← Quay lại trang sách

Chương 1 (tt) THÁNG MƯỜI 1983

Bruno Morenz gõ cửa và bước vào khi nghe thấy lời mời vui vẻ “Herein." Sếp của ông ta có một mình trong phòng, trên chiếc ghế xoay bọc da bề thế đặt sau chiếc bàn bề thế. Sếp đang khéo léo khuây tách cà phê thứ nhất trong ngày, chiếc tách cô Trung Hoa do Fraulein Keppen, một cô gái già ngăn nắp, mang đến.

Cũng giống Morenz, Herr Direktor thuộc về cái thế hệ vẫn còn đầy ắp những kỷ niệm chiến tranh và những năm sau đó, khi mà người Đức phải uống bột rau diếp xoăn thay cho cà phê. Mới ngày nào... Giờ Dieter Aust thưởng thức vị cà phê Columbia trong không khí ban mai. Ông ta không mời Morenz.

Cả hai đều khoảng năm chục tuổi, nhưng sự giống nhau giữa họ chỉ đến thế là hết. Aust thấp, tròn trĩnh, đầu tóc, quần áo không chê vào đâu được và là giám đốc Trạm Cologne. Morenz cao hơn, vạm vỡ, tóc bạc nhưng hơi còng và đi chân hơi kéo lê, trông lùn đi và luộm thuộm trong bộ đồ rộng vải tuýt. Ông ta thuộc ngạch viên chức dân sự cấp thấp, không bao giờ dám mơ đến chức giám đốc và cũng như một phòng làm việc quan trọng, với Fraulein Keppel mang cà phê Columbia đến trong cái tách cổ Trung Hoa vào đầu giờ làm việc mỗi ngày.

Cái màn chỉ huy triệu tập nhân viên của mình lên làm việc có lẽ diễn ra ở khối nơi trên nước Đức trong buổi sáng hôm ấy, nhưng lĩnh vực công việc của họ thì không mấy nơi giống, cả câu chuyện mà họ nói với nhau nữa. Bởi Dieter Aust là giám đốc trạm tiền tiêu của cơ quan gián điệp Tây Đúc, BND mà trụ sở của nó được đặt ở khu đất tường rào kín đáo cạnh làng Pullach, cách Munich chừng sáu dặm về phía Nam, ngay trên sông Isar ỏ miền nam Bavaria. Dường như đó là một sự lựa chọn kỳ quặc nếu nhớ rằng thủ đô của Tây Đức là Bonn kể từ năm 1949, ở cách xa đó hàng trăm dặm dọc theo sông Rhine. Thực ra là có lý do lịch sử của nó. Chính người Mỹ, ngay sau chiến tranh đã xây dựng cơ quan gián điệp Tây Đức này để chống lại những cố gắng của một kẻ địch mới - Liên Xô. Chỉ huy cơ quan này là Reinhard Gehlen, cựu giám đốc tình báo Đức hồi còn chiến tranh. Người Mỹ muốn Gehlen phải nằm trong vùng chiếm đóng của họ, đó chính là Bavaria và vùng phía nam Đức.

Thị trưởng Cologne, Konrad Adenauer lúc đó còn là nhà chính trị mờ nhạt. Năm 1949, khi đồng minh thành lập Cộng hòa Liên bang Đức, Adenauer, lúc này là Thủ tướng, đã chọn thủ đô ở một nơi không ai nghĩ đến là Bonn, quê hương ông, ở cách Cologne 15 dặm dọc sông Rhine. Hầu hết các cơ quan của Liên bang đều được khuyên khích thành lập ở đó nhưng Gehlen vẫn ở lại Pullach với cái tên mới BND, và duy trì các trạm tiền tiêu ở mỗi vùng, mỗi thủ phủ, mỗi tỉnh của Liên bang. Một trong những trạm tiền tiêu quan trọng nhất là Cologne, mặc dầu nó không phải là thủ phủ của vùng Bắc Rhine Westphalia này, nhưng nó lại gần với Bonn hơn. Vả lại ở đó đầy những người ngoại quốc mà BND thì gắn bó rất chặt chẽ với tình báo nước ngoài.

Morenz được Aust mời ngồi, lo lắng tự hỏi đã phạm sai lầm gì. Chắc là không, không sai gì cả.

“Morenz thân mến, tôi cũng chẳng giấu gì ông.” Aust cảnh vẻ lau miệng bằng chiếc khăn tay sạch sẽ. ‘‘Tuần sau, đồng nghiệp Dorn của chúng ta sẽ về hưu. Công việc của ông ta sẽ do người kế tục đảm nhiệm. Nhưng anh ta còn quá trẻ, mà đó lại là một nhiệm vụ đòi hỏi phải có người giàu kinh nghiệm. Tôi muốn ông đảm nhận nó.”

Morenz gật gật đầu ra vẻ hiểu nhưng thực ra chẳng hiểu gì hết. Aust chụm những ngón tay mập mạp lại, mắt nhìn ra cửa sổ, cẩn thận lựa lời.

“Đôi khi khách đến thành phố chúng ta, những khách quý nước ngoài, sau một ngày bận rộn, họ có nhu cầu, nghỉ ngơi... giải trí. Dĩ nhiên là chúng ta sẽ rất vui mừng được thu xếp những nhà hàng sang trọng, những buổi trình diễn nghệ thuật, hòa nhạc... để phục vụ. Ông hiểu chứ?”

Morenz lại gật đầu. Vẫn tối mù mù.

“Bất hạnh là có vài vị, thường là ở các nước Arab hay châu Phi, đôi khi cũng có châu Âu, lại kiên quyết đòi phải có bạn gái cho họ. Bạn gái kiểu trả tiền ấy.”

“Gái gọi.” Morenz lẩm bẩm.

“Phải rồi, họ gọi thế đấy. Nhưng không thể để cho các vị khách quan trọng đó lại phải nhờ bọn lái xe hoặc bồi khách sạn làm việc đó, hay tự đi săn những cái cửa sổ treo đèn đỏ ở phố Horn, hoặc dấn thân vào các bar, các câu lạc bộ được. Chính phủ muốn phải có một số điện thoại nào đó cho công việc ấy. Hãy tin tôi, Morenz thân mến, các thủ đô trên thế giới người ta đều làm thế cả.”

“Cơ quan ta sẽ điều hành bọn gái gọi?” Morenz hỏi.

Aust tỏ vẻ phật ý. “Điều hành? Nhất định không rồi, cũng không trả lương cho chúng. Khách hàng sẽ làm điều ấy, Không, chúng ta không sử dụng bất cứ tài liệu nào mà ta có liên quan đến thói quen của những nhà lãnh đạo đến thăm nước ta. Cái gọi là bẫy ruồi ấy. Luật pháp và qui định ở nước ta là rất rõ ràng và không thể vi phạm được. Ta sẽ để dành bẫy ruồi cho người nào “đòi hỏi” nó thôi.”

Ông ta lấy ba tập tài liệu mỏng trao cho Morenz.

“Đây là ba cô. Ba típ khác nhau. Tôi muốn ông nắm việc này bởi ông là người có gia đình, ông chín chắn. Hãy để mắt đến chúng, giám sát như kiểu cha chú ấy. Chăm lo y tế thường xuyên, sửa sang cho chúng coi được. Canh chừng chuyện chúng đi đâu, hay ốm đau, hay nghỉ việc. Ngắn gọn là xem lúc nào chúng sẵn sàng.

“Còn đây là vấn đề cuối. Có thể thỉnh thoảng một ngài Jakobsen nào đó sẽ gọi điện thoại cho ông. Cho dù trong điện thoại có giọng ai đi nữa thì đó vẫn là ngài Jakobsen. Tùy theo khẩu vị của khách, cái đó Jakobsen sẽ thông báo, hãy chọn một trong ba cô, lên thời gian biểu và phải bảo đảm rằng cô ta đã sẵn sàng. Jakobsen sẽ phôn lại cho ông thời gian và địa điểm đã thỏa thuận với khách. Sau rồi để mặc cô gái với khách hàng của cô ta. Cũng chẳng phải việc nặng nhọc lắm đâu, thật đấy. Chắc nó cũng sẽ không cản trở các công việc khác của ông.”

Morenz ì ạch đứng dậy với các tập hồ sơ trong tay. Tuyệt thật, ông nghĩ trong khi đi ra. Ba mươi năm phục vụ trung thành, năm năm nữa sẽ nghỉ hưu, giờ lại phải đi làm vú em cho bọn nước ngoài động cỡn.

“Này, ngắn gọn thế này nhé, Sam,” Timothy Edwards nói hai hôm sau, “là không. Chúng ta không thể kiếm đâu ra một dãy căn hộ ở California. Tôi biết là khó rồi, nhưng vẫn trình qua Sếp và bọn cầm tiền. Và câu trả lời là món quà đó quá sang đối với chúng ta.”

“Nhưng tin của hắn thì vô giá.” McCready phản đối. “Thằng cha này còn quý hơn vàng.”

“Đừng tranh luận nữa.” Edwards nhẹ nhàng nói. Anh ta trẻ hơn McCready đến cả chục tuổi, đầy tham vọng, gia đình có thế lực và giàu có. Mới ngoài ba mươi, anh ta đã là trợ lý của Sếp. Hầu hết mọi người vào tuổi ấy thì làm trưởng một trạm nước ngoài đã là may lắm, được làm trưởng một Ban thì quá là hạnh phúc. Còn Edwards lại đang ở ngay dưới cấp chóp bu.

“Coi này,” anh ta nói, “Sếp đã đến Washington, và đã đề cập đến người của anh. Các ông anh của chúng ta từ trước đến giờ vẫn luôn được chia sẻ tin của hắn. Họ rất hài lòng. Và bây giờ, có lẽ họ rất sung sướng tiếp nhận hắn.”

“Hắn là kẻ tính tình khó chịu lắm đấy. Hắn chỉ biết tôi. Có lẽ hắn không chịu làm việc với ai khác nữa đâu.”

“Thôi nào, Sam. Chính anh là người đầu tiên nhận xét hắn là kẻ hám lợi, đâu có tiền là hắn theo. Còn chúng ta sẽ được chia sẻ tin tức, liệu bàn giao hắn cho êm thấm.”

Anh ta nở nụ cười mãn nguyện. “Nhân tiện, Sếp muốn gặp anh đấy. Sáng mai, 10 giờ. Cũng chẳng vi phạm nguyên tắc lắm nếu tôi nói ông ấy đang định cho anh lên một bậc, Sam. Hãy chuẩn bị tinh thần. Đôi khi sự thể lại diễn biến quá cả mong đợi. Việc tiếp xúc với Otto sẽ ngày một khó hơn cho anh, rồi anh lại đang phụ trách vấn đề Đông Đức trong một giai đoạn khủng khiếp kéo dài. Ấy thế mà các ông anh lại nhảy vào giải quyết giùm, còn anh thì được lên một chức xứng đáng - Trưởng Ban, có lẽ thế.”

‘‘Tôi là một điệp viên nằm vùng.” McCready nói.

“Sao anh không đợi nghe Sếp nói gì trước đã?”

Hai tư giờ sau, McCready được phong Trưởng ban Dee - Dee. CIA tiếp nhận điều hành và trả tiền cho Otto.

Tháng Tám năm đó ở Cologne nóng phát ngột. Tất cả mọi người có tiền đều cho vợ con đi tránh nóng ở vùng hồ, vùng biển hay núi rừng, rồi chính họ cũng phải bỏ thành phố đi theo. Nhưng Bruno Morenz thì chẳng nghĩ ngợi gì cả. Ông ta cứ hùng hục với công việc. Lương thì không bao nhiêu và chẳng có vẻ gì sẽ tăng cả, bởi vì chỉ còn ba năm nữa ông sẽ về hưu vào tuổi năm nhăm, mà việc thăng chức lại cực kỳ là xa vời.

Ông ngồi trong quán ngoài trời và uống bia hơi trong vại lớn, không cà vạt, áo ngoài vất lên lưng ghế, gục đầu trên vại bia và đôi lúc lại còn đưa bàn tay lên thọc vào mái tóc bạc rậm rì cho đến khi rối bù cả lên. Ở tuổi năm hai, con cái đã trưởng thành, Morenz ngồi buồn rầu nhìn người qua lại trên đường. Có lẽ ông cũng không biết mình bị mắc một chứng bệnh mà người Đức gọi là Turschlusspanik. Đó là một từ không hề có ở bất kỳ một ngôn ngữ nào khác nhưng nó có nghĩa là chứng sợ hãi khi đóng kín cửa.

Đằng sau vẻ ngoài một ông bệ vệ, nhã nhặn, chăm chỉ với công việc, tháng tháng lĩnh đồng lương khiêm tốn và mỗi ngày đều trở về nhà sum họp gia đình sau giờ làm việc, Bruno Morenz là một con người bất hạnh sâu sắc.

Ông bị khóa chặt vào cuộc hôn nhân không tình yêu với Irmtraut, một người đàn bà ngu ngốc, tròn như củ khoai mà năm tháng trôi qua đã chán đến mức không còn thiết phàn nàn về đồng lương eo hẹp và chẳng thấy thăng tiến gì của chồng, về công việc của ông, bà ta chỉ biệt sơ sơ rằng ông đang làm việc cho một cơ quan chính phủ, đâu như là cơ quan dân sự, và thế là hết. Nếu ông có đầu bù tóc rối, ăn mặc luộm thuộm thì cũng bởi một phần bà đã chẳng thèm chăm chút đến ông nữa, mà chỉ còn thu xếp cho căn hộ nhỏ của họ ở một phố tầm thường nơi ngoại ô Porz trông có vẻ tàm tạm, và cho chồng một bữa ăn tối, mười phút sau khi ông về đến nhà, nhiều khi nguội ngắt.

Cô con gái Ute thì đã quay lưng lại với bố mẹ ngay từ khi học hết phổ thông. Nó ủng hộ những lý tưởng cánh tả nào đó (vì chuyện này mà ông đã bị thẩm vấn ở cơ quan) và hiện đang sống bầy đoàn ở Dusseldorf với bọn hippy, Bruno không thể biết câu chụyện sẽ đi đến đâu. Còn ông con Lutz thì vẫn ở nhà, ngồi cả ngày trước TV. Một thằng nhóc mặt đầy trứng cá, trượt tất cả các kỳ thi, bất mãn với nền giáo dục và với cả xã hội, thể hiện bằng sự ăn mặc lố lăng và kiểu cách côn đồ nhưng lại vội vã từ chối tất cả các công việc mà xã hội rộng lòng trao cho nó.

Bruno đã gắng sức. Đúng vậy, ông nghĩ mình đã gắng sức. Làm việc quần quật, đóng thuế, chu cấp đầy đủ cho gia đình và còn dành dụm được đôi chút. Ba năm nữa thôi - ba mươi sáu tháng chứ mấy - ông sẽ về nghỉ. Thế nào cũng có bữa chia tay nho nhỏ. Aust sẽ nói vài lời, họ sẽ cụng ly, thứ rượu vang sủi tăm. Là xong. Rồi sao? Ông sẽ có lương hưu cùng tiền tiết kiệm từ những việc khác mà ông đã cẩn thận gửi vào các tài khoản nho nhỏ dưới những tên giả ở ngân hàng khắp nước Đức. Khoản đó đủ lớn, hơn bất kỳ ai có thể nghĩ đến hoặc ngờ đến, đủ để mua một nhà nghỉ và làm cái điều ông thực sự muốn...

Ẩn sau vẻ nhã nhặn của mình, Bruno Morenz cũng là người kín miệng, chẳng bao giờ hé môi cho Aust hoặc bất kỳ ai biết những việc khác ông làm. Đó là điều cấm kỵ, có thể ra tòa lập tức. Ông cũng không nói gì với vợ về nó, hay về khoản tiết kiệm bí mật của mình. Nhưng đó thực ra cũng chưa phải vấn đề chính của ông. Ông biết thế.

Chính là, ông muốn được tự do. Ông muốn làm lại đời mình từ đầu, và dường như ông biết phải làm thế nào. Bởi vì Bruno Morenz, vào tuổi ngũ tuần, đã trót yêu. Thật ngược đời. Yêu! Và yêu mê mệt nữa. Renate, một Renate trẻ trung, yêu kiều, bốc lửa và yêu ông nồng nàn, như ông yêu nàng. Vậy là ở quán bia chiều hè đó, Bruno cuối cùng đã quyết chí. Ông sẽ bỏ vợ, sau khi chu cấp đầy đủ, sẽ xin nghỉ hưu sớm, và đưa nàng đi, cùng ông, tới ngôi nhà đẹp như mơ tận bên bờ biển phương Bắc, quê ông.

Thực ra, vấn đề của Morenz không phải là cái ông đang đối mặt, mà chính là ông đang bị đắm chìm trong nó - đó là cơn khủng hoảng thực sự vào lúc nửa đời người- điều mà chính ông chẳng nhận ra, bởi ông không nhìn nhận nó - và cũng bởi ông là kẻ đạo đức giả thâm căn cố đế nên cũng chẳng còn ai khác nhận ra điều đó nữa.

Renate Heimendorf hai sáu tuổi, cao mét bảy, nước da rám nắng. Vào tuổi mười tám ả đã là gái bao của một nhà buôn giàu có, gấp ba tuổi ả. Mối quan hệ kết thúc năm năm sau, khi ông già đột quỵ, có lẽ vì quá tải với những đồ ăn thức uống, xì gà và cả Renate nữa. Ông ta vì khinh suất mà quên thêm vào di chúc một khoản cho ả, khiến bà vợ góa đầy thù hằn của ông ta sướng điên lên.

Cô nàng gắng sức bóc đồ đạc trong tổ ấm tình yêu trang bị đắt tiền của họ, cùng những đồ trang sức được tặng mấy năm qua, đem bán đi, gỡ được kha khá.

Nhưng ngần ấy thì làm sao mà đủ để về hưu, để tiếp tục lối sống sang trọng đã trở nên quen thuộc (và chưa bao giờ có ý định từ bỏ nó) để theo đuổi nghề thư ký với đồng lương chết đói. Ả bèn quyết định làm doanh nghiệp. Đã thành thạo với việc moi tiền các ông lớn tuổi, béo ị và giàu có, ả làm gì còn có nghề gì khác mà chọn lựa.

Ả thuê dài hạn căn hộ ở khu Hahnwald, một khu yên tĩnh và sang trọng thuộc vùng ngoại ô cây lá âm u của Cologne. Ngôi nhà bốn tầng, mỗi tầng là một căn hộ. Ả ở tầng hai. Sau khi chuyển đến, ả sửa sang lại cho tươm tất.

Căn hộ có một phòng khách, bếp, phòng tắm và hai phòng ngủ. Nó còn có một phòng xép ngay cửa ra vào, và hành lang. Phòng khách ở bên trái phòng xép. Phía bên kia phòng xép là hành lang, ngay một đầu là phòng ngủ, rồi đến phòng tắm. Phòng ngủ rộng hơn lại ở cuối hành lang, hóa ra phòng tắm nằm giữa hai phòng ngủ. Ngay trước phòng ngủ lớn là tủ áo khoác rộng khoảng hai mét được làm chìm vào tường, tận dụng một phần phòng tắm.

Ả ngủ ở phòng nhỏ, dùng phòng lớn làm văn phòng, với tường bọc cách âm, trong lót li e, ngoài dán giấy trang trí, cửa kính hai lớp... Khó lòng có tiếng động nào thoát nổi ra ngoài để cho xóm giềng thắc mắc. Căn phòng đó luôn luôn khóa chặt. Cái tủ áo ở hành lang chỉ chứa quần áo mùa đông thông thường và áo mưa. Các tủ khác trong

văn phòng thì chứa hàng dãy đồ lót cầu kỳ, những bộ đồ dành cho đủ hạng người từ nữ sinh, cô hầu, cô dâu, cho đến vú em, bảo mẫu, nhân viên nhà nước, cô giáo, tiếp viên hàng không, cảnh sát, Nazi Bund Madchen [1] đội trưởng Scout cùng bộ yên cương ngựa thông thường bằng da và PVC, ủng dài, áo choàng không tay và mặt nạ...

Cái tủ có ngăn kéo thì đựng số ít hơn các kiểu quần áo dành cho khách hàng, những người không mang gì theo mình, chẳng hạn kiểu đội viên Scout, học sinh, hay trang phục nô lệ La Mã. Trong góc là ghế nhục hình, rồi cùm, một cái hòm đựng xích, khóa, dây da và roi ngựa dùng trong các màn nô lệ và trừng phạt cho kẻ ưa trò bạo dâm.

Ả hành nghề' điếm, và khá thành đạt. Đa số khách hàng của ả thường xuyên trở lại. Có chút nghệ sĩ trong mình - tất cả bọn điếm đều có một phần nghệ sĩ - ả hoàn toàn chinh phục được khách hàng trong sự phóng túng đầy ham muốn của họ. Song phần khác của tâm trí ả lại rất tỉnh táo - luôn luôn quan sát, nhận xét, khinh miệt. Nghề nghiệp chẳng tác động được đến ả. Khẩu vị ả hoàn toàn khác. Ả đã hành nghề ba năm và định làm hai năm nữa là thôi, thu dọn đàng hoàng rồi tìm một nơi xa xôi để sống xa hoa với những món đầu tư của mình.

Hôm đó, có chuông gọi cửa. Mãi ả mới cau mày đứng dậy, sơ sài tấm áo choàng mặc nhà. Khách hàng thì bao giờ cũng hẹn trước. Nhìn qua lỗ nhòm ở cửa, ả thấy, hệt như trong bể cá, mớ tóc bạc của Morenz, người chăm nom cho ả ở Bộ Ngoại giao. Ả thở dài, nặn ra nụ cười đón chào trên khuôn mặt xinh đẹp, mở cửa. “Bruno, anh yêu...”

Chú thích:

[1] Tiếng Đức trong nguyên bản: Tổ chức của nữ thanh niên Đức.