← Quay lại trang sách

Chương 32

Đó là ngôi nhà trông kinh tởm nhất mà tôi từng thấy. Một cái hộp vuông màu xám cao ba tầng, bốn phía mái cao dốc đứng và bị chọc lỗ chỗ bởi hai mươi hoặc ba mươi cửa sổ áp mái nhô lên được trang trí bằng rất nhiều phù điêu hoa hòe kiểu bánh cưới bao quanh và chen giữa chúng. Cửa lớn có hai cây cột đá ở mỗi bên, nhưng điểm nổi bật của toàn bộ kiến trúc này là chiếc cầu thang xoắn ốc ngoài trời có hàng lan can bằng đá, trên đỉnh là một căn phòng hình tháp mà từ đó hẳn có thể nhìn ra toàn bộ mặt hồ.

Sân để xe được lát đá. Nơi này thực sự cần có con đường nửa dặm dẫn vào nhà với hàng cây dương hai bên, công viên dành cho hươu, một khu vườn hoang dã kèm sân thượng trên cả ba tầng nhà cùng vài trăm bông hồng nở rộ bên ngoài cửa sổ thư viện, và một phong cảnh xanh mướt trải dài từ cửa sổ đến bìa rừng, cùng với sự tĩnh lặng và trống vắng yên ả. Thay vào đó nó chỉ có một bức tường đá thô bao quanh khoảng mười đến mười lăm mẫu Anh, một khối bất động sản khá lớn ở đất nước nhỏ bé đông đúc của chúng tôi. Đường xe chạy được viền bằng hàng rào cây bách tỉa tròn. Đủ loại cây cảnh túm tụm thành cụm rải rác và chúng không giống những giống cây California. Đồ nhập khẩu. Kẻ nào thiết kế cấu trúc này hẳn là đang cố gắng lôi vùng ven biển Đại Tây Dương qua bên kia dãy núi Rocky. Anh ta đã nỗ lực hết sức mình, nhưng còn cách thành công quá xa.

Amos, người tài xế trung niên da màu, nhẹ nhàng dừng chiếc xe Caddy trước lối vào có hàng cột, nhảy ra ngoài và đi vòng sang bên kia mở cửa cho cô Loring. Tôi ra ngoài trước và giúp ông ta giữ cửa. Tôi đỡ cô bước xuống. Cô hầu như không nói chuyện với tôi kể từ khi chúng tôi lên xe trước nhà tôi. Cô trông mệt mỏi và căng thẳng. Có lẽ khối kiến trúc ngu xuẩn này khiến cô trầm cảm. Nó có thể làm một con chim bói cá cười phải trầm cảm và rên rỉ hừ hừ như một con chim bồ câu khóc.

“Ai đã xây dựng nơi này?” Tôi hỏi cô. “Và anh ta giận ai hả?”

Cô cuối cùng cũng mỉm cười. “Anh chưa từng thấy nó trước đây sao?”

“Chưa bao giờ đi sâu vào thung lũng như thế này.”

Cô dẫn tôi qua bên kia đường và chỉ lên trên. “Người xây nó đã nhảy qua của sổ từ căn phòng trên tháp kia và rơi xuống ngay chỗ anh đang đứng. Anh ta là bá tước người Pháp tên La Tourelle và không như hầu hết các bá tước người Pháp, anh ta có rất nhiều tiền. Vợ anh ta là Ramona Desborough, bản thân cô ấy cũng không quá nghèo. Vào thời phim câm, cô ấy kiếm được ba mươi nghìn một tuần. La Tourelle đã xây dựng ngôi nhà này cho bọn họ. Được coi là mô hình thu nhỏ của lâu đài de Blois. Anh biết mà, dĩ nhiên rồi.”

“Biết rõ như lòng bàn tay,” tôi nói. “Tôi nhớ ra rồi. Chuyện được đăng trên số báo Chủ nhật. Cô ta bỏ chồng và anh ta tự sát. Còn có một di chúc kỳ quái, phải không?”

Cô gật đầu. “Anh ta để lại cho vợ cũ vài triệu để mua xe và phần còn lại gửi vào một quỹ tín thác. Bất động sản phải được giữ y nguyên như cũ. Không được phép thay đổi gì, bàn ăn phải được bày biện lịch sự hằng đêm và không ai được phép vào trong khuôn viên ngoại trừ người hầu và các luật sư. Dĩ nhiên di chúc đã bị hủy bỏ. Cuối cùng thì gia sản đó cũng bị chia năm xẻ bảy và khi tôi kết hôn với bác sĩ Loring, cha tôi đã tặng nó cho tôi làm quà cưới. Chắc hẳn ông đã phải bỏ ra cả gia tài chỉ để cải tạo cho nó tạm phù hợp để sống. Tôi ghê tởm nó. Tôi vẫn luôn căm ghét nó.”

“Cô không cần phải sống ở đây, đúng không?”

Cô nhún vai mệt mỏi. “Bán thời gian, ít nhất là vậy. Một trong hai đứa con gái của ông ấy phải thể hiện vài dấu hiệu ổn định. Bác sĩ Loring thích ở đây.”

“Hẳn nhiên ông ta thích. Bất kỳ gã đàn ông nào có thể gây ra một cảnh tượng như ở nhà của Wade đều phải đeo ghệt mắt cá cùng bộ đồ ngủ.”

Cô nhướng mày. “Sao nào, cảm ơn anh đã quan tâm, Marlowe. Nhưng tôi nghĩ chúng ta đã nói quá nhiều về chủ đề đó. Chúng ta vào nhà chứ? Cha tôi không thích chờ đợi.”

Chúng tôi băng qua đường lần nữa và đi lên những bậc thang bằng đá. Một cánh cửa lớn mở ra êm ru và một nhân vật trông sang trọng và khinh khỉnh đứng qua một bên để chúng tôi bước vào. Sảnh trước rộng hơn toàn bộ diện tích sàn của ngôi nhà tôi đang sống. Sàn nhà lát gạch và những cửa sổ phía sau hình như được lắp kính màu, và giá như chúng để lọt qua chút ánh sáng nào thì tôi đã có thể thấy nơi này còn có những gì khác. Từ hành lang, chúng tôi đi qua một loạt cánh cửa chạm khắc nữa và bước vào một căn phòng tối tăm dài không dưới hai mươi mét. Một người đàn ông đang ngồi đó chờ đợi, im lặng. Ông ta lạnh lùng nhìn chúng tôi.

“Con đến trễ à, thưa cha?” Loring vội vàng hỏi, “Đây là ông Philip Marlowe. Còn đây là ông Harlan Potter.” Người đàn ông chỉ nhìn tôi và hạ cằm xuống khoảng một phân.

“Rung chuông gọi trà đi,” ông nói. “Ngồi đi, ông Marlowe.”

Tôi ngồi xuống và nhìn ông. Ông ta nhìn tôi như một nhà côn trùng học nhìn con bọ cánh cứng. Không ai nói gì. Im lặng hoàn toàn bao trùm cho đến khi trà được mang ra. Nó được đặt trên một chiếc khay bạc lớn lên chiếc bàn kiểu Trung Quốc. Linda ngồi vào bàn và rót trà.

“Hai tách,” Harlan Potter nói. “Con có thể sang phòng khác uống trà, Linda.”

“Vâng thưa cha. Ông thích trà của mình thế nào, ông Marlowe?”

“Thế nào cũng được,” tôi nói. Giọng nói của tôi dường như vọng lại từ xa và trở nên nhỏ bé và cô đơn. Cô đưa cho ông già một tách và cho tôi một tách. Rồi cô lặng lẽ đứng dậy đi ra khỏi phòng. Tôi nhìn cô đi. Tôi nhấp một ngụm trà và rút điếu thuốc ra.

“Đừng hút thuốc, làm ơn. Tôi bị hen suyễn.”

Tôi bỏ điếu thuốc trở lại bao. Tôi nhìn ông chằm chằm. Tôi không biết cảm giác đáng giá hơn một trăm triệu ra sao, nhưng trông ông không vui vẻ chút nào. Ông là một người cao lớn, cao ngất ngưởng gần hai mét và bề ngang cân xứng. Ông mặc bộ vest bằng vải tuýt màu xám không lót. Ông không cần đệm vai. Bên trong ông mặc áo sơ mi trắng, thắt cà vạt sẫm màu và không có khăn tay trên nắp túi. Một hộp đựng kính thò ra từ túi ngực bên ngoài. Nó màu đen, giống như đôi giày. Tóc ông cũng đen, không bạc chút nào, toàn bộ mái chải hất sang một bên hộp sọ theo kiểu MacArthur. Và tôi có cảm giác bên dưới lớp tóc không có gì ngoài xương sọ trơ trụi. Lông mày ông rậm và đen. Giọng nói của ông dường như vọng đến từ một nơi rất xa. Ông uống trà như thể căm ghét nó.

“Sẽ tiết kiệm thời gian, ông Marlowe, nếu tôi cho ông rõ quan điểm của mình. Tôi tin rằng ông đang can thiệp vào công việc của tôi. Nếu đúng vậy, tôi đề nghị ông dừng lại.”

“Tôi biết gì về công việc của ông để can thiệp đâu, ông Potter.”

“Tôi phản đối.”

Ông uống thêm một ít trà và đặt tách sang một bên.

Ông ngả người ra sau chiếc ghế lớn mà ông đang ngồi và dỡ tôi ra thành từng mảnh bằng đôi mắt xám khắc nghiệt.

“Tôi đương nhiên biết ông là ai. Và ông kiếm ăn như thế nào, nếu có, và ông dính dáng với Terry Lennox ra sao. Tôi nghe báo cáo rằng ông đã giúp Terry đi ra nước ngoài, rằng ông nghi ngờ về tội lỗi của anh ta và kể từ đó ông đã liên lạc với một người đàn ông quen biết với đứa con gái đã chết của tôi. Vì mục đích gì vẫn chưa được giải thích cho tôi. Hãy giải thích đi.”

“Nếu người đàn ông đó có một cái tên,” tôi nói, “thì gọi tên ra đi.”

Ông ta cười rất nhẹ nhưng không phải kiểu có cảm tình với tôi. “Wade. Roger Wade. Một loại nhà văn, tôi nghĩ vậy. Họ nói với tôi rằng gã nhà văn viết những cuốn sách khá tục tĩu mà tôi không có hứng đọc. Tôi biết thêm rằng anh ta là một kẻ nghiện rượu nguy hiểm. Điều này có thể dẫn tới vài ý tưởng kỳ lạ nơi ông.”

“Có lẽ ông nên để tôi có những ý tưởng của riêng mình thì tốt hơn, ông Potter. Tất nhiên, chúng không quan trọng, nhưng ý tưởng là tất cả những gì tôi có. Đầu tiên, tôi không tin Terry đã giết vợ mình, vì cách tội ác đó được thực hiện và vì tôi không nghĩ hắn là loại người như vậy. Thứ hai, tôi không liên lạc với Wade. Tôi được đề nghị đến sống trong nhà anh ta và giúp anh ta giữ tỉnh táo cho đến khi viết xong cuốn sách. Thứ ba, nếu anh ta là một kẻ nghiện rượu nguy hiểm, tôi chưa chứng kiến dấu hiệu nào của điều đó. Thứ tư, cuộc tiếp xúc đầu tiên của tôi là theo yêu cầu từ nhà xuất bản ở New York của anh ta và lúc đó tôi thậm chí không biết rằng Roger Wade từng quen biết con gái ông. Thứ năm, tôi đã từ chối lời mời làm việc này, và sau đó cô Wade nhờ tôi tìm người chồng đã ẩn náu chữa bệnh ở đâu đó của cô. Tôi đã tìm thấy anh ta và đưa anh ta về nhà.”

“Rất ngăn nắp trật tự,” ông ta nói khô khan.

“Tôi vẫn chưa hết ngăn nắp trật tự, ông Potter. Thứ sáu, ông hoặc ai đó làm theo chỉ thị của ông đã cử một luật sư tên là Sewell Endicott đến lãnh tôi ra khỏi tù. Ông ta không nói ai đã cử ông ta đến, nhưng không có ai khác ở vị trí này. Thứ bảy, khi tôi ra tù, một gã lưu manh tên là Mendy Menendez đã gây sự với tôi và cảnh cáo tôi phải giữ chân tay sạch sẽ, đồng thời ca múa một bài về sự kiện Terry đã cứu mạng anh ta và về cuộc đời của một tay cờ bạc ở Las Vegas tên là Randy Starr. Theo như tôi biết chuyện đó có thể là thật. Menendez vờ ấm ức vì Terry đã không nhờ hắn ta giúp trốn đến Mexico mà lại nhờ vả một tên rác rưởi như tôi. Menendez, hắn ta chỉ cần nhấc một ngón tay là có thể thực hiện điều đó bằng hai cách và làm tốt hơn nhiều.”

“Hẳn rồi,” Harlan Potter nói với một nụ cười ảm đạm, “ông không mảy may có ấn tượng rằng tôi xếp ông Menendez và ông Starr vào danh sách những người quen của tôi.”

“Tôi không thể biết, ông Potter. Một người kiếm tiền theo kiểu của ông không theo bất kỳ phương pháp nào tôi có thể biết được. Người tiếp theo cảnh báo tôi không được giẫm lên bãi cỏ quanh tòa án là con gái ông, cô Loring. Chúng tôi tình cờ gặp nhau tại một quán rượu và chúng tôi bắt chuyện vì cả hai đều đang uống món gimlet, thức uống ưa thích của Terry, nhưng không phổ biến ở đây. Tôi không biết cô ấy là ai cho đến khi cô ấy nói với tôi. Tôi đã kể một chút cảm nhận của tôi về Terry và cô ấy cho biết rằng sự nghiệp của tôi sẽ ngắn ngủi và bất hạnh nếu tôi chọc giận ông. Ông đang nổi giận à, ông Potter?”

“Khi tôi nổi giận,” ông ta lạnh lùng nói, “ông sẽ không cần hỏi. Ông sẽ biết chắc chắn.”

“Đúng những gì tôi nghĩ. Tôi đã chờ đợi đám du côn, nhưng cho đến giờ họ vẫn chưa xuất hiện. Tôi cũng không bị cảnh sát làm phiền. Lẽ ra chuyện đó đã xảy ra. Tôi có thể đã gặp nhiều khó khăn. Tôi nghĩ tất cả những gì ông muốn, ông Potter, là yên tĩnh. Tôi đã làm phiền đến ông?”

Ông ta cười. Đó là một nụ cười chua chát, nhưng ngoác miệng. Ông ta đan chéo những ngón tay dài vàng ệch, vắt chân qua đầu gối và thoải mái ngả người ra sau.

“Một màn chào hàng khá hay, thưa ông Marlowe, và tôi đã để ông nói hết. Bây giờ hãy lắng nghe tôi. Ông hoàn toàn đúng khi nghĩ tất cả những gì tôi muốn là yên tĩnh. Rất có thể mối liên hệ của ông với Wade là ngẫu nhiên, tình cờ và không cố ý. Hãy giữ cho mọi chuyện y nguyên như vậy. Tôi là một người đàn ông của gia đình trong thời đại mà gia đình hầu như không có ý nghĩa gì. Một trong những đứa con gái của tôi kết hôn với một tên hợm hĩnh gốc Boston còn đứa kia với một lô những cuộc hôn nhân ngớ ngẩn, lần cuối cùng với một kẻ nghèo kiết hay nịnh đầm, hắn đã cho phép con bé chìm đắm trong một cuộc sống vô giá trị và vô đạo đức cho đến khi hắn đột nhiên không vì lý do gì mất tự chủ và giết nó. Ông nghĩ rằng điều đó không thể xảy ra vì sự tàn bạo trong phong cách của tội ác đó. Ông đã sai. Hắn bắn con bé bằng khẩu súng tự động Mauser, chính khẩu súng mà hắn mang theo đến Mexico. Và sau khi bắn nó, hắn đã làm chuyện đó để che lấp vết thương do đạn bắn. Tôi thừa nhận sự tàn bạo của hành động này, nhưng hãy nhớ rằng hắn đã từng tham gia chiến tranh, bị thương nặng, đã đau đớn rất nhiều và chứng kiến những kẻ khác đau đớn. Hắn có thể không định giết con bé. Có thể xảy ra một cuộc ẩu đả, vì khẩu súng vốn thuộc về con gái tôi. Đó là một khẩu súng nhỏ nhưng mạnh, cỡ nòng 7.65 m/m, kiểu gọi là P.P.K. Viên đạn đi xuyên qua đầu nó và găm vào bức tường phía sau tấm rèm bằng vải lanh. Điều tra viên đã không tìm thấy nó ngay lập tức và chi tiết này cũng không được công bố. Bây giờ chúng ta hãy suy xét tình hình.” Ông ta ngừng lại và nhìn chằm chằm vào tôi. “Có phải ông đang rất cần một điếu thuốc không?”

“Xin lỗi, ông Potter. Tôi đã lấy nó ra mà không nghĩ. Sức mạnh của thói quen.” Tôi cất điếu thuốc đi lần thứ hai.

“Terry vừa giết vợ mình. Hắn có nhiều động cơ theo quan điểm khá hạn chế của cảnh sát. Nhưng hắn cũng có một lý do bào chữa xuất sắc, rằng đó là khẩu súng của con bé và hắn muốn giành súng từ tay nó nhưng không thành công và nó đã tự bắn vào mình. Một luật sư giỏi có thể đạt được rất nhiều từ lập luận đó. Hắn có thể được tha bổng. Nếu lúc đó hắn gọi tôi thì tôi đã giúp hắn. Nhưng bằng cách biến vụ giết người trở thành một vụ hành hung tàn bạo để che đậy dấu vết của viên đạn, hắn đã xóa bỏ mọi khả năng. Hắn phải trốn chạy và ngay cả điều đó hắn cũng hết sức vụng về.”

“Chắc chắn là quá vụng về, ông Potter. Nhưng trước tiên hắn đã gọi cho ông ở Pasadena, đúng không? Hắn đã kể với tôi.”

Người đàn ông cao lớn gật đầu. “Tôi bảo hắn hãy biến mất và tôi sẽ xem mình có thể làm được gì. Tôi không muốn biết hắn đi đâu. Đó là điều bắt buộc. Tôi không thể che giấu tội phạm.”

“Tuyệt vời, ông Potter.”

“Ông vừa mỉa mai tôi đấy ư? Không thành vấn đề. Khi tôi biết được các chi tiết, không thể làm gì hơn. Tôi không thể cho phép vụ xét xử mà kiểu tội ác đó sẽ dẫn đến. Thành thật mà nói, tôi rất mừng khi biết rằng hắn đã tự sát ở Mexico và để lại lời thú tội.”

“Tôi rất hiểu, ông Potter.”

Ông ta nhướng mày nhìn tôi. “Hãy cẩn thận, chàng trai trẻ. Tôi không thích châm biếm. Bây giờ ông có thể hiểu rằng tôi không thể chấp nhận xảy ra thêm bất kỳ cuộc điều tra nào dưới bất kỳ hình thức nào từ bất kỳ ai chưa? Và tại sao tôi phải sử dụng tất cả sức ảnh hưởng của mình để tóm gọn cuộc điều tra đã mở đầu càng ngắn càng tốt và càng kín đáo càng tốt?”

“Chắc chắn rồi, nếu ông tin rằng hắn đã giết cô ấy.”

“Tất nhiên là hắn giết nó. Với mục đích gì là một câu hỏi khác. Cũng không quan trọng nữa. Tôi không phải và không có ý định trở thành nhân vật của công chúng. Tôi luôn cố gắng né tránh bất kỳ hình thức công khai nào. Tôi có ảnh hưởng nhưng tôi không lạm dụng nó. Công tố viên Los Angeles là một người quá tham vọng, có thừa tỉnh táo và khôn ngoan để không làm hỏng sự nghiệp của mình ở thời điểm tai tiếng này. Tôi thấy lóe sáng trong mắt ông kìa, Marlowe. Gạt bỏ nó đi. Chúng ta đang sống trong cái thể chế gọi là dân chủ, do đa số nhân dân làm chủ. Một lý tưởng đẹp nếu nó có thể được thực thi. Người dân bầu, nhưng cơ cấu đảng phái đề cử, và để hoạt động hiệu quả cơ cấu đảng phái phải chi rất nhiều tiền. Phải có người cung cấp tiền cho họ, và kẻ đó, cho dù là một cá nhân, một nhóm tài chính, một công đoàn hay bất cứ thể loại nào, cũng chờ đợi được đền đáp một đặc quyền. Điều mà tôi và những người thuộc đẳng cấp của tôi mong đợi là được phép sống cuộc đời của mình trong sự riêng tư đàng hoàng. Tôi sở hữu vài tờ báo, nhưng tôi không thích chúng. Tôi coi chúng là mối đe dọa thường trực đối với sự riêng tư còn sót lại của chúng tôi. Thứ tự do báo chí mà họ liên tục kêu la đòi hỏi, trừ một vài ngoại lệ đáng kính, đồng nghĩa với tự do buôn bán những vụ bê bối, tội phạm, tình dục, tin giật gần, thù hận, vu khống, và sử dụng tuyên truyền chính trị và tài chính. Một tờ báo là một doanh nghiệp kiếm tiền thông qua doanh thu quảng cáo. Lợi nhuận được xác định dựa trên số lượng của nó và ông biết số lượng phụ thuộc vào cái gì.”

Tôi đứng dậy và đi vòng quanh ghế của mình. Ông nhìn tôi với ánh mắt lạnh lùng. Tôi lại ngồi xuông. Tôi cần một chút may mắn. Chết tiệt, tôi cần hàng tấn may mắn.

“Được rồi, ông Potter, chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo đây?”

Ông không nghe. Ông đang cau mày với suy nghĩ riêng. “Có một điều kỳ lạ về tiền bạc,” ông nói tiếp. “Ở số lượng lớn, đồng tiền có xu hướng hình thành một đời sống riêng, thậm chí có lương tâm riêng. Sức mạnh của đồng tiền trở nên rất khó kiểm soát. Con người là động vật ăn thịt. Gia tăng dân số, chi phí chiến tranh khổng lồ, áp lực thuế liên tục... tất cả những điều này khiến con người ngày càng trở nên trắng trợn. Một người bình thường sẽ mệt mỏi và sợ hãi, và một người mệt mỏi, sợ hãi không có khả năng chi trả cho lý tưởng. Anh ta còn phải mua thức ăn cho gia đình. Trong thời đại của chúng ta, chúng ta đã chứng kiến sa sút đáng kinh ngạc về cả đạo đức tập thể và cá nhân. Anh không thể chờ đợi chất lượng từ những người có cuộc sống bị ảnh hưởng trực tiếp bởi sự thiếu chất lượng. Anh không thể đạt chất lượng qua sản xuất hàng loạt. Anh không muốn chất lượng vì sản phẩm quá bền. Vì vậy, anh thay kiểu đáng, đó là một trò lừa bịp thương mại nhằm tạo ra tính lỗi thời nhân tạo. Sản xuất hàng loạt không thể bán được hàng trong năm tới trừ phi những gì đã bán được trong năm nay trở nên lỗi thời trong vòng một năm. Chúng ta có những căn bếp trắng nhất và những phòng tắm bóng loáng nhất thế giới. Nhưng trong căn bếp màu trắng xinh xắn, một bà nội trợ bình thường ở Mỹ không thể chuẩn bị một bữa ăn vừa miệng, và phòng tắm bóng loáng xinh xắn chủ yếu là cái rổ hứng chất khử mùi, thuốc nhuận tràng, thuốc ngủ và các sản phẩm của mớ hổ lốn lòng tự tin được gọi là ngành công nghiệp mỹ phẩm. Chúng ta sản xuất những bao bì sản phẩm tốt nhất trên thế giới, ông Marlowe. Những thứ bên trong chủ yếu là rác rưởi.”

Ông lấy ra một chiếc khăn tay lớn màu trắng và chặm lên thái dương. Tôi ngồi há hốc miệng, tự hỏi điều gì có thể kích động ông. Ông ghét tất cả.

Ông nói: “Vùng này khá nóng đối với tôi. Tôi quen với khí hậu mát mẻ hơn. Tôi bắt đầu nói như một bài xã luận lạc đề.”

“Tôi hoàn toàn hiểu chủ đề ông muốn nói, ông Potter. Ông không thích những gì đang xảy ra trong xã hội chúng ta, vì vậy ông sử dụng quyền lực của mình khoanh tròn một góc riêng tư để ông có thể gần như tái tạo lại lối sống mà ông cho rằng chúng ta đã sống cách đây năm chục năm, trước thời đại sản xuất hàng loạt. Ông có cả trăm triệu đô la và nó chỉ mang lại cho ông mớ phiền phức không hơn không kém.”

Ông kéo căng chiếc khăn tay bằng hai góc đối nhau, rồi vò nó thành một quả bóng và nhét vào túi.

“Và sau đó?” Ông hỏi cụt lủn.

“Chỉ có vậy thôi, không có sau đó. Ông không quan tâm ai đã giết con gái mình, ông Potter. Ông đã coi cô ấy là thứ vứt đi từ lâu. Ngay cả khi Terry Lennox không giết cô ấy, và kẻ sát nhân thực sự vẫn đang tự do bên ngoài, ông cũng chẳng quan tâm. Ông không muốn hắn ta bị bắt, bởi vì điều đó sẽ khơi lại vụ bê bối rồi sẽ diễn ra một phiên tòa và lời bào chữa của hắn ta sẽ thổi bay quyền riêng tư cao bằng tòa Empire State của ông. Tất nhiên, trừ phi hắn ta buộc phải tự sát, trước khi diễn ra bất kỳ phiên tòa nào. Tốt nhất là tại Tahiti hoặc Guatemala hoặc giữa sa mạc Sahara. Bất cứ nơi nào mà cảnh sát quận không muốn bỏ chi phí cử một người đến xác minh những chuyện đã xảy ra.”

Ông đột nhiên mỉm cười, một nụ cười rộng mở với chút thân thiện vừa phải trong đó.

“Ông muốn gì ở tôi, Marlowe?”

“Nếu ông muốn nói bao nhiêu tiền, câu trả lời là không. Tôi không hề muốn đến đây. Tôi được mang đến. Tôi đã kể thật về việc tôi đã gặp Roger Wade như thế nào. Nhưng anh ta quen biết con gái ông và anh ta có tiền sử bạo lực, mặc dù tôi chưa thấy bất kỳ dấu hiệu gì như vậy. Đêm qua anh ta đã định tự sát bằng súng. Anh ta là một người bị ám ảnh. Anh ta có một mặc cảm tội lỗi nặng nề. Nếu tôi quả thực đang tìm kiếm một nghi phạm phù hợp, anh ta có thể vừa khớp. Tôi nhận ra anh ta chỉ là một trong số rất nhiều người, nhưng tình cờ lại là người duy nhất tôi gặp.”

Ông đứng lên và khi đứng ông thật cao lớn. Và mạnh mẽ. Ông bước đến đứng trước mặt tôi.

“Một cú điện thoại, ông Marlowe, sẽ tước giấy phép của ông. Đừng chống đối tôi. Tôi sẽ không kiên nhẫn đâu.”

“Hai cú điện thoại và tôi thức dậy úp mặt vào rãnh nước, nửa sau sọ mất tích.”

Ông cười cay nghiệt. “Đó không phải cách hành động của tôi. Tôi cho rằng trong cái ngành kỳ quái của ông, ông có suy nghĩ đó là điều đương nhiên. Tôi đã cho ông quá nhiều thời gian của tôi. Tôi sẽ gọi quản gia để đưa ông ra ngoài.”

“Không cần,” tôi nói, và tự mình đứng dậy. “Tôi đến đây và đã nói xong. Cảm ơn vì thời gian ông dành cho tôi.”

Ông chìa tay ra. “Cảm ơn vì đã đến. Tôi nghĩ ông là một anh chàng khá trung thực. Đừng làm anh hùng, anh bạn trẻ. Không lợi lộc gì đâu.”

Tôi bắt tay ông. Ông có cái siết tay cứng như một cái mỏ lết ống nước. Lúc này ông mỉm cười hiền lành với tôi. Ông là ông lớn, người chiến thắng, nắm giữ tất cả trong tầm kiểm soát.

“Một ngày nào đó tôi có thể đem lại một vài vụ làm ăn cho ông,” ông nói. “Và đừng nghĩ rằng tôi mua chuộc các chính trị gia hay nhân viên hành pháp. Tôi không cần phải làm thế. Tạm biệt, ông Marlowe. Và cảm ơn ông một lần nữa vì đã đến.”

Ông đứng đó và nhìn tôi ra khỏi phòng. Tôi đặt tay lên cửa khi Linda Loring xuất hiện từ đâu đó trong bóng tối.

“Thế nào?” cô ấy khẽ hỏi tôi. “Ông trò chuyện với cha thế nào?”

“Tốt. Ông ấy giải thích cho tôi về nền văn minh. Ý tôi là quan điểm của ông ấy về nó. Ông ấy sẽ để mặc nó phát triển một thời gian nữa. Nhưng tốt nhất hãy cẩn thận đừng can thiệp vào cuộc sống riêng tư của ông ấy. Nếu không, ông ấy sẽ gọi điện thoại trực tiếp cho Thượng đế và hủy bỏ đơn đặt hàng.”

“Anh thật vô vọng,” cô nói.

“Tôi? Tôi vô vọng? Tiểu thư, nhìn ông già của cô đi. So với ông ấy, tôi là một đứa bé sơ sinh mắt nai với cái trống bỏi mới toanh.”

Tôi bước ra ngoài và Amos đã đợi với chiếc Caddy ở đó. Ông chở tôi lại Hollywood. Tôi đưa cho ông một đồng nhưng ông không nhận. Tôi đề nghị mua tặng ông tuyển tập thơ của T. S. Eliot. Ông nói mình đã có rồi.