← Quay lại trang sách

Chương 1 (tt)

Hai hôm sau, Timothy Edwards đưa Sam McCready tới ăn trưa tại câu lạc bộ Brooks ở St. James, London. Trong số vài câu lạc bộ dành cho những người sang trọng mà Edwards là hội viên, Brooks là nơi anh ta ưa đến dùng bửa trưa nhất. Thế nào chả có dịp để trao đổi vài lời nhã nhặn với Robert Amstrong, Bộ trưởng Nội các, có thể là có thế lực nhất nước Anh, và nhất định là trùm của nhóm Năm Triết nhân, những người sẽ có ngày lựa chọn sếp mới của SIS cho Thủ tướng bổ nhiệm.

Uống xong cà phê trong thư viện, dưới những chân dung của nhóm tài tử Regency, Edwards tiếp tục.

“Tôi đã nói lúc nãy, rằng mọi người rất hài lòng. Nhưng giờ là thời đại mới rồi, Sam, thời đại mà nét chủ đạo sẽ là làm đúng sách. Những cung cách cũ, cái trò bẻ cong luật lệ thì phải... nói thế nào nhỉ... phải dè dặt...”

“Dè dặt là một từ hay đấy.” Sam mỉm cười.

“Tốt lắm. Thế này nhé, theo những báo cáo thì hiện anh đang duy trì, mà còn ở chế độ đặc biệt, những điệp viên đã thực sự quá thời. Bạn cũ, chắc thế. Không thành vấn đề nếu họ không ở những vị thế tế nhị... hoặc việc chủ của họ phát hiện họ không gây ra chuyện gì cho Hãng.”

“Có chuyện gì nhỉ?” Sam tự hỏi. Thật phiền phức với các báo cáo nhưng làm sao tránh được. Một khi anh trả tiền cho ai đó để chạy một việc vặt, lập tức một báo cáo chi tiêu được lưu trữ. Edwards buông rơi cái mặt nạ lơ đăng.

“Chuyện Yêu Tinh đó! Sam, không hiểu vì sao anh lại bỏ qua lâu vậy? Yêu Tinh là nhân viên chính thức của BND. Tất cả sẽ đổ bể một cách tồi tệ nhất nếu Pullach phát hiện hắn vẫn làm việc ngoài giờ cho anh. Điều đó trái ngược với mọi luật lệ. Chúng ta không, tôi nhắc lại, không được sử dụng nhân viên của bạn. Rất không lịch sự. Bỏ hắn đi, Sam. Chấm dứt trả tiền. Ngay lập tức."

“Anh ta là bạn.” McCready nói. “Hồi xây bức tường Berlin, anh ta rất tuyệt, toàn làm những việc nguy hiểm. Khi đó, chúng ta rất cần những người như vậy, và đã thực sự ngạc nhiên trước khả nàng của anh ta.”

“Đây không phải là chuyện được bàn cãi, Sam.”

“Tôi tin anh ta. Anh ta tin tôi. Yêu Tinh không bao giờ để tôi thất vọng. Anh không thể mua được kiểu người như thế. Mất bao năm đấy..”

Edwards đứng dậy, rút khăn tay chấm chấm môi.

“Rút khỏi hắn thôi, Sam. Đừng để phải nói rằng tôi ra lệnh cho anh. Cho Yêu Tinh đi thôi.”

Ngày cuối tuần, thiếu tá Ruth Holland thở dài, vươn vai và ngả ra lưng ghế. Nàng đã quá mệt. Đó quả là một đoạn đường dài, nhọc nhằn. Nàng với gói thuốc Malboro và bỗng nhận ra gạt tàn đã đầy ắp. Nàng nhấn chuông. Một thượng sĩ bước vào. Không một lời, nàng chỉ cái gạt tàn. Anh ta vội mang đi đổ và quay về trong nháy mắt. Nàng khẽ gật đầu. Anh ta lui ra, đóng chặt cửa sau lưng.

Không chuyện trò, không đùa cợt, thiên hạ vẫn có ấn tượng vậy về thiếu tá Ruth. Mấy năm trước, vài cậu thấy mái tóc vàng rực rỡ của nàng trên nền áo đồng phục và chiếc váy xanh mỏng mảnh đã gắng thử vận may. Nhưng cuộc đời đâu phải là cờ bạc. Hai lăm tuổi, nàng lấy chồng đại tá, một biện pháp nghề nghiệp, và li dị ông ta ba năm sau đó. Sự nghiệp của ông ta chấm dứt còn nàng bắt đầu cất cánh. Ba lăm tuổi, nàng thay đồng phục bằng bộ đồ cắt khéo màu xám, với sơmi trắng có nơ niềm dính cổ.

Khối kẻ vẫn định thuyết phục nàng lên giường, cho đến khi nhận được câu trả lời từ cặp mắt xanh lạnh tanh. Nàng chỉ say mê săn tìm những tên phản bội. Là người cộng sản tận tụy, tin tưởng tuyệt đối, nàng dành cả cuộc đời mình vào đó, một nhiệm vụ tự đặt cho mình. Nàng lạnh lùng căm hận chúng, và đã xin chuyển từ Cục 2, nơi mục tiêu là các tên nổi loạn tầm thường sang Cục 3, hai năm trước, hoạt động độc lập, còn được gọi là Cục theo dõi đặc biệt, Ở đó bọn phản bội, nếu có, thì sẽ ở cấp cao, vô cùng nguy hiểm.

Kết quả của hai năm làm việc đang nằm trong tập hồ sơ đặt trước nàng đây, mà nàng đã phải tranh thủ làm xen giữa các công việc khác, cho đến khi cấp trên bắt đầu tin tưởng. Hai năm theo dõi, kiểm tra, rồi cậy cục sự hợp tác của các Ban khác, hai năm chắp nối những mẩu vụn tin tức, cho đến khi bức tranh thành hình.

Có một danh sách tám cái tên ở ngay tờ đầu trong tập hồ sơ của nàng. Năm tên đã bị gạch bỏ. Hai tên khác có dấu hỏi bên cạnh. Nhưng mắt nàng luôn dừng lại ở tên thứ tám. Nàng nhấc ống nghe và gọi cho viên thư ký của tướng Josef Steiner, Cục trưởng Cục 3.

“Tôi nghe, thưa thiếu tá. Một cuộc gặp riêng? Không có ai khác? Tôi hiểu... Nhưng vấn đề là tướng quân đang ở nước ngoài... đến tận thứ ba. Vâng, rất tốt, thứ ba tới.”

Ruth buông ống nghe và cau mặt giận dữ. Bốn ngày. Thôi được, nàng đã phải đợi hai năm thì bốn ngày có là gì.

“Anh nghĩ đã giải quyết xong.” Bruno bảo Renate với sự vui thích trẻ con vào sáng chủ nhật sau đó. “Anh đã đủ tiền để mua đứt cái nhà đó, một bar rượu đẹp tuyệt.”

Họ đang nằm trên giường trong phòng ngủ riêng của ả - đó là một ân huệ đôi khi ả ban cho Morenz, bởi ông căm ghét cái văn phòng cũng như nghề nghiệp của ả.

“Nói nữa đi,” Ả thủ thỉ. “Em muốn nghe nữa về nó.”

Ông vươn người. Chính ông cũng mới thấy nó mỗi một lần, nhưng đã mê ngay. Đó chính là cái ông mơ ước và lại ở đúng chỗ ông mơ ước - ngay bên bờ biển trải rộng, nơi những ngọn gió lồng lộng từ phương Bắc thổi đến làm cho không khí lúc nào cũng mát lạnh. Về mùa đông thì rét đấy, nhưng đã có lò sưởi trong nhà.

“Đây gọi là quán Đèn Lồng, và biển tượng của nó là một cái đèn lồng dùng trên tàu thủy. Nó ở ngay trên cửa vịnh phía trước vũng tàu Bremerhaven. Nhìn qua cửa sổ tầng trên em có thể thấy đảo Mellum. Chúng mình sẽ bơi thuyền ra tận đảo, vào mùa hè, nếu mọi sự thuận lợi. Anh đã đặt tiền cọc, và mọi sự sẽ hoàn tất vào cuối tháng Chín. Khi đó, anh sẽ đưa em đi khỏi tất cả những thứ này.”

Ả khó lắm mới khỏi cười phá lên. “Em không thể đợi được nữa, anh yêu. Đó sẽ là một cuộc sống tuyệt diệu... Anh muốn thử lại không? Biết đâu lần này được thì sao...”

Nếu Renate là một người khác thì có lẽ ả đã cho người tình già cụt hứng nhẹ nhàng bằng cách bảo ả chẳng định để người ta đưa đi “khỏi tất cả những thứ này,” tệ nhất lại đến cái vịnh lạnh lẽo, gió gào tận Bremerhaven. Nhưng ả lại thấy thú vị hơn nếu kéo dài ảo tưởng của ông ta để đến khi tan vỡ, sự thất vọng sẽ càng lớn hơn.

Một giờ sau cuộc chuyện trò giữa Renate và Bruno, một chiếc Jaguar Sedan màu đen lướt ra khỏi xa lộ M3 rẽ vào làn đường yên tĩnh hơn của Hampshire. Đó là xe riêng của Timothy Edwards, người lái là của cơ quan, còn trên xe chính là McCready bị triệu tập khi đang nghỉ chủ nhật tại nhà riêng, bằng cú diện thoại từ trợ lý của Sếp.

“Tôi e không được chọn lựa đâu, Sam. Rất khẩn cấp.”

Chiếc Sedan lượn vào sân rêu sỏi đá của một biệt thự nông thôn kiểu Georgie rồi dừng lại. John vòng ra để mở cửa sau nhưng McCready đã tự làm. Anh ghét kiểu đó.

“Thưa, họ đang đợi ngài ở hiên sau.” John nói.

McCready ngắm ngôi biệt thự. Timothy Edwards, mười năm trước đã cưới con gái một vị quận công, người đã rất chu đáo với con cái bằng cách rời bỏ địa vị cao quý ngay ở tuổi trung niên và để lại một bất động sản giàu có cho hai con: quận công mới và quận chúa Margaret. Nàng đã được thừa hưởng khoảng ba triệu bảng. McCready ước lượng khu bất động sản đẹp tuyệt ở Hampshire này phải chiếm đến một nửa số tiền đó.

Có bốn cái ghế mây quây lại ở một góc. Ba trong số đó có người ngồi. Xa hơi chút nữa là chiếc bàn trắng bầy bữa trưa cho ba người. Quận chúa Margaret hiển nhiên sẽ không tham gia. Như vậy, cả anh nữa cũng không có suất ở đây. Hai người đàn ông đứng dậy.

“A, Sam.” Edwards nói. “Rất vui là anh đã đến được.”

Ngon đấy, McCready nghĩ. Vậy là không đến nỗi căng thẳng như người ta vừa nói với anh.

Edwards ngắm McCready và ngạc nhiên, không phải lần đầu, rằng ông bạn đồng nghiệp tài hoa của mình lần nào đến dự tiệc ở biệt thự Hampshire cũng khăng khăng giữ kiểu ăn mặc như thể đang làm vườn dở tay, dù ở lâu hay chóng cũng vậy. Bản thân Edwards thì mang đôi giày bóng lộn, quần thắng nếp, áo khoác màu rực rỡ bên ngoài sơ mi lụa và khăn quàng cổ.

McCready cũng ngắm Edwards, lấy làm lạ vì nỗi anh ta lúc nào cũng gài khăn ở ống tay áo bên trái. Đó là một thói quen nhà binh, khởi đầu từ các trung đoàn kỵ binh, bởi trong các đám vũ hội họ thường mặc quần chật đến nỗi một chiếc khăn tay nổi cộm trong túi có thể gây ấn tượng cho các bà các cô là họ đã hàm chứa hơi nhiều ý vị trong vòng ôm. Nhưng Edwards chưa từng là kỵ binh, cùng chẳng hề ở trong quân đội ngày nào. Anh ta vào ngay cơ quan này từ Oxford.

“Tôi cho là anh chưa biết Chris Appleyard.” Edwards nói trong khi người Mỹ cao lớn chìa tay bắt. Da bàn tay anh ta nom như da thuộc, như của đám cao bồi Texabaw, dù anh ta là người Boston. Màu da ấy là do anh ta hút quá nhiều Camels, dùng điếu trước châm điếu sau. Đó là lý do họ ăn trưa ngoài trời, Sam tự nhủ, Edwards không muốn những bức Canlettos của anh ta bị ám khói.

“Chắc là chưa.” Appleyard nói. “Vui mừng được gặp anh, Sam. Tôi đã được biết tiếng tăm của anh.”

McCready biết anh ta là ai qua các ảnh chụp có kèm ghi chú: Phó trưởng Ban châu Âu, CIA. Người phụ nữ ngồi chiếc ghế thứ ba nghiêng người về trước, đưa tay ra.

“Chào Sam, công việc dạo này thế nào?”

Claudia Stuart, cô ta vẫn còn là người đàn bà ưa nhìn ở tuổi bốn mươi. Cô giữ tay Sam và nhìn vào mắt anh lâu hơn mức cần thiết.

“Tốt thôi, cám ơn Claudia. Cũng tạm ổn.”

Cặp mắt cô lộ vẻ nghi ngờ. Không một người đàn bà nào lại nghĩ một người đàn ông đã từng chia sẻ chăn gối với mình lại có thể “tạm ổn” khi trở về với cuộc sống cũ.

Những năm trước, Claudia đã say mê McCready, ở Berlin. Điều làm cho cô bối rối là chuyện đó không đi đến đâu cả. Bởi cô chưa biết gì về May, vợ Sam.

Claudia hồi ấy làm ở trạm Tây Berlin của CIA, còn anh thì đến thăm trạm, dĩ nhiên không nói gì về công việc của mình. Đó là lúc anh đang tuyển mộ Otto, điều mà sau cô mới biết. Rồi chính cô lại là người tiếp nhận Otto.

Edwards không bỏ lỡ dịp quan sát những trao đổi ngầm đó, đoán là có chuyện gì đó, và cũng giả định đó là cái gì. Điều làm anh ta không bao giờ hết kinh ngạc là dường như phụ nữ rất thích Sam, thấy khó có thể tin được chuyện nhiều phụ nữ ở Nhà Thế Kỷ mong mỏi được sửa cho Sam cavát hay đơm lại nút áo...

“Cám ơn.”

May! Vợ anh! Ngọt ngào, âu yếm và rất đỗi đáng yêu, và mất ba năm rồi. May đã chờ anh bao đêm dài những ngày ấy, và luôn có mặt khi anh về đến nhà sau những chuyến đi dài dặc và chết chóc, không một lời phàn nàn. Chứng xơ mạch máu bội nhiễm có thể phát triển nhanh hoặc chậm, nhưng với May thì nó quá nhanh. Trong năm đầu nàng đã phải ngồi xe đẩy và thêm hai năm nữa nàng đã ra đi. Anh sống một mình từ đó. Ơn trời là con trai họ đã vào đại học và chỉ trở về vào dịp đám tang. Nó đã không phải thấy nỗi đau đớn, thất vọng của cha nó.

Người bồi rượu, nhà này thế nào chả có bồi rượu, McCready nghĩ, xuất hiện với khay sâmpanh. McCready nhướn mày. Edwards thì thầm gì đó và lát sau, người bồi trở lại với vại bia tổ bố. McCready nhấp một hớp. Tất cả nhìn anh. Bia nhẹ và dịu. Nhãn ngọai. Anh thở dài. Anh rất thích được uống bia trong bầu không khí mát mẻ làm nổi vị mạch xứ Scott và hốt bố xứ Kent.

“Chúng tôi có một số khó khăn, anh Sam.” Appleyard nói. “Kể cho anh ta đi, Claudia.”

"Otto,” Claudia nói. “Còn nhớ chứ?”

McCready ngắm nghía cốc bia, gật gật đầu.

“Ở Posdam, chúng tôi liên lạc với ông ta qua hòm thư chết. Giữ một khoảng cách xa. Rất ít tiếp xúc. Tin tức tuyệt vời và tiền trả rất cao, và không gặp gỡ cá nhân. Song ông ta vừa gửi chúng tôi một yêu cầu. Rất khẩn cấp.”

Tất cả im lặng. McCready ngước nhìn Claudia.

“Ông ta nói đang giữ một bản không đăng ký của cuốn Điều lệ chiến tranh của Quân đội. Chứa toàn bộ mệnh lệnh tác chiến, cho toàn bộ mật trận phía Tây. Chúng tôi rất muốn có nó, Sam. Muốn vô cùng.”

“Thế thì đi mà lấy.” Sam lầu bầu.

“Lần này ông ta không dùng hòm thư chết, bảo cuốn sách lớn quá, không vừa, và sẽ chỉ trao nó cho người mà ông ta biết và tin cậy. Ông ta muốn người đó là anh.”

“Ở đâu?”

“Ông ta muốn trao ở Đông Đức, sâu trong vùng phía nam Thuringia. Chuyến đi sẽ đưa ông ta từ miền Nam đến miền Tây qua Cottbus, Dresden, Karl-Mars Stadt rồi Jena và Erfurt. Cuối cùng trở lại Berlin vào tối thứ tư. Ông ta muốn chuyển giao vào tối thứ ba hay sáng thứ tư. Ông ta không quen thuộc vùng đó nên muốn sử dụng một góc lùi xe trên đường. Hơn nữa, ông ta tự vạch kế hoạch để làm sao có thể đi tách ra và trao tài liệu.”

Sam nhấp bia và liếc Edwards. “Anh đã giải thích cho họ chưa, Timothy?”

“Vừa bắt đầu thôi.” Timothy Edwards nói rồi quay về phía khách khứa của mình. “Coi, tôi phải nói rõ là Sam thực tế không thể đi được. Tôi cũng đã trình bày như thế với Sếp, và được ông đồng ý. Sam bị SSD đánh đấu rồi.”

Claudia nhướn lông mày.

“Tức là họ chộp được tôi lần nữa ở bên ấy là chẳng có trao với đổi gì hết."

“Họ sẽ thẩm vấn rồi bắn bỏ ngay.” Edwards bổ sung rất thừa. Appleyard huýt sáo.

“Như thế là trái luật. Chắc vì bạn quấy đảo họ quá.”

“Ai thì cũng chỉ làm đến hết sức mình là cùng.” Sam đáp buồn rầu. “Nhưng nếu tôi không thể, thì một người lại có thể. Timothy và tôi vừa bàn về anh ta tuần trước.”

Edwards suýt nghẹn. “Yêu Tinh? Otto nói chỉ trao nó cho ai mà mình biết rõ.”

“Ông ta biết rõ Yêu Tinh. Anh có nhớ tôi kể anh ta đã giúp tôi những ngày đầu thế nào không? Trở lại năm 1981, khi tôi đưa Otto vào, Yêu Tinh đã phải ngồi trông trẻ hắn cho đến khi tôi có thể tới. Ông ta sẽ nhận ra và sẽ trao tài liệu. Ông ta không phải kẻ ngốc.”

Edwards sửa lại cổ áo.

“Thôi được, Sam. Một lần cuối cùng.”

“Công việc này nguy hiểm, nhiều bất trắc. Tôi muốn có phần thưởng cho anh ta. Mười ngàn bảng.”

“Đồng ý.” Appleyarđ nói ngay. Anh ta lấy trong túi ra một tờ giấy. “Đây là chi tiết về cách trao hàng mà Otto đề nghị. Có hai điểm hẹn. Chọn một, một dự trữ. Anh có thể cho chúng tôi biết anh chọn góc lùi xe nào trong vòng hai tư giờ nữa không? Để chúng tôi thông báo cho ông ta.”

“Tôi không thể buộc Yêu Tinh phải làm.” McCready cảnh cáo. “Anh ta là cộng tác viên, không phải nhân viên.”

“Gắng chút, Sam. Gắng giúp bọn này...” Claudia nói.

Sam đứng dậy.

“Thêm nữa, cái thứ ba ở đây là thứ ba nào?”

“Một tuần nữa, kể từ ngày kia.” Appleyard trả lời.

“Nghĩa là còn tám ngày nữa.”

“Lạy trời!” McCready đáp.