Chương 42
Phía bắc bên kia hẻm núi Nước Lạnh trời bắt đầu trở nóng. Khi chúng tôi lên đến đỉnh và bắt đầu đi xuống thung lũng San Fernando, trời không một ngọn gió thoảng và rực lửa. Tôi liếc nhìn Spencer. Ông mặc áo vest, nhưng cái nóng dường như không làm phiền ông. Ông đang bị phiền lòng hơn rất nhiều bởi những chuyện khác. Ông nhìn thẳng về phía trước qua kính chắn gió mà không nói gì. Thung lũng bao phủ một lớp khói mù dày đặc. Nhìn từ trên cao, nó trông giống như một màn sương trên mặt đất và rồi chúng tôi tiến vào trong đó và nó đá Spencer văng ra khỏi sự im lặng.
“Chúa ơi, tôi đã nghĩ Nam California có khí hậu tốt,” ông nói. “Họ đang làm gì, đốt lốp xe tải cũ?”
“Đến Thung Lũng Nhàn Rỗi sẽ ổn thôi,” tôi nhẹ nhàng nói với ông. “Họ đón làn gió biển thổi tới đó.”
“Tôi rất mừng vì họ có thứ gì khác ngoài say xỉn,” ông nói. “Từ những gì tôi đã đọc về đám dân địa phương ở vùng ngoại ô giàu có, tôi nghĩ Roger đã phạm một sai lầm thảm hại khi chuyển đến đây sống. Một nhà văn cần chất kích thích... nhưng không phải loại mà người ta đóng chai. Quanh đây chẳng có gì ngoài một cơn say ngất ngư trong nắng gắt. Tất nhiền, tôi đang nói đến những người thuộc tầng lớp thượng lưu.”
Tôi tắt máy và giảm tốc độ trên đoạn đường đầy bụi dẫn đến lối vào Thung Lũng Nhàn Rỗi, sau đó lại tăng tốc trên con đường lát đá và một lát sau, gió biển thổi qua khe hở giữa những ngọn đồi ở cuối hồ. Những vòi phun nước cao xoay tròn trên bãi cỏ rộng lớn nhẵn nhụi và nước tạo ra âm thanh róc rách khi liếm trên lá cỏ. Vào thời điểm này, hầu hết những người giàu có đã đi nghỉ nơi khác. Anh nhận thấy điều đó qua những cánh cửa chớp đóng chặt và chiếc xe tải của người làm vườn đậu ngay giữa đường xe chạy vào nhà. Sau đó, chúng tôi đến nơi ở của Wade và tôi rẽ vào cổng rồi dừng lại sau chiếc Jaguar của Eileen. Spencer bước ra ngoài và hiên ngang bước qua những phiến đá lát để đến hiên nhà. Ông bấm chuông và cánh cửa gần như mở ra ngay lập tức. Candy đứng đó trong chiếc áo khoác trắng, khuôn mặt đẹp trai sẫm màu và đôi mắt đen sắc sảo. Mọi thứ đều theo trật tự.
Spencer bước vào. Candy liếc nhìn tôi một cái rồi gần như đóng sầm cửa vào mũi tôi. Tôi chờ đợi và không có gì xảy ra. Tôi dựa vào chuông và nghe thấy tiếng đinh đang. Cánh cửa bật mở và Candy gầm gừ bước ra.
“Cút! Biến cho nhanh. Ông muốn dao lụi vào bụng không?”
“Tôi đến gặp cô Wade.”
“Bà chủ không muốn dính gì đến ông.”
“Tránh ra, đồ nhà quê. Tôi có việc ở đây.”
“Candy!” Đó là giọng của cô, và nó thật sắc nhọn.
Cậu ta quắc mắt nhìn tôi lần cuối rồi lùi vào nhà. Tôi đi vào và đóng cửa lại. Cô đang đứng ở đầu một trong hai chiếc sofa đối diện nhau, và Spencer đang đứng bên cạnh. Cô trông hết sức rực rỡ. Cô mặc một chiếc quần trắng, lưng quần rất cao, và một chiếc áo sơ mi thể thao màu trắng có tay, và một chiếc khăn tay màu tím hoa cà lấp ló từ chiếc túi trên ngực trái của cô ấy.
“Gần đây Candy trở nên độc đoán hơn,” cô nói với Spencer. “Rất vui được gặp ông, Howard. Và thật tốt là ông đến đây. Tôi không nghĩ rằng ông đi cùng người nào đó.”
“Marlowe chở tôi đi,” Spencer nói. “Anh ấy cũng muốn gặp cô.”
“Tôi không thể nghĩ ra được tại sao,” cô lạnh lùng nói. Cuối cùng cô nhìn tôi, nhưng không phải ánh mắt mà một tuần không gặp đã để lại một khoảng trống trong cuộc đời cô ấy. “Sao?”
“Sẽ mất một ít thời gian,” tôi nói.
Cô từ từ ngồi xuống. Tôi ngồi xuống chiếc sofa kia. Spencer cau mày. Ông tháo kính ra và đánh bóng chúng. Điều đó cho ông cơ hội cau có tự nhiên hơn. Sau đó, ông ngồi ở đầu bên kia của chiếc sofa cùng tôi.
“Tôi tưởng là ông sẽ đến kịp giờ ăn trưa,” cô mỉm cười nói với ông.
“Hôm nay thì không, cảm ơn.”
“Không à? Vâng, tất nhiên nếu ông quá bận rộn. Vậy, ông chỉ muốn xem bản thảo đó.”
“Nếu tôi có thể.”
“Tất nhiên. Candy! Ồ, cậu ta đi rồi. Nó ở trên bàn trong phòng làm việc của Roger. Tôi sẽ lấy nó.”
Spencer đứng dậy. “Tôi lấy được không?”
Không đợi câu trả lời, ông bắt đầu đi sang phía kia phòng. Cách cô ấy ba mét, ông dừng lại và nhìn tôi căng thẳng. Rồi ông đi tiếp. Tôi chỉ ngồi đó và đợi cho đến khi cô quay đầu lại và đôi mắt cô nhìn tôi chằm chằm lạnh lùng xa lạ.
“Ông muốn gặp tôi có chuyện gì?” cô hỏi cộc lốc.
“Chuyện này chuyện kia. Tôi thấy cô lại đeo mặt dây chuyền đó lần nữa.”
“Tôi thường xuyên đeo nó. Một người bạn rất thân tặng cho tôi cách đây đã lâu.”
“Phải. Cô đã kể cho tôi. Đó là một loại huy hiệu quân sự của Anh, phải không?”
Cô chìa nó ra ở đầu sợi dây chuyền mỏng manh. “Đây là bản sao thợ kim hoàn làm. Nhỏ hơn bản gốc và bằng vàng, tráng men.”
Spencer quay trở lại phòng và ngồi xuống lần nữa rồi đặt một chồng giấy màu vàng dày ở góc bàn trà trước mặt ông. Ông thờ ơ liếc nhìn nó, rồi mắt ông theo sát Eileen.
“Tôi có thể nhìn kỹ hơn một chút được không?” Tôi hỏi cô.
Cô kéo sợi dây chuyền cho đến khi có thể tháo móc cài. Cô đưa mặt dây chuyền cho tôi, hay đúng hơn là cô thả nó vào tay tôi. Sau đó, cô xếp hai tay trong lòng và tỏ vẻ tò mò. “Tại sao ông lại quan tâm đến nó? Đó là huy hiệu của một đơn vị tên là Thiện xạ Súng trường, thuộc trung đoàn Lính địa phương. Người đàn ông tặng nó cho tôi đã mất tích ngay sau đó. Tại Andalsnes ở Na Uy, vào mùa xuân của cái năm khủng khiếp đó... 1940.” Cô mỉm cười và phác một cử chỉ ngắn bằng tay. “Anh ấy yêu tôi.”
“Eileen đã ở London trong suốt chiến dịch Blitz,” Spencer nói bằng một giọng trống rỗng. “Cô ấy không thể thoát ra khỏi.”
Cả hai chúng tôi đều phớt lờ Spencer. “Và cô đã yêu anh ta,” tôi nói.
Cô ấy nhìn xuống rồi ngẩng đầu lên và ánh nhìn của chúng tôi gặp nhau. “Đó là dĩ vãng rồi,” cô nói. “Và đã có một cuộc chiến. Những điều kỳ lạ xảy ra.”
“Còn nhiều điều hơn thế nữa, cô Wade. Tôi nghĩ cô đã quên mình cởi mở bao nhiêu về anh ta. ‘Loại tình yêu hoang dã bí ẩn khó có thể xảy ra chỉ đến một lần.’ Tôi đang trích dẫn nguyên văn lời cô. Theo một cách nào đó, cô vẫn còn yêu anh ta. Thật tuyệt vời khi tên tôi có chữ viết tắt giống tên anh ta. Tôi cho rằng điều đó có liên quan đến việc cô chọn tôi.”
“Tên anh ấy không giống tên ông chút nào,” cô lạnh lùng nói. “Và anh ấy đã chết, chết, chết.”
Tôi đưa mặt dây chuyền bằng vàng và men cho Spencer. Ông miễn cưỡng nhận lấy nó. “Tôi đã nhìn thấy nó trước đây,” ông lẩm bẩm.
“Hãy kiểm tra họa tiết giùm tôi,” tôi nói. “Nó bao gồm một con dao găm bản rộng tráng men trắng có viền vàng. Con dao găm hướng xuống dưới và lưỡi dao bắt tréo trước một cặp cánh men xanh nhạt uốn cong lên phía trên. Sau đó, nó đan chéo phía sau một cuộn giấy. Trên cuộn giấy có dòng chữ: KẺ QUYẾT THẮNG.”
“Có vẻ đúng,” ông nói. “Vì sao điều đó quan trọng?”
“Cô ấy nói đó là huy hiệu của Thiện xạ Súng trường, một đơn vị của trung đoàn Lính địa phương. Cô ấy nói rằng nó được tặng bởi một người đàn ông thuộc đơn vị đó và đã mất tích trong chiến dịch Na Uy cùng quân đội Anh vào mùa xuân năm 1940 tại Andalsnes.”
Tôi đã thu hút sự chú ý của họ. Spencer quan sát tôi không chớp mắt. Tôi không nói chuyện vẩn vơ và ông biết điều đó. Eileen cũng biết điều đó. Đôi lông mày nâu vàng của cô nhíu lại thành một cái cau mày bối rối cũng có thể là chân thật. Nó cũng không có thiện ý.
“Đây là phù hiệu ở tay áo,” tôi nói. “Nó ra đời vì Thiện Xạ Súng trường được tái cấu trúc hoặc sáp nhập hoặc thuyên chuyển hoặc bất kỳ thuật ngữ chính xác nào, vào đơn vị Đặc nhiệm Không quân. Ban đầu họ là một trung đoàn bộ binh Lính địa phương. Huy hiệu này thậm chí không tồn tại cho đến năm 1947. Do đó, không ai có thể tặng nó cho cô Wade vào năm 1940. Ngoài ra, không có Thiện xạ Súng trường nào tới vùng Andalsnes ở Na Uy vào năm 1940. Trung đoàn Sherwood Foresters và Leicestershire thì có. Cả hai đều thuộc Lính địa phương. Thiện xạ Súng trường thì không. Tôi độc ác quá phải không?”
Spencer đặt mặt dây chuyền xuống bàn cà phê và từ từ đẩy nó qua cho đến khi nó ở trước mặt Eileen. Ông không nói gì.
“Ông cho rằng tôi không biết sao?” Eileen khinh bỉ hỏi tôi.
“Cô nghĩ rằng Văn phòng Chiến tranh Anh sẽ không biết?” Tôi lập tức hỏi lại cô.
“Hẳn là phải có nhầm lẫn nào đó,” Spencer nhẹ nhàng nói.
Tôi quay lại và nhìn xoáy vào ông. “Đó cũng là một cách diễn đạt.”
“Nói cách khác, tôi là kẻ nói dối,” Eileen lạnh lùng nói. “Tôi chưa từng biết ai tên Paul Marston, chưa từng yêu anh ấy hay anh ấy yêu tôi. Anh ấy chưa bao giờ đưa cho tôi một bản sao huy hiệu trung đoàn của anh ấy, anh ấy chưa bao giờ mất tích trong chiến dịch, anh ấy chưa bao giờ tồn tại. Tôi đã tự mình mua chiếc huy hiệu này tại một cửa hàng ở New York, nơi họ chuyên bán các mặt hàng xa xỉ nhập khẩu của Anh, những thứ như đồ đa, giày brogues khâu bằng tay, cà vạt của trung đoàn và trường học, áo khoác thể thao, đồ lặt vặt có gắn quốc huy, vân vân. Một lời giải thích như thế có làm ông hài lòng không, ông Marlowe?”
“Phần cuối thì có. Phần đầu thì không. Chắc chắn ai đó đã nói với cô rằng đó là huy hiệu Thiện xạ Súng trường và quên đề cập loại nào, hoặc họ không biết. Nhưng cô đã quen biết Paul Marston và hắn đã phục vụ trong đơn vị đó, và đã mất tích khi làm nhiệm vụ ở Na Uy. Nhưng nó không xảy ra vào năm 1940, cô Wade. Chuyện xảy ra vào năm 1942 và khi đó hắn đang ở trong đội biệt kích, và không phải ở Andalsnes, mà là trên hòn đảo nhỏ ngoài khơi nơi các chàng trai biệt kích tiến hành một cuộc đột kích chớp nhoáng.”
“Tôi thấy không cần phải tỏ ra quá thù địch về điều đó,” Spencer nói với giọng của nhà quản lý. Ông đang nghịch những tờ giấy màu vàng trước mặt. Tôi không biết liệu ông đang phụ diễn cho tôi hay chỉ tức tối. Ông cầm lên một xấp bản thảo màu vàng và ước lượng nó trên tay.
“Ông định mua những thứ đó theo cân kí?” Tôi hỏi ông.
Ông giật mình, rồi nở một nụ cười khó nhọc.
“Eileen đã sống một khoảng thời gian khá vất vả ở London,” ông nói. “Mọi thứ trở nên lẫn lộn trong trí nhớ con người.”
Tôi lấy từ trong túi ra một tờ giấy được gấp lại. “Chắc chắn,” tôi nói. “Ví dụ như người mà cô đã kết hôn. Đây là bản sao có chứng thực giấy đăng ký kết hôn. Bản gốc đến từ Văn phòng đăng ký Caxton Hall. Ngày kết hôn là tháng Tám năm 1942. Các bên có tên là Paul Edward Marston và Eileen Victoria Sampsell. Theo một nghĩa nào đó, cô Wade đã đúng. Không có người nào là Paul Edward Marston. Đó là một cái tên giả vì trong quân đội anh phải xin phép mới được kết hôn. Hắn ta dùng tên giả. Trong quân đội, hắn có một cái tên khác. Tôi có toàn bộ lịch sử nhập ngũ của hắn. Tôi rất ngạc nhiên khi mọi người dường như không bao giờ nhận ra rằng chúng ta chỉ cần đặt câu hỏi.”
Spencer lúc này rất im lặng. Ông ngả người ra sau và nhìn chằm chằm. Nhưng không phải nhìn tôi. Ông nhìn chằm chằm vào Eileen. Cô nhìn lại ông với kiểu nụ cười mờ nhạt nửa nài nỉ, nửa quyến rũ mà phụ nữ rất giỏi.
“Nhưng anh ấy đã chết, Howard. Rất lâu trước khi tôi gặp Roger. Chuyện đó có quan trọng gì? Roger biết tất cả. Tôi chưa bao giờ bỏ cái tên thời con gái của mình. Trong hoàn cảnh đó tôi phải làm vậy. Nó nằm trong hộ chiếu của tôi. Sau đó, sau khi anh ấy bị giết trong trận chiến...” Cô dừng lại và hít một hơi thật chậm và từ từ, nhẹ nhàng thả tay xuống đầu gối. “Tất cả đã hết, tất cả đã hết, tất cả đã mất.”
“Cô chắc là Roger biết chứ?” ông chậm rãi hỏi cô.
“Anh ta biết điều gì đó,” tôi nói. “Cái tên Paul Marston có ý nghĩa đối với anh ta. Tôi đã hỏi anh ta một lần và ánh mắt anh ta nhìn tôi rất lạ lùng. Nhưng anh ta không nói cho tôi biết tại sao.”
Cô phớt lờ điều đó và nói chuyện với Spencer.
“Sao, tất nhiên là Roger biết mọi chuyện.” Bây giờ cô đang kiên nhẫn mỉm cười với Spencer như thể ông hơi chậm tiêu. Những mánh khóe của phụ nữ bọn họ.
“Vậy tại sao lại nói dối về ngày tháng?” Spencer hỏi khô khan. “Tại sao nói anh ta mất tích năm 1940 trong khi anh ta mất tích năm 1942? Tại sao lại đeo một huy hiệu mà anh ta không thể tặng cô và nhất định làm ra vẻ là anh ta đã tặng?”
“Có lẽ tôi đã lạc vào một giấc mơ,” cô nói nhẹ nhàng. “Hoặc chính xác hơn là một cơn ác mộng. Rất nhiều bạn bè của tôi đã thiệt mạng trong vụ đánh bom. Khi chúng tôi nói chúc ngủ ngon vào những ngày đó, chúng tôi cố gắng để nghe không giống như nói lời vĩnh biệt. Nhưng thường nó chính là như vậy. Và khi chia tay với một người lính, điều đó còn tồi tệ hơn. Những người tốt bụng và dịu dàng luôn bị sát hại.”
Ông không nói gì. Tôi không nói gì. Cô nhìn xuống mặt dây chuyền nằm trên bàn trước mặt. Cô nhặt nó lên và đeo nó vào sợi dây chuyền quanh cổ một lần nữa rồi ngả người ra sau điềm tĩnh.
“Tôi biết tôi không có quyền chất vấn cô, Eileen,” Spencer chậm rãi nói. “Hãy quên nó đi. Marlowe làm lớn chuyện vụ huy hiệu và giấy đăng ký kết hôn, vân vân. Tôi nghĩ anh ấy đã khiến tôi băn khoăn trong giây lát.”
“Ông Marlowe,” cô lặng lẽ nói, “chuyện bé xé ra to. Nhưng khi liên quan đến một việc thực sự quan trọng, chẳng hạn như cứu mạng một người, thì ông ấy lại đi xuống hồ để nhìn một chiếc tàu cao tốc ngớ ngẩn.”
“Và cô không bao giờ gặp lại Paul Marston nữa,” tôi nói.
“Làm sao tôi có thể gặp được khi anh ấy đã chết?”
“Cô không biết hắn đã chết. Không có giấy báo tử của hắn từ Hội Chữ thập đỏ. Hắn có thể đã bị bắt làm tù binh.”
Cô chợt rùng mình. “Vào tháng Mười năm 1942,” cô chậm rãi nói, “Hitler ra lệnh giao nộp tất cả tất cả lính biệt kích bị bắt cho Gestapo. Tôi nghĩ tất cả chúng ta đều biết điều đó có nghĩa là gì. Tra tấn và cái chết vô danh trong những ngục tối của Gestapo.” Cô lại rùng mình. Sau đó, cô nổi điên với tôi: “Ông là một người xấu xa. Ông muốn tôi sống lại chuyện đó một lần nữa, để trừng phạt tôi vì một lời nói dối tầm thường. Giả sử một người ông yêu đã bị những con người đó bắt và ông biết chuyện gì đã xảy ra, thì điều gì phải xảy ra với người đó? Rằng tôi phải xây dựng một loại ký ức khác... thậm chí là ký ức giả... có quá kỳ lạ hay không?”
“Tôi cần một ly rượu mạnh,” Spencer nói. “Tôi rất cần. Tôi có thể uống một ly không?”
Cô vỗ tay và Candy từ đâu đó lướt tới như mọi khi. Cậu ta cúi đầu trước Spencer. “Ông thích uống gì, ngài Spencer?”
“Rượu Scotch nguyên chất, và thật đầy,” Spencer nói.
Candy đi vào trong góc và kéo tủ rượu ra khỏi tường. Cậu ta dựng cái chai lên trên và rót một ly lớn. Cậu ta quay lại và đặt nó xuống trước mặt Spencer. Cậu ta lại dợm bước đi.
“Candy,” Eileen nhẹ nhàng nói, “có lẽ ông Marlowe cũng muốn uống một chút.”
Cậu ta dừng lại và nhìn cô, khuôn mặt tối sầm và bướng bỉnh.
“Không, cảm ơn,” tôi nói. “Tôi không cần đồ uống.”
Candy khịt mũi và bỏ đi. Lại một khoảng im lặng khác. Spencer đặt nửa ly còn lại xuống. Ông đốt một điếu thuốc. Ông nói mà không nhìn tôi.
“Tôi chắc rằng bà Wade hoặc Candy có thể đưa tôi trở lại Beverly Hills. Hoặc tôi có thể gọi một chiếc taxi. Tôi hiểu rằng anh đã nói xong phần của anh.”
Tôi gấp bản sao có chứng thực của giấy đăng ký kết hôn. Tôi đặt lại nó vào trong túi của mình.
“Ông chắc chứ?” Tôi hỏi ông.
“Mọi người đều muốn như vậy.”
“Tốt.” Tôi đứng lên. “Tôi nghĩ mình thật ngu ngốc khi thử chơi theo cách này. Là một nhà xuất bản lâu đời và có đầu óc, khi công việc cần, ông có thể đã hiểu rằng tôi không đến đây chỉ để đóng vai ác. Tôi không khơi gợi lịch sử xa xưa hay bỏ tiền túi của mình tìm kiếm sự thật chỉ để buộc tội một ai đó. Tôi không điều tra Paul Marston vì Gestapo đã sát hại hắn, vì cô Wade đeo nhầm huy hiệu, vì cô ta nhầm lẫn ngày tháng, hay vì cô ta đã có với hắn một cuộc hôn nhân ngắn ngủi trong thời chiến. Khi tôi bắt đầu điều tra về hắn, tôi không biết bất cứ điều gì. Tất cả những gì tôi biết là tên của hắn. Vậy ông cho rằng làm thế nào tôi biết điều đó?”
“Chắc chắn ai đó đã nói với anh,” Spencer nói cộc lốc.
“Chính xác, ông Spencer. Một người quen biết hắn ở New York sau chiến tranh và sau đó đã gặp hắn ở nhà hàng Chasen với vợ hắn.”
“Marston là một cái tên khá phổ biến,” Spencer nói và nhấp một ngụm rượu. Ông quay đầu sang một bên và mí mắt bên phải của ông sụp xuống một phân. Vì vậy, tôi lại ngồi xuống. “Ngay cả Paul Marston cũng không thể là độc nhất. Có mười chín Howard Spencer trong danh bạ điện thoại khu vực New York mở rộng. Và bốn người trong số họ chỉ đơn giản là Howard Spencer, không tên đệm.”
“Phải. Ông nghĩ có bao nhiêu Paul Marston đã bị một quả đạn cối nổ chậm cào nát một bên mặt, để lại sẹo và những vết tích của phẫu thuật thẫm mỹ phục hồi những tổn thương đó?”
Miệng của Spencer há hốc ra. Ông phát ra một âm thanh như hơi thở hổn hển. Ông lấy ra một chiếc khăn tay và chặm lên thái dương.
“Ông nói sẽ có bao nhiêu Paul Marston đã cứu mạng hai tay cờ bạc dữ dằn tên là Mendy Menendez và Randy Starr trong cùng một sự kiện đó? Họ vẫn còn sống, họ có trí nhớ rất tốt. Họ có thể nói khi họ muốn. Tại sao phải giả dối thêm nữa, Spencer? Paul Marston và Terry Lennox là một. Điều đó có thể được chứng minh tuyệt đối không gợn chút nghi ngờ.”
Tôi không chờ đợi bất cứ ai nhảy lên ba thước và gào thét và không ai làm thế. Nhưng có một sự im lặng cũng đinh tai không kém tiếng thét. Nó ngự trị. Nó quấn quanh tôi dày đặc và nặng nề. Tôi có thể nghe thấy tiếng nước chảy trong bếp. Bên ngoài, tôi có thể nghe thấy tiếng đập mạnh của một tờ báo được vứt vào trên đường trước cửa nhà, sau đó là tiếng huýt sáo lạc điệu của một cậu bé đang đạp xe đi xa.
Tôi cảm thấy một vết chích nhỏ xíu sau gáy. Tôi giật người ra xa khỏi nó và quay lại. Candy đang đứng đó với con dao trên tay. Khuôn mặt ngăm đen của cậu ta cứng đờ vô cảm nhưng có điều gì đó trong mắt cậu mà tôi chưa từng thấy trước đây.
“Ông mệt rồi, bạn à ,” cậu nhẹ nhàng nói. “Tôi pha cho ông một ly, được không?”
“Bourbon với đá, cảm ơn,” tôi nói.
“Ngay lập tức, thưa ông.”
Cậu ta đóng con dao lại, bỏ nó vào túi bên hông của chiếc áo khoác trắng và nhẹ nhàng bước đi.
Rồi sau cùng tôi nhìn Eileen. Cô chồm người về phía trước, hai tay nắm chặt. Khuôn mặt cô cúi xuống che khuất mọi biểu cảm nếu có. Và khi cô cất lời, giọng của cô có sự trống rỗng mạch lạc của giọng nói máy móc trên điện thoại thông báo thời gian, và nếu tiếp tục lắng nghe, điều mà chẳng ai muốn nghe vì chẳng có lý do gì phải nghe, nó sẽ tiếp tục đếm từng giây đang trôi qua cho đến mãi mãi, âm điệu không dao động dù chỉ một mảy may.
“Tôi chỉ gặp lại anh ấy một lần, Howard. Chỉ một lần. Tôi không nói gì. Anh ấy cũng không. Anh ấy thay đổi khủng khiếp. Tóc bạc trắng và khuôn mặt... nó không còn là một khuôn mặt. Nhưng tất nhiên tôi nhận ra anh ấy, và tất nhiên anh ấy nhận ra tôi. Chúng tôi nhìn nhau. Chỉ có thế. Rồi anh ấy rời khỏi phòng và ngày hôm sau bỏ nhà đi. Chính tại nhà Loring tôi đã gặp anh ấy... và người đàn bà kia. Một buổi chiều muộn. Ông cũng ở đó, Howard. Và Roger đã ở đó. Tôi cho rằng ông cũng đã nhìn thấy anh ấy.”
“Chúng tôi được giới thiệu với nhau,” Spencer nói. “Tôi biết anh ta đã kết hôn với ai.”
“Linda Loring nói với tôi rằng anh ấy biến mất. Anh ấy không nói lý do. Không có cãi vã. Rồi một thời gian sau người phụ nữ đó ly dị anh ấy. Và rất lâu sau, tôi nghe nói cô ta đã tìm lại anh ấy. Anh ấy sa sút và tàn tạ. Rồi họ lại cưới nhau. Có trời mới biết tại sao. Tôi cho rằng anh ấy không có tiền và điều đó không còn quan trọng với anh ấy nữa. Anh ấy biết tôi đã kết hôn với Roger. Chúng tôi đã lạc mất nhau.”
“Tại sao?” Spencer hỏi.
Candy đặt đồ uống của tôi xuống mà không nói một lời. Cậu ta nhìn Spencer và Spencer lắc đầu. Candy lướt đi. Không ai chú ý đến cậu ta. Cậu ta giống như nhân viên hậu đài trong một vở tuồng Tàu, người di chuyển mọi vật trên sân khấu và các diễn viên cũng như khán giả đều làm như thể cậu ta không có mặt ở đó.
“Tại sao ư?” cô nhắc lại. “Ồ, ông sẽ không hiểu đâu. Những gì chúng tôi có đã mất đi. Nó không bao giờ có thể phục hồi. Rốt cuộc thì Gestapo đã không bắt được anh ấy. Chắc chắn phải có một gã Đức quốc xã đã bất chấp mệnh lệnh của Hitler về đội biệt kích. Vì vậy, anh ấy sống sót, anh ấy trở về. Tôi đã từng tự lừa dối mình rằng sẽ gặp lại anh ấy hệt như ngày xưa, háo hức, trẻ trung và nguyên vẹn. Nhưng lại thấy anh ấy kết hôn với con điếm tóc đỏ đó... thật kinh tởm. Tôi biết về cô ta và Roger. Tôi chắc Paul cũng vậy, Linda Loring cũng biết, bản thân cô ta hơi lẳng lơ, nhưng không đến mức đó. Tất cả bọn họ đều cùng hội cùng thuyền. Ông hỏi tôi tại sao không bỏ Roger và quay lại với Paul. Sau khi anh ấy đã nằm trong vòng tay cô ta và Roger cũng nằm trong vòng tay tình nguyện đó? Không, cảm ơn. Tôi cần nhiều cảm hứng hơn thế một chút. Tôi có thể tha thứ cho Roger. Anh ấy say xỉn, không biết mình đang làm gì. Anh ấy lo lắng về công việc và anh ấy căm ghét bản thân vì chỉ là một tay thợ viết thuê. Roger là người đàn ông yếu đuối, không cam chịu, vỡ mộng, nhưng có thể hiểu được. Anh ấy chỉ là một người chồng. Paul hoặc có ý nghĩa nhiều hơn hoặc không là gì cả. Cuối cùng anh ấy đã không là gì cả.”
Tôi uống một ngụm. Spencer đã uống cạn ly. Ông cào cào lớp vải bọc sofa. Ông đã quên chồng giấy trước mặt, cuốn tiểu thuyết chưa kết thúc của một tác giả nổi tiếng đã đi qua điểm cuối cuộc đời.
“Tôi không bảo hắn chẳng ra gì,” tôi nói.
Cô ngước mắt nhìn tôi mơ hồ rồi lại cụp xuống.
“Còn dưới cả mức đó,” một gợn mỉa mai mới xuất hiện trong giọng nói của cô. “Paul biết cô ta là người như thế nào, anh vẫn cưới cô ta. Sau đó, bởi vì cô ta làm những chuyện anh ấy biết trước cô ta sẽ làm, anh ấy giết cô ta. Sau đó bỏ chạy và tự sát.”
“Hắn không giết cô ta,” tôi nói, “và cô biết điều đó.”
Cô ngồi thẳng lên bằng một cử động uyển chuyển và nhìn tôi chằm chằm trống rỗng. Spencer phát ra một âm thanh nào đó.
“Roger đã giết cô ta,” tôi nói, “và cô cũng biết điều đó.”
“Anh ấy kể với anh?” cô khẽ hỏi.
“Anh ta không cần phải kể. Anh ta đã cho tôi một vài gợi ý. Khi đến lúc anh ta sẽ nói với tôi hoặc ai đó. Không thể kể ra sự thật đã xâu xé anh ấy thành từng mảnh tan nát.”
Cô khẽ lắc đầu. “Không, ông Marlowe. Đó không phải là lý do tại sao anh ấy tự xé mình ra từng mảnh. Roger không biết mình đã giết cô ta. Anh ấy đã hoàn toàn mất trí nhớ. Anh biết có điều gì đó không ổn và anh đã cố gắng tìm tòi, nhưng anh không thể nhớ ra. Cú sốc đã phá hủy ký ức về sự việc đó. Có lẽ nó sẽ quay trở lại, và có lẽ trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời anh, nó đã quay trở lại. Nhưng trước đó thì không. Cho tới lúc đó thì không.”
Spencer nói như gầm gừ trong họng: “Chuyện đó không thể xảy ra, Eileen.”
“Ồ, có chứ,” tôi nói. “Tôi biết hai trường hợp đã xác định. Thứ nhất là một kẻ say đã giết cô gái mà gã vớ được trong quán rượu. Gã siết cổ cô ấy bằng chiếc khăn quàng cổ của chính nạn nhân với một cái ghim cài lạ mắt. Cô ấy về nhà với gã và không ai biết chuyện gì xảy ra, nhưng cô ấy đã chết và khi cảnh sát bắt được gã, gã đang đeo cái ghim cài lạ mắt trên cà vạt và không hề hay biết mình có nó từ đâu.”
“Không bao giờ nhớ ra?” Spencer hỏi. “Hay chỉ vào thời điểm đó?”
“Gã chưa bao giờ thừa nhận điều đó. Và gã không còn sống để điều tra nữa. Họ đã cho gã ngửi hơi ngạt. Trường hợp thứ hai là một vết thương ở đầu. Anh ta sống chung với một tay biến thái giàu có, loại người chuyên sưu tập những ấn bản đầu tiên, hưởng thụ những bữa ăn cầu kỳ và có một thư viện bí mật rất đắt tiền đằng sau một tấm ván trên tường. Hai người họ ẩu đả. Họ choảng nhau khắp nhà, từ phòng này sang phòng khác, nó chỉ còn là một đống xà bần và tay nhà giàu cuối cùng bị hạ đo ván. Khi họ bắt được kẻ sát nhân, anh ta có hàng chục vết bầm tím trên người và một ngón tay gãy. Tất cả những gì anh ta nhớ là mình bị đau đầu và không thể tìm được đường về Pasadena. Anh ta cứ đi lòng vòng rồi dừng lại hỏi đường ở cùng một trạm dịch vụ. Anh chàng ở trạm dịch vụ cho rằng anh ta bị điên và gọi cảnh sát. Khi anh ta vòng trở lại họ đã đợi sẵn.”
“Tôi không tin Roger đã làm thế,” Spencer nói. “Anh ấy không điên hơn tôi chút nào.”
“Anh ấy ngất đi khi say,” tôi nói.
“Tôi đã ở đó. Tôi đã chứng kiến anh ấy làm điều đó, Eileen bình tĩnh nói.
Tôi nhe răng cười với Spencer. Đó là một kiểu cười mở miệng, có lẽ không phải kiểu cười vui vẻ, nhưng tôi có thể cảm thấy khuôn mặt của mình đang nỗ lực hết sức.
“Cô ấy sẽ kể cho chúng ta nghe chuyện đó,” tôi nói với ông. “Cứ lắng nghe. Cô ấy sẽ nói hết với chúng ta. Bây giờ cô ấy không thể ngăn miệng mình được nữa.”
“Vâng, đó là sự thật,” cô nghiêm túc nói. “Có những điều không ai muốn nói ngay cả về kẻ thù của minh, nói về chống lại càng không. Và nếu tôi phải tự công khai trên bục nhân chứng, ông sẽ không thích đâu, Howard. Một tác gia tài năng, thành đạt, từng rất nổi tiếng và hái ra tiền của ông sẽ trở nên hạ đẳng. Có tiếng là nam thần của những câu chuyện tình, phải không? Trên văn vẻ, quả thực thế. Tên ngốc đáng thương đã nỗ lực để xứng đáng với cái danh đó biết chừng nào! Người đàn bà kia đối với anh ta không hơn gì một chiến lợi phẩm. Tôi đã theo dõi họ. Tôi lẽ ra phải thấy xấu hổ về hành động này. Người ta nói thế. Nhưng tôi không có gì để xấu hổ. Tôi đã chứng kiến toàn bộ cảnh tượng kinh tởm đó. Tình cờ ngôi nhà khách mà cô ta dùng cho các cuộc tình của mình là một nơi hẻo lánh xinh đẹp có gara riêng và lối vào nằm trên con phố nhỏ, một ngõ cụt rợp bóng cây. Đến một lúc nào đó, chuyện không thể tránh khỏi với những người như Roger, anh không còn là một người tình vừa ý nữa. Hơi quá chén. Anh muốn bỏ đi nhưng cô ta chạy theo, la hét và hoàn toàn trần truồng, vung vẩy một bức tượng nhỏ nào đó. Cô ta sử dụng những từ ngữ hạ lưu bẩn thỉu và đồi bại thấp kém tới mức tôi không thể mô tả. Sau đó, cô ta đánh anh bằng bức tượng nhỏ. Cả hai ông đều là đàn ông và các ông hẳn phải biết rằng không có gì khiến đàn ông choáng váng bằng việc nghe một người phụ nữ được cho là tinh tế sử dụng loại ngôn ngữ của cống rãnh và bồn tiểu công cộng. Anh ấy say, lên cơn bạo lực bất ngờ, và ngay lúc đó. Anh giằng bức tượng ra khỏi tay cô ta. Ông có thể đoán được phần còn lại.”
“Chắc là có rất nhiều máu,” tôi nói.
“Máu?” Cô cười cay đắng. “Ông nên nhìn thấy anh ấy khi về đến nhà. Khi tôi chạy ra xe, bỏ đi, anh ấy chỉ đứng đó nhìn xuống cô ta. Rồi anh cúi xuống bế cô ta lên và mang cô ta vào nhà khách. Khi đó tôi biết rằng cú sốc đã phần nào gõ anh ấy tỉnh. Anh ấy về nhà khoảng một tiếng đồng hồ sau. Anh ấy trầm mặc. Anh ấy chấn động khi nhìn thấy tôi đứng chờ. Nhưng lúc đó anh ấy không say. Anh ấy choáng váng. Máu văng trên mặt, trên tóc, khắp vạt trước áo khoác. Tôi đưa anh ấy vào nhà vệ sinh bên ngoài phòng làm việc và bắt anh cởi quần áo và lau sơ rồi đưa anh ấy lên lầu tắm. Tôi đặt anh ấy lên giường. Tôi lấy một chiếc va li cũ và đi xuống cầu thang, gom những bộ quần áo dính máu và cho vào va li. Tôi lau sạch bồn và sàn nhà, sau đó lấy khăn ướt và lau xe của anh ấy sạch sẽ. Tôi cất xe đi và đánh xe của tôi ra. Tôi đã lái đến hồ trữ nước Chatsworth và ông đoán tôi đã làm gì với chiếc va li đầy quần áo và khăn tắm dính máu.”
Cô ấy đã dừng lại. Spencer đang gãi vào lòng bàn tay trái của mình. Cô liếc nhanh sang ông rồi nói tiếp.
“Trong khi tôi đi vắng, anh ấy thức dậy và uống rất nhiều rượu whisky. Và sáng hôm sau không nhớ gì cả. Nghĩa là, anh ấy không nói một lời nào về chuyện đó hoặc làm như thể mình không có một ý niệm gì trong đầu ngoài cơn say. Tôi cũng không nói gì cả.”
“Anh ta chắc đã đi tìm quần áo,” tôi nói.
Cô gật đầu. “Tôi nghĩ cuối cùng anh ấy đã nghĩ tới... nhưng anh ấy không nói gì. Khoảng thời gian đó dường như tất cả chuyện xảy ra cùng một lúc. Báo chí đăng đầy tin, rồi Paul mất tích, rồi chết ở Mexico. Tôi làm sao có thể biết được chuyện đó sẽ xảy ra? Roger là chồng tôi. Anh đã làm một điều kinh khủng, nhưng cô ta là một phụ nữ kinh khủng. Và anh không biết mình làm gì. Sau đó, đột ngột như khi bắt đầu, các tờ báo không nhắc đến sự kiện ấy nữa. Cha của Linda hẳn phải có liên quan đến việc này. Roger đã đọc báo, tất nhiên, và anh đưa ra những nhận xét đúng như người ta mong đợi từ một người ngoài cuộc vô tội tình cờ quen biết những người trong cuộc.”
“Cô không sợ?” Spencer lặng lẽ hỏi cô.
“Tôi phát ốm vì sợ, Howard. Nếu anh ấy nhớ ra, có lẽ sẽ giết tôi. Anh ấy là một diễn viên giỏi, hầu hết các nhà văn đều như vậy, và có lẽ anh đã biết trước và chỉ chờ cơ hội. Nhưng tôi không thể chắc chắn. Anh có thể... chỉ có thể thôi... đã vĩnh viễn quên toàn bộ sự việc. Và Paul đã chết.”
“Nếu anh ta không bao giờ nhắc đến quần áo mà cô đã vứt xuống hồ nước, điều đó chứng tỏ anh ta đã nghi ngờ điều gì đó,” tôi nói. “Và hãy nhớ rằng, trong mẩu giấy để lại trong máy đánh chữ lần trước, lần anh ta nổ súng trên lầu và tôi chứng kiến cô giành lại khẩu súng từ tay chồng, anh ta nói rằng một người đàn ông tử tế đã chết vì mình.”
“Anh ấy nói thế à?” Đôi mắt cô hơi mở to.
“Anh ta đã viết như vậy trên máy đánh chữ. Tôi đã xé bỏ nó, theo như anh yêu cầu. Tôi cho rằng cô đã nhìn thấy.”
“Tôi chưa bao giờ đọc bất cứ thứ gì anh ấy viết trong phòng làm việc.”
“Cô đã đọc mảnh giấy chồng để lại khi Verringer đưa anh ta đi. Cô thậm chí đã đào bới sọt rác.”
“Chuyện đó khác” cô lạnh lùng nói. “Lúc đó tôi đang tìm manh mối về nơi anh ấy có thể đã ẩn náu.”
“Được rồi,” tôi nói, và ngả người ra sau. “Còn nữa không?”
Cô chậm rãi lắc đầu, với một nỗi buồn sâu sắc. “Tôi cho là không. Cuối cùng, buổi chiều anh ấy tự sát, có lẽ anh ấy đã nhớ ra. Chúng ta sẽ không bao giờ biết được. Liệu có ai muốn biết không?”
Spencer hắng giọng. “Marlowe phải đóng vai trò gì trong tất cả những chuyện này? Cô là người đưa ra ý tưởng mời anh ấy đến đây. Cô đã bàn với tôi về chuyện đó, cô biết đấy.”
“Tôi đã rất sợ hãi. Tôi sợ Roger và tôi sợ cho anh ấy. Ông Marlowe là bạn của Paul, gần như là người cuối cùng gặp anh ấy và biết anh ấy. Paul có thể đã nói với Marlowe điều gì đó. Tôi phải biết chắc. Nếu ông ấy nguy hiểm, tôi muốn ông ấy đứng về phía tôi. Nếu ông ấy tìm ra sự thật, có thể vẫn còn cách nào đó để cứu Roger.”
Đột nhiên và vì lý do gì tôi không thể hiểu được, Spencer trở nên gai góc. Ông rướn người về trước và bạnh hàm ra.
“Hãy để tôi nói rõ điều này, Eileen. Đây là vị thám tử tư không được lòng cảnh sát. Họ đã tống anh ấy vào tù. Họ cho rằng anh ấy đã giúp Paul, tôi gọi anh ta theo cách của cô, trốn đến Mexico. Nếu Paul là kẻ giết người, đó là một trọng tội. Vì vậy, nếu anh ấy tìm ra sự thật và có thể thanh minh cho mình, anh ấy sẽ chỉ khoanh tay đứng nhìn và không làm gì cả. Đó có phải là ý của cô không?”
“Tôi đã sợ hãi, Howard à. Ông không thể hiểu điều đó ư? Tôi đang sống cùng nhà với một kẻ giết người, có thể là một kẻ điên. Phần lớn thời gian tôi ở một mình với anh ấy.”
“Tôi hiểu điều đó,” Spencer nói, vẫn gai góc. “Nhưng Marlowe đã không nhận việc, và cô vẫn ở một mình. Sau đó, Roger nổ súng và trong một tuần sau đó, cô vẫn chỉ có một mình. Sau đó, Roger tự sát và rất tiện lợi là lúc đó Marlowe lại ở một mình.”
“Đó là sự thật,” cô nói. “Vậy thì sao? Tôi có thể làm được điều gì?”
“Được rồi,” Spencer nói. “Có khả năng cô nghĩ rằng Marlowe đã tìm ra sự thật và với lịch sử đã từng nổ súng một lần, chỉ cần anh ấy đưa nó cho Roger và nói điều gì đó đại loại, ‘Hãy nhìn xem, bạn già, anh là một kẻ giết người và tôi biết điều đó và vợ anh biết điều đó. Cô ấy là một phụ nữ tốt. Cô ấy đã chịu đựng đủ rồi. Chưa kể chồng của Sylvia Lennox. Tại sao không làm người tử tế và bóp cò đi, và mọi người sẽ cho rằng đó chỉ là một vụ say xỉn. Vì vậy, tôi sẽ đi dạo xuống bờ hồ và hút một điếu thuốc, bạn già. Chúc may mắn và tạm biệt. Ồ, súng đây. Nó đã được nạp đạn và dành riêng cho anh.’”
“Ông đang trở nên đáng sợ, Howard. Tôi không hề nghĩ đến bất cứ điều gì như vậy.”
“Cô nói với cảnh sát Marlowe đã giết Roger. Điều đó có nghĩa gì?”
Cô ấy nhìn thoáng qua tôi, với vẻ gần như ngượng ngùng. “Tôi thật tệ hại khi nói vậy. Tôi đã không biết mình đang nói gì.”
“Có lẽ cô cho rằng Marlowe đã bắn anh ta,” Spencer bình tĩnh gợi ý.
Mắt cô nheo lại. “Ồ không, Howard. Tại sao? Tại sao ông Marlowe lại làm vậy? Đó là một giả định quái gở.”
“Tại sao?” Spencer muốn biết. “Có gì quái gở về điều đó? Cảnh sát cũng có ý nghĩ tương tự. Và Candy đã gợi ý cho họ một động cơ. Cậu ta nói Marlowe đã ở trong phòng cô hai tiếng đồng hồ vào cái đêm Roger bắn một lỗ trên trần nhà, sau khi Roger đã được dỗ ngủ bằng thuốc.”
Cô đỏ mặt đến tận chân tóc. Cô ngây ngẩn nhìn ông ta.
“Và cô không mặc quần áo,” Spencer tàn nhẫn nói. “Đó là những gì Candy kể với họ.”
“Nhưng tại cuộc điều tra...” giọng cô bắt đầu vỡ ra. Spencer ngắt lời cô ấy.
“Cảnh sát không tin Candy. Vì vậy, cậu ấy đã không kể chuyện đó trong cuộc điều tra.”
“Ồ.” Một tiếng thở dài nhẹ nhõm.
“Còn nữa,” Spencer lạnh lùng tiếp tục, “cảnh sát nghi ngờ cô. Họ vẫn luôn nghi ngờ. Tất cả những gì họ cần là động cơ. Theo tôi nghĩ, có lẽ bây giờ họ sẽ tìm ra.”
Cô đứng bật dậy. “Tôi nghĩ tốt hơn là cả hai người nên rời khỏi nhà tôi,” cô giận dữ nói. “Càng sớm càng tốt.”
“Chà, cô đã làm, có hay không?” Spencer bình tĩnh hỏi, không nhúc nhích ngoại trừ đưa tay về phía cái ly của mình và thấy nó trống rỗng.
“Tôi đã làm hay không làm gì?”
“Bắn Roger?”
Cô đang đứng đó nhìn chằm chằm vào ông. Màu đỏ đã biến mất. Mặt cô ấy trắng bệch, căng thẳng và tức giận.
“Tôi chỉ bày ra cho cô những thứ mà cô sẽ nhận được tại tòa án.”
“Tôi ở bên ngoài. Tôi đã quên chìa khóa. Tôi phải bấm chuông để vào nhà. Anh ấy đã chết khi tôi về đến nhà. Tất cả những điều đó ai cũng biết. Thứ gì đang ám ông vậy, Chúa ơi?”
Ông lấy khăn tay ra và lau môi. “Eileen, tôi đã đến ngôi nhà này hai mươi lần rồi. Tôi chưa bao giờ biết rằng cửa trước phải được khóa vào ban ngày. Tôi không nói rằng cô đã bắn anh ấy. Tôi chỉ hỏi cô. Và đừng nói với tôi rằng điều đó là không thể. Như mọi chuyện đã diễn ra, việc đó thật dễ dàng.”
“Tôi đã bắn chính chồng mình?” cô hỏi chậm rãi và kinh ngạc.
“Giả sử,” Spencer nói với cùng một giọng thờ ơ, “rằng anh ấy là chồng cô. Cô vẫn đang có một người chồng khác khi cô kết hôn với anh ấy.”
“Cảm ơn, Howard. Cảm ơn rất nhiều. Cuốn sách cuối cùng của Roger, khúc hát thiên nga của anh ấy, đang ở trước mặt ông. Cầm lấy nó và đi đi. Và tôi nghĩ ông nên gọi cảnh sát và nói với họ những gì ông nghĩ. Nó sẽ là cái kết tuyệt đẹp cho tình bạn của chúng ta. Đẹp nhất. Tạm biệt, Howard. Tôi rất mệt mỏi và tôi bị đau đầu. Tôi sẽ về phòng nằm. Về phần ông Marlowe đây... và tôi cho rằng ông ấy đã xúi giục ông làm tất cả những chuyện này, tôi chỉ có thể nói với ông ấy rằng nếu ông ấy không giết Roger theo nghĩa đen, chắc chắn ông ấy đã đẩy chồng tôi vào chỗ chết.”
Cô xoay người bước đi. Tôi gay gắt: “Cô Wade, chờ một chút. Hãy hoàn tất việc này. Căm hận chẳng có ý nghĩa gì. Tất cả chúng ta đang cố gắng làm điều đúng đắn. Cái va li mà cô đã ném vào hồ trữ nước Chatsworth, nó có nặng không?”
Cô ấy quay lại và nhìn chằm chằm vào tôi. “Đó là một cái va li cũ, tôi đã nói. Vâng, nó rất nặng.”
“Cô làm thế nào vác nó qua hàng rào dây thép cao xung quanh hồ?”
“Cái gì? Hàng rào?” Cô ấy làm một cử chỉ bất lực. “Tôi cho rằng trong trường hợp khẩn cấp, con người có sức mạnh phi thường để làm những gì cần làm. Bằng cách này hay cách khác tôi đã làm được. Chỉ có thế.”
“Không có hàng rào nào cả,” tôi nói.
“Không có hàng rào?” Cô lặp lại đờ đẫn, như thể nó chẳng có ý nghĩa gì.
“Và không có vết máu nào trên quần áo của Roger. Và Sylvia Lennox không bị giết bên ngoài nhà khách, mà trên giường trong nhà. Và thực tế là không có máu, bởi vì cô ấy đã chết, bị bắn bằng súng, và khi bức tượng nhỏ đập nát bét mặt cô ấy, nó đập lên một người đã chết. Cô Wade, người chết chảy rất ít máu.”
Cô cong môi khinh bỉ. “Nói như ông đã có mặt ở đó,” cô cao ngạo nói.
Rồi cô bỏ lại bọn tôi.
Chúng tôi nhìn cô ấy đi. Cô chậm rãi đi lên cầu thang, cử động với vẻ tao nhã điềm tĩnh. Cô biến mất vào trong phòng và cánh cửa đóng lại nhẹ nhàng nhưng chắc chắn sau lưng cô. Im lặng.
“Cái hàng rào dây thép gai đó là chuyện gì?” Spencer hỏi tôi mơ hồ. Ông đang đung đưa đầu từ trước ra sau. Ông đỏ phừng phừng và đổ mồ hôi. Ông đã mạo hiểm đối đầu, nhưng việc đó không dễ dàng đối với ông.
“Chỉ là một trò đùa,” tôi nói. “Tôi chưa bao giờ đến gần hồ chứa Chatsworth để biết nó như thế nào. Có thể có hàng rào, có thể không.”
“Tôi hiểu,” ông nói vẻ không vui. “Nhưng vấn đề là cô ấy cũng không biết.”
“Dĩ nhiên là không. Cô ấy đã giết cả hai người bọn họ.”