← Quay lại trang sách

Chương 47

Ngày hôm sau chỉ trong khoảng thời gian ngắn, mọi chuyện trở nên sống động. Công tố viên quận Springer đã triệu tập một cuộc họp báo sớm và đưa ra tuyên bố. Ông cao lớn, hồng hào, tóc hoa râm, lông mày bạc sớm, là kiểu người luôn rất thành công trong lĩnh vực chính trị.

“Tôi đã đọc tài liệu được cho là lời thú tội của một người phụ nữ xui xẻo và bất hạnh mới tự kết liễu đời mình. Tài liệu này có thể xác thực hoặc không, nhưng nếu xác thực, thì rõ ràng là sản phẩm của một tâm trí cuồng loạn. Tôi sẵn sàng thừa nhận rằng Nhật báo đã xuất bản tài liệu này với thiện ý, mặc dù nó có nhiều điểm vô lý và mâu thuẫn, và những điều này tôi sẽ không kể ra đây để làm phiền lòng quý vị. Nếu Eileen Wade viết những lời này, và văn phòng của tôi cùng với dàn nhân viên của người phụ trợ đáng kính của tôi, cảnh sát trưởng Petersen, sẽ sớm xác định xem có phải là thư tay của cô ấy hay không, tôi cũng phải nói với quý vị rằng cô ấy đã không viết nó với một cái đầu tỉnh táo, hay một bàn tay ổn định. Chỉ mới vài tuần trước người phụ nữ bất hạnh đã phát hiện ra chồng mình đang tắm trong vũng máu của chính anh ta. Hãy tưởng tượng cú sốc, cơn tuyệt vọng, nỗi cô đơn tột cùng xảy ra sau một thảm họa quá đột ngột! Và giờ đây cô ấy đã đoàn tụ với chồng trong cay đắng của cái chết. Náo động tro cốt của người chết sẽ đem lại cái gì? Quý vị ơi, có được gì ngoài việc bán vài tờ báo đang rất cần lượng phát hành không? Không gì hết, các bạn của tôi, không gì hết. Chúng ta hãy để nó nằm lại đó. Giống như nàng Ophelia trong bi kịch vĩ đại mang tên Hamlet của William Shakespeare bất tử, Eileen Wade đã mang nỗi đau thương theo cách khác biệt. Những kẻ thù chính trị của tôi muốn lợi dụng khác biệt đó, nhưng bạn bè và cử tri của tôi sẽ không bị lừa dối. Họ biết rằng từ lâu văn phòng này ủng hộ cho hệ thống hành pháp khôn ngoan và thuần thục, cho công lý với lòng nhân từ, cho chính phủ vững chắc, ổn định và bảo thủ. Nhật báo ủng hộ điều gì tôi không rõ, và thứ mà nó ủng hộ tôi không có hứng thú quan tâm. Hãy để công chúng sáng suốt tự phán xét.”

Nhật báo đã in trò hề này trong ấn bản buổi sáng của nó (đó là một tờ báo hoạt động ngày đêm) và Henry Sherman, tổng biên tập, đã đập lại thẳng vào mặt Springer với một bài bình luận có chữ ký.

“Sáng nay, ông công tố viên quận Springer có phong độ thật tốt. Ông là một người đàn ông có hình thể đẹp và phát biểu bằng một giọng nam trung dày ấm rất nịnh tai. Ông không hề làm phiền chúng ta với việc liệt kê những sự thật. Bất cứ lúc nào ông Springer quan tâm đến việc chứng minh tính xác thực của tài liệu được đề cập, Nhật báo sẽ rất sẵn lòng tuân thủ. Chúng tôi không mong đợi ông Springer thực hiện bất kỳ hành động nào để mở lại các vụ án đã chính thức bị đóng với lệnh phê chuẩn hoặc dưới sự chỉ đạo của ông, cũng tương tự, chúng tôi không mong đợi ông Springer sẽ đứng chổng ngược trên tháp của tòa thị chính. Như ông Springer đã diễn đạt rất khéo léo, náo động tro cốt của người chết liệu có đem lại lợi ích gì? Hoặc, như Nhật báo muốn diễn đạt nó bằng một cách thiếu tao nhã hơn, có lợi ích gì khi tìm ra kẻ đã phạm tội sát nhân khi kẻ ấy đã chết? Dĩ nhiên, không gì hết ngoài công lý và sự thật.

Thay mặt William Shakespeare quá cố, Nhật báo muốn cảm ơn ông Springer vì đã ưu ái nhắc đến Hamlet, và vì phép ẩn dụ thích hợp đáng kể, mặc dù không chuẩn xác, với Ophelia. ‘Ta phải mang cành cửu lý hương với sự khác biệt’ không phải nói về Ophelia, mà là lời của nàng ấy, và điều nàng ngụ ý chưa bao giờ được thấu tỏ bởi những bộ óc kém uyên bác hơn của chúng ta [1] . Nhưng hãy bỏ qua lời đó. Nó nghe hay ho nhưng làm cho vấn đề càng rối rắm hơn. Có lẽ chúng tôi cũng được phép trích dẫn, cũng từ tác phẩm sân khấu đã được phê duyệt chính thức mang tên Hamlet, một lời nói hay đã tình cờ đến từ miệng một kẻ xấu: ‘Và ở nơi tội lỗi hãy để lưỡi rìu lớn rơi xuống.’”

Lonnie Morgan gọi cho tôi vào khoảng giữa trưa và hỏi tôi thích nó không. Tôi nói với anh rằng tôi không nghĩ nó sẽ gây hại gì cho Springer.

“Chỉ tác dụng với dân trí thức,” Lonnie Morgan nói, “và họ đã nắm được thóp của ông ta. Ý tôi là còn anh thì sao?”

“Không có chuyện gì với tôi cả. Tôi chỉ đang ngồi đây đợi một con hươu non dụi đầu vào mặt tôi.”

“Ý tôi không phải như vậy.”

“Tôi vẫn khỏe. Đừng hù dọa tôi nữa. Tôi có được những gì tôi muốn. Nếu Lennox còn sống, hắn có thể đi thẳng tới chỗ Springer và nhổ vào mặt ông ta.”

“Anh đã cho hắn điều đó. Và đến lúc này Springer cũng đã biết. Họ có hàng trăm cách để gài bẫy một kẻ mà họ không thích. Tôi không hiểu điều gì đã khiến anh thấy xứng đáng bỏ thời gian vào chuyện này. Lennox không phải là người đáng giá như vậy.”

“Chuyện đó thì liên quan gì?”

Anh im lặng một lát. Rồi anh nói: “Xin lỗi, Marlowe. Để tôi ngậm cái mồm to của tôi lại. Chúc may mắn.”

Chúng tôi gác máy sau những lời chào xã giao.

Khoảng hai giờ chiều, Linda Loring gọi cho tôi. “Không nhắc tên, xin vui lòng,” cô nói. “Tôi vừa bay đến từ cái hồ lớn ở phía bắc. Có người ở trên đó đang sôi sục vì chuyện gì đó được đăng trên tờ Nhật báo tối qua. Đức ông chồng gần như cũ của tôi đã nhận được một quả thụi ngay giữa hai mắt. Người đàn ông tội nghiệp còn đang khóc khi tôi rời đi. Anh ta đã bay lên đó để báo cáo.”

“Ý cô là gì, gần như là chồng cũ?”

“Đừng giả ngu. Chỉ một lần này thôi, cha chấp thuận. Paris là một nơi ly hôn tuyệt vời yên tĩnh. Vì vậy, tôi sẽ sớm đi đến đó. Và nếu anh còn chút khôn ngoan nào, anh có thể trích một phần cái bức tranh khắc lộng lẫy mà anh đã khoe với tôi để chuồn đi đâu đó thật xa.”

“Chuyện này liên quan gì đến tôi?”

“Đó là câu hỏi ngu ngốc thứ hai mà anh đã hỏi. Anh không lừa được ai ngoài chính bản thân, Marlowe. Anh có biết họ săn hổ như thế nào không?”

“Làm sao tôi biết?”

“Họ buộc một con dê vào cọc rồi rình trong chỗ kín. Thường chuyện này không vui vẻ gì đối với con dê. Tôi thích anh. Tôi chắc chắn không biết vì sao, nhưng tôi thích. Tôi không vui khi nghĩ anh trở thành con dê. Anh đã rất cố gắng làm điều đúng đắn, theo quan điểm của anh.”

“Cô thật tử tế,” tôi nói. “Nếu tôi thò cổ ra và bị chặt, thì đó vẫn là cổ của tôi.”

“Đừng có làm anh hùng, đồ ngốc,” cô nói gay gắt. “Chỉ vì một người mà chúng ta biết đã lựa chọn trở thành kẻ thế tội, anh không cần phải bắt chước anh ta.”

“Tôi sẽ mời cô một ly nếu cô ghé đây đủ lâu.”

“Hãy mời tôi một ly ở Paris. Paris đẹp đẽ vào mùa thu.”

“Tôi cũng muốn làm điều đó. Tôi nghe nói nó thậm chí còn đẹp hơn vào mùa xuân. Chưa từng đến đó nên tôi không biết.”

“Với những việc anh đang làm anh sẽ không bao giờ tới được đó.”

“Tạm biệt, Linda. Tôi hy vọng cô tìm thấy những gì cô muốn.”

“Tạm biệt,” cô lạnh lùng nói. “Tôi luôn tìm thấy những gì tôi muốn. Nhưng khi tôi tìm thấy nó, tôi không muốn nó nữa.”

Cô cúp máy. Phần còn lại của ngày là một khoảng hư không. Tôi ăn tối và để chiếc Olds ở một xưởng xe qua đêm để kiểm tra má phanh. Tôi bắt taxi về nhà. Đường phố vắng vẻ như thường lệ. Trong hộp thư bằng gỗ là một phiếu xà phòng miễn phí. Tôi chậm rãi leo lên những bậc thang. Đó là một đêm mềm mại với chút sương mù trong không trung. Cây cối trên đồi hầu như không nhúc nhích. Lặng gió. Tôi mở khóa và đẩy cửa mở nửa chừng rồi dừng lại. Cánh cửa mở hé khoảng hai mươi phân. Bên trong tối om, không một tiếng động. Nhưng tôi có cảm giác căn phòng bên trong không trống rỗng. Có lẽ một chiếc lò xo khẽ thì thào hoặc tôi bắt gặp ánh nhàn nhạt của một chiếc áo khoác trắng cuối căn phòng. Có lẽ trong một đêm tĩnh mịch ấm áp như thế này, căn phòng bên kia cánh cửa không đủ ấm, không đủ tĩnh lặng. Có lẽ có mùi đàn ông phảng phất trong không khí. Và có lẽ tôi hơi chột dạ.

Tôi bước sang bên khỏi hiên nhà xuống mặt đất và chúi người vào bụi cây. Không có chuyện gì xảy ra. Không có ánh sáng bên trong, không có bất cứ chuyển động nào mà tôi nghe được. Tôi có một khẩu súng trong bao súng ở thắt lưng bên trái, hướng về trước, một khẩu Police 38 nòng ngắn. Tôi giật nó ra và nó chẳng dẫn đến điều gì. Im lặng kéo dài. Tôi khẳng định mình là thằng ngốc chết tiệt. Tôi đứng thẳng dậy và nhấc một chân để quay trở lại cửa trước, rồi một chiếc xe rẽ vào góc phố và phóng nhanh lên đồi và dừng lại gần như không một tiếng động dưới chân bậc thềm nhà tôi. Đó là chiếc sedan lớn màu đen với những đường nét của một chiếc Cadillac. Có thể là xe của Linda Loring, ngoại trừ hai điều. Không ai mở cửa xuống xe và các cửa sổ hướng về phía tôi đều đóng chặt. Tôi chờ đợi và lắng nghe, thu mình vào bụi cây, nhưng không có gì để lắng nghe và không có gì để chờ đợi. Chỉ là một chiếc xe sẫm màu nằm bất động ở chân bậc thang gỗ đỏ, cửa sổ đóng kín. Nếu động cơ của nó vẫn chạy, tôi không thể nghe thấy nó. Sau đó, một chiếc đèn pha lớn màu đỏ bật lên và chùm sáng quét cách góc nhà khoảng hai mươi bước. Và rất từ từ chiếc xe lớn lùi lại cho đến khi chùm sáng có thể quét ngang mặt trước ngôi nhà, qua mui xe và lên trên.

Cớm không chạy xe Cadillac. Cadillac với đèn pha màu đỏ thuộc về những nhân vật lớn, thị trưởng và ủy viên cảnh sát, có thể là công tố viên quận. Có thể trùm xã hội đen.

Ánh đèn pha lướt qua. Tôi đã nằm rạp xuống, nhưng nó vẫn nhìn thấy tôi. Nó bám lên tôi. Không có gì khác. Cửa xe vẫn không mở, trong nhà vẫn tĩnh lặng không một ánh đèn.

Sau đó, một tiếng còi báo động gầm gừ trầm đục chỉ trong một hai giây rồi dừng lại. Cuối cùng ngôi nhà bật sáng ánh đèn và một người đàn ông mặc áo khoác dạ hội màu trắng bước ra đầu bậc thềm và nhìn nghiêng dọc theo bức tường và bụi cây.

“Vào đi, đồ rẻ tiền,” Menendez cười khúc khích. “Anh có khách ghé thăm.”

Tôi đã có thể bắn hắn mà không khó khăn gì. Sau đó, hắn lùi lại và đã quá muộn, cho dù tôi đã có thể làm được. Sau đó, một cửa sổ phía sau xe cuộn xuống và tôi có thể nghe thấy tiếng thịch khi nó mở ra. Sau đó, một khẩu súng máy khai hỏa và bắn một phát ngắn vào bờ dốc cách tôi ba mươi bước.

“Vào đi, đồ rẻ tiền,” Menendez lại nói từ ngưỡng cửa. “Không còn nơi nào khác để đi.”

Vì vậy, tôi đứng thẳng dậy và ánh đèn pha di chuyển chính xác theo tôi. Tôi cất khẩu súng trở lại bao súng ở thắt lưng. Tôi bước lên thềm nhỏ bằng gỗ đỏ, vào cửa và dừng lại ngay bên trong. Một người đàn ông đang ngồi đối diện ở đầu kia căn phòng, hai chân bắt tréo và một khẩu súng nằm ngang trên đùi. Anh ta trông rắn rỏi và dẻo dai, và làn da có vẻ khô ráp của những người sống ở vùng khí hậu bị ánh nắng thiêu cháy. Anh ta mặc chiếc áo gió gabardine màu nâu sẫm và khóa kéo mở gần đến thắt lưng. Anh ta đang nhìn tôi và cả mắt cũng như khẩu súng đều không di chuyển. Anh ta bình thản như một bức tường gạch phơi dưới ánh trăng.

Ophelia tặng hoa cửu lý hương cho hoàng hậu Gertrude và giữ lại một ít cho mình. Cửu lý hương là loài hoa mang hai biểu tượng, của sự ăn năn - cho Gertrude, và nỗi lòng cay đắng - cho Ophelia. Vì vậy mà có “sự khác biệt”. (ND)