm và trong vắt, khó nắm bắt như màu sắc của nước suối. Tôi vẫn đang nhìn chằm chằm khi một giọng nói bên vai tôi cất lên:

“Tôi đến muộn kinh khủng. Xin lỗi anh. Thực tế lỗi là do thứ này đây. Tên tôi là Howard Spencer. Anh là Marlowe, hẳn là thế.”

Tôi quay đầu lại và nhìn ông ta. Một người trạc trung niên, khá tròn trịa, ăn mặc theo phong cách bất cần, nhưng cạo râu sạch sẽ và mái tóc mỏng được vuốt ra sau cẩn thận trên một vầng trán rộng giữa hai tai. Ông mặc chiếc áo vest hai hàng khuy khá thời thượng, kiểu trang phục ít gặp ở California, ngoại trừ trên người một du khách từ Boston. Ông mang cặp kính không gọng và đang vỗ lên chiếc cặp tài liệu cũ nát, hẳn là thứ này mà ông ta vừa nhắc đến.

“Ba bản thảo sách dài mới toanh. Viễn tưởng. Thật đáng xấu hổ nếu tôi đánh mất chúng trước khi có cơ hội từ chối.” Ông ra hiệu cho người bồi già vừa lùi lại sau khi đặt một ly gì đó màu xanh lá trước cô nàng trong mơ. “Tôi luôn mềm lòng trước rượu gin pha cam. Một món đồ uống ngớ ngẩn thực sự. Anh uống cùng với tôi chứ? Tốt lắm.”

Tôi gật đầu và bác bồi già lướt đi. Tôi chỉ vào chiếc cặp nói: “Làm sao ông biết mình sẽ từ chối họ?”

“Nếu bản thảo thực sự hay, họ sẽ không đích thân đưa chúng đến tận khách sạn của tôi. Một số đại lý New York sẽ lấy chúng trước.”

“Vậy tại sao lúc đầu ông nhận chúng?”

“Một phần là để tránh gây tổn thương tình cảm. Phần khác đó là cơ hội một phần ngàn mà tất cả các nhà xuất bản đều mong muốn. Nhưng chủ yếu là, trong khi anh đang dự tiệc cocktail và được giới thiệu với đủ loại khách khứa, một vài người trong đó đã viết một cuốn tiểu thuyết, và anh đã uống chếnh choáng đến độ trở nên nhân từ và tràn đầy tình yêu đối với nhân loại, vì vậy anh nói rằng anh quan tâm đến bản thảo của họ. Sau đó, chúng trút xuống khách sạn của anh với tốc độ chóng mặt đến mức anh buộc phải đọc hết. Nhưng tôi không cho rằng anh quan tâm nhiều đến các nhà xuất bản và vấn đề của họ.”

Người phục vụ mang đồ uống đến. Spencer quơ lấy ly của ông và tợp một ngụm lớn. Ông không để tâm đến nữ thần vàng lấp lánh đối diện. Toàn bộ sự chú ý của ông đặt vào tôi. Ông là một người biết cách giao thiệp.

“Nếu đó là một phần của công việc,” tôi nói. “Thỉnh thoảng tôi cũng có thể đọc sách.”

“Một trong những tác giả quan trọng nhất của chúng ta sống quanh đây,” ông nói với vẻ vô tư. “Có lẽ anh đã đọc một vài quyển của anh ta. Roger Wade.”

“Ờ.”

“Tôi hiểu quan điểm của anh.” Ông cười buồn bã. “Anh không quan tâm đến tiểu thuyết lãng mạn lịch sử. Nhưng chúng bán chạy dã man.”

“Tôi không có ý gì cả, ông Spencer. Tôi đã có lần đọc một cuốn sách của anh ta. Tôi nghĩ nó dở ẹc. Có phải tôi không nên nói điều đó không?”

Ông cười toe toét. “Ôi không. Có rất nhiều người đồng ý với anh. Nhưng vấn đề là tại thời điểm này, anh ta nghiễm nhiên là cây bút bán chạy nhất. Và mọi nhà xuất bản đều phải có vài tác giả như vậy, với mức chi phí như hiện nay.”

Tôi nhìn qua cô gái tóc vàng. Cô ấy đã uống xong ly nước chanh hoặc gì đó và đang liếc nhìn chiếc đồng hồ đeo tay cực nhỏ. Quán rượu đã đông người hơn một chút, nhưng vẫn chưa đến mức ồn ào. Cặp đôi thời thượng vẫn đang vung vẩy tay và người đàn ông uống rượu cô đơn trên ghế đẩu đã có một vài người bạn. Tôi nhìn lại Howard Spencer.

“Có liên quan gì đến vấn đề của ông không?” tôi hỏi. “Ý tôi là anh chàng Wade đó.”

Ông gật đầu. Ông đang đánh giá tôi cẩn thận thêm lần nữa. “Hãy cho tôi biết đôi chút về bản thân anh, Marlowe. Đó là, nếu anh không cảm thấy yêu cầu này không thể chấp nhận được.”

“Loại chuyện gì? Tôi là một thám tử tư được cấp phép và đã làm việc được một thời gian. Tôi là một con sói đơn độc, chưa lập gia đình, đang ở độ tuổi trung niên và không giàu có. Tôi đã vào tù hơn một lần và không nhận các vụ ly hôn. Tôi thích rượu, đàn bà, cờ vua và vài thứ khác. Cảnh sát không thích tôi lắm, nhưng tôi biết vài người mà tôi rất hợp. Tôi là người bản xứ, sinh ra ở Santa Rosa, cha mẹ đều đã qua đời, không có anh chị em, và nếu tôi bị thủ tiêu trong một con hẻm tối, nếu điều đó xảy ra, vì nó có thể xảy ra với bất kỳ ai trong nghề của tôi, và thời buổi này với rất nhiều người khác trong bất kỳ ngành nghề nào hay không nghề nghiệp gì, sẽ không ai cảm thấy cuộc sống của mình đã rơi xuống cái vực không đáy.”

“Tôi hiểu,” ông nói. “Nhưng tất cả điều đó không cho tôi biết chính xác những gì tôi muốn biết.”

Tôi đã uống xong ly gin pha cam. Tôi không thích vị của nó. Tôi nhoẻn cười với ông ta. “Tôi đã bỏ sót một mục, thưa ông Spencer. Tôi có một bức chân dung của Madison trong túi.”

“Một bức chân dung của Madison? Tôi e rằng tôi không...”

“Một tờ năm nghìn đô la,” tôi nói. “Luôn mang theo nó. Bùa may mắn của tôi.”

“Lạy Chúa,” ông thì thào. “Việc đó không quá nguy hiểm sao?”

“Ai đã nói rằng vượt quá một giới hạn nhất định thì mọi nguy hiểm đều ngang nhau?”

“Tôi nghĩ đó là Walter Bagehot. Ông ta đang nói về một người thợ xây sửa chữa tháp chuông.” Rồi ông cười toe. “Xin lỗi, nhưng tôi là một nhà xuất bản. Anh được lắm, Marlowe. Tôi chấp nhận rủi ro để tin tưởng anh. Nếu không, anh sẽ bảo tôi biến đi cho khuất mắt. Đúng không?”

Tôi cười với ông. Ông gọi người phục vụ và yêu cầu hai ly đồ uống nữa.

“Là thế này,” ông thận trọng nói. “Bọn tôi đang gặp rắc rối lớn với Roger Wade. Anh ta không thể viết nốt cuốn sách của mình. Anh ta đang mất tự chủ, hẳn phải có nguyên nhân gì đó đằng sau. Dường như con người anh ta đang tan thành từng mảnh. Những cơn say bí tỉ và thịnh nộ. Thỉnh thoảng anh ta biến mất trong nhiều ngày liền. Cách đây không lâu, anh ta đã đẩy vợ ngã xuống cầu thang và khiến cô ấy nhập viện với năm chiếc xương sườn gãy. Giữa bọn họ không có xích mích theo nghĩa thông thường, không có gì cả. Chỉ có người chồng phát điên mỗi khi anh ta uống rượu.” Spencer ngả người ra sau và nhìn tôi rầu rĩ. “Bọn tôi phải có cuốn sách hoàn chỉnh đó. Bọn tôi rất cần nó. Công việc của tôi phụ thuộc vào nó ở một mức độ nào đó. Nhưng bọn tôi cần nhiều hơn thế nữa. Bọn tôi muốn cứu một nhà văn rất có năng lực, người có khả năng đạt được thành tựu cao hơn nhiều so với những gì anh ta từng làm. Có chuyện gì đó rất không ổn. Trong chuyến đi này anh ta thậm chí không gặp tôi. Tôi nhận ra rằng vấn đề này có vẻ như là việc của bác sĩ tâm lý. Cô Wade không đồng ý. Cô ấy tin rằng anh ta hoàn toàn khỏe mạnh nhưng có điều gì đó khiến anh ta lo lắng đến nghẹt thở. Một vụ tống tiền chẳng hạn. Hai vợ chồng Wade đã kết hôn được năm năm. Có thể một chuyện gì đó trong quá khứ quay lại quấy rầy anh ta. Thậm chí - tôi chỉ đoán mò - có thể là một vụ tai nạn gây chết người rồi bỏ chạy và ai đó nắm được chứng cớ. Bọn tôi không biết chuyện gì. Bọn tôi muốn biết. Và sẵn sàng trả nhiều tiền để khắc phục sự cố. Nếu là vấn đề y tế, thì đành vậy thôi. Nếu không, phải có câu trả lời. Và trong khi chờ đợi, bà Wade phải được bảo vệ. Lần tới xảy ra chuyện, anh ta có thể giết cô ấy. Ta không bao giờ biết trước.”

Đợt đồ uống thứ hai được mang đến. Tôi để nguyên ly của mình và nhìn ông uống ừng ực nửa ly trong một lần. Tôi đốt điếu thuốc và chỉ nhìn chằm chằm vào ông.

“Ông nào muốn thám tử,” tôi nói. “Ông muốn có một pháp sư. Tôi có thể làm cái quái gì? Nếu tôi tình cờ có mặt đúng lúc, và nếu anh ta không quá khó đối phó, tôi có thể đánh ngất anh ta và đưa anh ta lên giường. Nhưng tôi phải có mặt ở đó. Tỷ lệ thành công là một trăm ăn một. Ông biết rõ thế.”

“Anh ấy tầm thước khoảng bằng anh,” Spencer nói. “Nhưng anh ấy không khỏe bằng anh. Và anh có thể luôn luôn có mặt ở đó.”

“Hầu như không thể. Và những kẻ say rượu rất xảo quyệt. Anh ta chắc chắn sẽ chọn thời điểm tôi không có mặt để bày trò. Tôi không tìm công việc của nam y tá.”

“Một nam y tá sẽ chẳng ích gì. Roger Wade không phải là loại đàn ông chấp nhận điều đó. Anh ta là một chàng trai rất tài năng nhưng mất kiểm soát. Anh ta kiếm được bộn tiền khi viết những thứ rác rưởi cho đám dở hơi. Nhưng sự cứu rỗi duy nhất cho một nhà văn chính là viết. Nếu còn có bất cứ điều gì tốt đẹp trong anh ta, nó sẽ tuôn chảy qua văn chương.”

“Được rồi, tôi tin tưởng ông về anh ta,” tôi mệt mỏi nói. “Anh ta rất tuyệt vời. Ngoài ra, anh ta rất nguy hiểm. Anh ta có một bí mật tội lỗi và anh ta cố gắng nhận chìm nó trong rượu. Đó không phải là loại công việc của tôi, ông Spencer.”

“Tôi hiểu rồi.” Ông nhìn chiếc đồng hồ đeo tay của mình, cau mày lo lắng khiến khuôn mặt ông ta rúm lại và khiến nó trông già và nhỏ hơn. “Chà, anh không thể trách việc tôi đã thử thời cơ.”

Ông với tay lấy chiếc cặp dày cộp của mình. Tôi nhìn qua nữ thần vàng. Cô chuẩn bị rời đi. Người bồi bàn tóc trắng đang đứng chơi vơi với tờ hóa đơn trước mặt cô. Cô đưa cho ông ta số tiền với nụ cười đáng yêu, và ông ta trông như thể vừa được bắt tay Đức Chúa. Cô ấy mấp máy môi rồi đeo đôi găng tay trắng, và người bồi bàn kéo chiếc bàn ở giữa phòng để cô ấy bước ra.

Tôi liếc nhìn Spencer. Ông đang cau mày nhìn xuống chiếc ly rỗng ở mép bàn. Ông đặt chiếc cặp trên đầu gối.

“Thế này vậy,” tôi nói. “Tôi sẽ đi gặp anh chàng đó và thử đánh giá, nếu ông muốn. Tôi sẽ nói chuyện với vợ anh ta. Nhưng tôi đoán là anh ta sẽ đuổi tôi ra khỏi nhà.”

Một giọng nói không phải của Spencer cất lên: “Không, ông Marlowe, tôi không nghĩ anh ấy sẽ làm thế. Ngược lại, tôi nghĩ anh ấy có thể sẽ thích ông.”

Tôi ngước nhìn lên đôi mắt xanh biếc. Cô ấy đang đứng ở cuối bàn. Tôi đứng dậy và ngả người vào phía sau tấm chắn với dáng điệu vẹo vọ kỳ quái mà người ta phải đứng khi không thể trượt dài ra đất.

“Làm ơn đừng đứng dậy,” giọng cô ấy giống như thứ nguyên liệu mà người ta dùng để viền quanh những đám mây mùa hè. “Tôi biết tôi nợ ông một lời xin lỗi, nhưng điều quan trọng là tôi phải có cơ hội quan sát ông trước khi tôi tự giới thiệu bản thân. Tôi là Eileen Wade.”

Spencer gắt gỏng nói: “Anh ấy không quan tâm, Eileen.”

Cô mỉm cười dịu dàng. “Tôi không nghĩ vậy.”

Tôi lấy lại bình tĩnh. Tôi đã đứng đó chới với, mồm há hốc và thở bằng miệng như một nữ sinh. Đây thực sự là một vẻ đẹp choáng váng. Khi nhìn gần cô ấy dường như gây tê liệt.

“Tôi không nói là tôi không quan tâm, bà Wade. Điều tôi nói hay ngụ ý là tôi không nghĩ mình có thể làm được gì, và cố chấp sẽ là một sai lầm tệ hại. Nó có thể gây ra rất nhiều tác hại.”

Bấy giờ, cô ấy trở nên rất nghiêm túc. Nụ cười đã biến mất. “Ông đưa ra quyết định quá sớm. Ông không thể đánh giá người ta qua những việc họ làm. Nếu ông phải đánh giá họ, thì phải dựa trên con người của họ.”

Tôi mơ hồ gật đầu. Bởi vì đó chính là điều tôi nghĩ về Terry Lennox. Trên thực tế, hắn không phải là món hàng bở, ngoại trừ một thoáng vinh quang ngắn ngủi trong hố trú ẩn cá nhân, nếu Menendez đã kể sự thật, nhưng thực tế dù như thế nào cũng không kể lại toàn bộ câu chuyện. Hắn là một người mà anh không thể ghét. Anh có thể nói như vậy về bao nhiêu người trong đời mà anh gặp?

“Và để làm điều đó ông phải hiểu họ,” cô nhẹ nhàng nói thêm. “Tạm biệt, ông Marlowe. Nếu ông đổi ý...” cô ấy nhanh chóng mở túi và đưa cho tôi một tấm danh thiếp, “và cảm ơn vì đã đến đây.”

Cô gật đầu với Spencer và bước đi. Tôi nhìn cô ấy ra khỏi quán rượu, đi xuôi tấm ngăn bằng kính của gian phòng phụ đến phòng ăn. Dáng đi của cô tuyệt đẹp. Tôi nhìn theo cô rẽ vào dưới cổng tò vò dẫn đến tiền sảnh. Tôi thoáng thấy vạt váy vải lanh trắng phất lên lần cuối cùng khi cô rẽ vào góc đường. Sau đó, tôi ngồi xuống ghế và vớ lấy ly rượu gin pha cam.

Spencer quan sát tôi. Có chút gì phán xét trong mắt ông.

“Làm tốt lắm,” tôi nói, “nhưng ông nên thỉnh thoảng nhìn cô ấy một lần. Giấc mơ như thế ngồi đối diện suốt hai mươi phút, ông không thể không nhận ra.”

“Tôi thật ngu ngốc phải không?” Ông cố mỉm cười, nhưng rõ ràng ông ta không thực sự muốn cười. Ông không thích cách tôi nhìn cô ấy. “Người ta có những ý nghĩ kỳ lạ về thám tử tư. Khi nghĩ đến việc có một người như thế trong nhà mình...”

“Đừng nghĩ đến việc có người này trong nhà ông,” tôi nói. “Dù sao đi nữa, trước tiên ông hãy bịa ra một câu chuyện khác. Trình độ của ông hẳn phải cao hơn là lừa tôi tin rằng có một người, dù say hay tỉnh, sẽ ném một người đẹp như thế xuống cầu thang và đánh gãy năm cái xương sườn của cô ấy.”

Ông đỏ phừng mặt. Tay ông siết chặt chiếc cặp. “Ông nghĩ tôi nói dối?”

“Có gì khác biệt? Ông đã diễn vở của ông. Chính ông hơi bị quý cô đây hấp dẫn, có lẽ thế.”

Ông đột ngột đứng dậy. “Tôi không thích giọng điệu của anh,” ông nói. “Tôi càng không chắc là tôi thích anh. Giúp tôi một việc là quên toàn bộ chuyện này đi. Tôi nghĩ rằng chỗ này đủ trả cho thời gian của anh.”

Ông ném tờ hai mươi đô lên bàn, rồi thêm mấy tờ một đô cho người phục vụ. Ông đứng một lúc nhìn chằm chằm xuống tôi. Mắt ông sáng rực và mặt vẫn đỏ. “Tôi đã kết hôn và có bốn đứa con,” ông đột ngột nói.

“Xin chúc mừng.”

Ông phát ra một âm thanh ngắn ngủi trong cổ họng và quay người bỏ đi. Ông đi khá nhanh. Tôi nhìn theo ông một lúc và sau đó quay đi. Tôi uống nốt ly của mình và lấy thuốc lá ra, lắc một điếu rồi đút vào miệng châm lửa. Bác bồi già đến và nhìn món tiền.

“Tôi có thể lấy cho ông món gì nữa, thưa ông?”

“Không. Tất cả tiền là của bác.”

Ông ta chậm rãi nhặt nó lên. “Đây là tờ hai mươi đô la, thưa ông. Quý ông kia hẳn đã nhầm lẫn.”

“Ông ta biết đọc. Tôi nói tất cả là của bác.”

“Chắc chắn là tôi rất biết ơn. Nếu ông chắc chắn, thưa ông...”

“Hoàn toàn chắc chắn.”

Ông ta gật đầu và bỏ đi, vẻ mặt vẫn còn lo lắng. Quán đã đầy. Một vài thiếu nữ lả lơi, ăn mặc thời thượng đi ngang vừa hát vừa vẫy tay chào. Họ quen biết cặp đôi nóng bỏng trong lô ghế cuối. Không khí bắt đầu tràn ngập những tiếng gọi âu yếm và móng tay sơn đỏ rực.

Tôi hút hết nửa điếu thuốc, cau có chẳng vì lý do gì rồi đứng dậy ra về. Tôi quay lại để với lấy gói thuốc lá và bị va mạnh từ phía sau. Tôi chỉ cần có thế. Tôi xoay người và đối diện với khuôn mặt có nụ cười rạng rỡ lấy lòng công chúng trong chiếc áo sơ mi ca rô vải nỉ. Anh ta dang rộng cánh tay như một nhân vật nổi tiếng và nụ cười ngoác miệng cởi mở của người không bao giờ thua trong một cuộc kinh doanh.

Tôi nắm lấy cánh tay dang rộng đó và vung anh ta một vòng. “Có chuyện gì vậy anh bạn? Lối đi không đủ rộng cho cái tôi của anh chắc?”

Anh ta giật cánh tay lại và gồng người. “Đừng mơ, gã điên. Tôi tháo khớp hàm anh bây giờ.”

“Ha, ha,” tôi nói. “Anh chắc là chơi ở vị trí trung vệ cho đội Yankee, dùng bánh mì que đánh bóng về nhà hử?”

Anh ta nắm bàn tay béo mập lại.

“Bạn thân yêu, hãy nghĩ đến việc làm móng,” tôi nói với anh.

Anh ta kiềm lại. “Xéo đi, đồ mồm loa mép dải,” anh ta cười khịt qua mũi. “Chờ lúc khác, đầu óc tôi rảnh rang hơn.”

“Đầu anh còn có thể rảnh rang hơn nữa?”

“Tiếp đi, trả môi trả miếng,” anh ta gầm gừ. “Thêm một câu chọc khoáy nữa là anh sẽ cần đi sửa mũi đó.”

Tôi cười toe toét với anh ta. “Cần thì cứ réo tôi, anh bạn. Nhưng ăn nói văn vẻ hơn nhé.”

Vẻ mặt anh ta thay đổi. Anh ta cười. “Anh lên khung hình rồi hả, bạn nhỏ?”

“Chỉ có loại họ dán ở bưu điện thôi.”

“Hẹn gặp lại trong hồ sơ hình sự nhá,” anh ta nói và vừa bỏ đi vừa cười toe toét.

Một cuộc đối thoại rất ngớ ngẩn, nhưng nó đã loại bỏ cảm giác còn vương lại trong tôi. Tôi đi dọc theo gian phòng phụ và băng qua tiền sảnh của khách sạn để đến cửa chính. Tôi dừng lại bên trong cửa để đeo kính râm. Mãi cho đến khi vào trong xe, tôi mới nhớ đến tấm danh thiếp mà Eileen Wade đã đưa cho tôi. Đó là tấm danh thiếp chữ nổi, nhưng không phải danh thiếp chính thức, vì trên đó có địa chỉ và số điện thoại. Bà Roger Stearns Wade, 1247 đường Thung Lũng Nhàn Rỗi. Điện thoại: Thung Lũng Nhàn Rỗi 5-6324.

Tôi biết khá nhiều về Thung Lũng Nhàn Rỗi, và tôi biết nó đã thay đổi rất nhiều từ ngày họ xây dựng chòi gác ở lối vào, lực lượng cảnh vệ tư nhân, sòng bạc bên bờ hồ và những cô gái mua vui năm mươi đô la. Những khoản tiền bí mật đã chiếm lĩnh địa bàn sau khi sòng bạc bị đóng cửa. Khoản tiền bí mật đã biến nó thành giấc mơ của những doanh nhân phân lô bất động sản. Một câu lạc bộ sở hữu hồ và dải đất ven hồ, và nếu họ không muốn anh tham gia câu lạc bộ, anh sẽ không được bước xuống hồ. Đó chính là sự độc quyền theo nghĩa duy nhất còn lại của từ này, và không chỉ đơn thuần có nghĩa là đắt giá.

Tôi phù hợp với Thung Lũng Nhàn Rỗi giống như củ hành trên món kem chuối.

Howard Spencer gọi cho tôi vào cuối buổi chiều. Ông đã qua cơn tức giận và muốn nói xin lỗi và rằng ông đã không xử lý tình huống khéo léo, và có lẽ tôi đã suy nghĩ lại.

“Tôi sẽ đi gặp anh ta nếu anh ta yêu cầu. Không gì khác.”

“Tôi hiểu rồi. Sẽ có một phần bù đắp đáng kể...”

“Nghe này, ông Spencer,” tôi nóng nảy nói, “ông không thể mua được số phận. Nếu bà Wade sợ chồng mình, cô ta có thể chuyển ra ngoài. Đó là vấn đề của cô ta. Không ai có thể bảo vệ cô ta hai mươi bốn giờ một ngày trước chính chồng cô ta. Trên đời này không có cách nào có thể bảo bọc một người đến mức đó. Nhưng ông không phải chỉ muốn bấy nhiêu. Ông muốn biết tại sao, như thế nào và khi nào anh ta bộc phát, sau đó chữa chạy để anh ta không tái phạm nữa, ít nhất là cho đến khi cuốn sách hoàn tất. Nhưng chuyện đó phụ thuộc vào anh ta. Nếu thực sự muốn viết cuốn sách chết tiệt đó, anh ta sẽ tránh xa rắc rối cho đến khi hoàn thành nó. Ông muốn gì mà muốn lắm thế.”

“Mọi chuyện đều quy về một mối,” ông nói. “Tất cả chỉ là một vấn đề. Nhưng tôi nghĩ là tôi hiểu. Chuyện này quá tế nhị đối với công việc của anh. Thôi, chào. Tôi sẽ bay về New York tối nay.”

“Chúc chuyến đi suôn sẻ.”

Ông cảm ơn tôi và cúp máy. Tôi quên kể với ông rằng tôi đã đưa tờ hai mươi đô cho người bồi bàn. Tôi định gọi lại để nói với ông, sau đó tôi nghĩ ông đã đủ khổ tâm rồi.

Tôi đóng cửa văn phòng và bắt đầu đi về phía quán Victor để uống một ly gimlet, như Terry đã yêu cầu tôi trong lá thư cuối cùng của hắn. Tôi thay đổi quyết định. Tôi không đủ cảm động. Thay vào đó, tôi đến quán Lowry và uống một ly martini, ăn một ít sườn nướng và bánh nướng Yorkshire.

Khi về đến nhà, tôi bật ti vi và xem một vài trận đối kháng. Bọn họ dở tệ, chỉ là một đám vũ công nhảy nhót lẽ ra nên đầu quân cho chủ sàn nhảy Arthur Murray. Họ chỉ biết xỉa nhau, nhảy nhót lên xuống và nhử đòn để làm nhau mất thăng bằng. Không ai trong số họ có thể tung một quả đấm đủ mạnh để đánh thức bà ngoại mình tỉnh giấc ngủ trưa. Đám đông la ó và trọng tài liên tục vỗ tay ra hiệu đánh đi, nhưng họ vẫn chỉ đong đưa, nhún nhảy và nhử những cú đấm tay trái cự ly xa. Tôi chuyển sang kênh khác và xem một chương trình tội phạm. Cảnh hành động diễn ra trong một tủ quần áo, với những khuôn mặt mệt mỏi, quen thuộc và không đẹp mắt. Lời thoại vớ vẩn đến nỗi hãng phim Monogram cũng chê. Tay thám tử có một cậu bé phụ việc da màu để giải tỏa gây cười. Anh ta không cần điều đó, một mình anh ta đã quá đủ hài hước. Và mục quảng cáo có thể làm cho một con dê được nuôi bằng dây thép gai và miểng chai cũng phải buồn nôn.

Tôi tắt ti vi và hút một điếu thuốc dài, quấn thật chặt. Nó xoa dịu cổ họng của tôi. Nguyên liệu từ những lá thuốc tốt nhất. Tôi đã quên nhìn xem đó là nhãn hiệu gì. Tôi chuẩn bị đi ngủ thì trung sĩ thám tử Green phụ trách án mạng gọi cho tôi.

“Chắc ông muốn biết họ đã chôn cất cậu bạn Lennox của ông vài ngày trước ngay tại thị trấn Mexico nơi anh ta qua đời. Một luật sư đại diện cho gia đình đã đi xuống đó và tham dự đám tang. Lần này ông khá may mắn, Marlowe. Lần tới khi ông nghĩ đến việc giúp một người bạn trốn ra nước ngoài, xin đừng.”

“Hắn ta có bao nhiêu lỗ đạn trên người?”

“Cái gì?” anh ta quát. Rồi im lặng một khoảng. Sau đó, anh khá thận trọng nói: “Một, tôi phải nói rõ. Như vậy là đủ, khi nó nổ bay đầu người. Luật sư đang mang về một bộ dấu vân tay và mọi thứ trong túi của anh ta. Ông muốn biết thêm điều gì nữa không?”

“Có, nhưng anh không thể nói cho tôi biết. Tôi muốn biết ai đã giết vợ của Lennox.”

“Má ơi, không phải Grenz đã kể cho ông rằng hắn ta đã để lại bản thú tội đầy đủ sao? Nó được đăng lên báo. Ông không đọc báo nữa à?”

“Cảm ơn vì đã gọi cho tôi, trung sĩ. Đó là việc làm hết sức tốt bụng.”

“Nghe này, Marlowe,” anh nói giọng khàn khàn. “Ông đừng có nghĩ ra bất kỳ ý tưởng ngộ nghĩnh nào về vụ này, ông sẽ rước họa vào thân nếu ông phát ngôn về chúng. Vụ án đã đóng lại, hoàn tất và được lưu hồ sơ. Đó là điều cực kỳ may mắn cho ông rồi. Tòng phạm sau án mạng có thể lãnh năm năm ở tiểu bang này. Và hãy để tôi nói với ông chuyện khác. Tôi đã làm cảnh sát lâu năm và có một điều chắc chắn tôi học được, là ông không bị xét xử bởi những điều ông đã làm. Mà bởi những gì được diễn giải xây dựng trước tòa án. Chúc ngủ ngon.”

Anh dập máy. Tôi gác điện thoại, nghĩ rằng một cảnh sát trung thực với lương tâm xấu luôn hành động cứng rắn. Một cảnh sát không trung thực cũng vậy. Hầu như ai cũng vậy, kể cả tôi.