← Quay lại trang sách

Chương 2

Sam McCready dành cả hôm sau, thứ hai, vào việc nghiên cứu những bản đồ tỉ lệ lớn và các ảnh chụp. Anh tìm đến đám bạn cũ còn làm việc ở ban Đông Đức và đề nghị họ vài ân huệ. Họ bảo vệ lãnh địa mình chằm chặp nhưng cũng hiểu anh có quyền nên họ cho tốt nhất là hỏi xem trưởng Ban Lừa dối và Xuyên tạc cần gì?

Đến trưa thì anh tìm được hai điểm thích hợp. Góc lùi xe đầu tiên anh chọn ở ngay phía Tây Jena, góc thứ hai cũng trên đường đó nhưng ở giữa đoạn Weimar và Erfurt, cách căn cứ Xô-viết ở Nohra chưa tới ba dặm.

Nếu Otto ở đâu đó giữa Jena và Erfurt trên đường đi thanh tra, ông ta sẽ chỉ phải đi một quãng ngắn để đến chỗ hẹn. Vào lúc năm giờ, McCready thông báo địa điểm đã chọn cho Claudia Stuart. Một điện mật liền được gửi tới trụ sở CIA, Langley, Virginia. Sau khi thông qua, nó sẽ được chuyển đến cho người giám sát Otto tại Posdam. Ở đó, thông tin được đổ vào hộp thư chết dưới một viên gạch bị “long” vữa ở vỉa hè, và Otto sẽ nhặt nó trên đường tới nhiệm sở bốn giờ sau.

Tinh mơ thứ hai, McCready gửi một điện mật mã tới viên chỉ huy trạm SIS ở Bonn. Ông này đọc nó, hủy ngay lập tức rồi nhấc điện thoại gọi tới một máy trong vùng.

Bruno Morenz hôm đó về nhà vào lúc bảy giờ tối. Ông đang ăn thì bà vợ chợt nhớ ra một việc.

“Bác sĩ chữa răng của ông gọi đến đấy. Dr. Fischer.”

Morenz nhìn chằm chằm vào món xúp trước mặt.

“Ờ, ờ...”

“Bảo muốn xem lại vết hàn. Ngày mai. Sáu giờ. Tại phòng khám.”

Nói xong, bà ta lại quay về với TV. Bruno hy vọng vợ nhớ đúng thông tin. Bác sĩ răng của ông đâu phải Dr.Fischer, và có hai quán bar là nơi McCready muốn gặp ông. Một được quy ước là bệnh viện, còn chỗ kia là phòng khám. Sáu giờ nghĩa là buổi trưa, trong giờ ăn trưa.

Sáng thứ ba, McCready được Denis Gaunt lái xe đưa ra sân bay Heathrow bay chuyến sớm sang Cologne.

“Tối mai tôi về.” Anh bảo. “Trông coi công việc hộ tôi.”

Ở Cologne, với một va ly nhỏ, anh lướt nhanh qua cửa khẩu, bắt taxi, và xuống xe lúc mười một giờ. Anh thả bộ xuôi xuống Kreuzgasse, dừng lại nhiều lần trước cửa kính các nhà hàng, đột ngột quay đầu kiểm tra, vào cửa hàng nào đó bằng cửa trước rồi đi ra bằng cửa sau... Đến mười hai giờ kém năm, hài lòng vì không có đuôi bám theo, anh rẽ vào ngõ hẹp Krebsgasse và thấy mình đối diện với một quầy bar kiểu ngày xưa, cửa nẹp gỗ với những chữ gotic vàng. Những cửa sổ nhỏ kính màu làm ánh sáng trở nên mờ mờ. Anh ngồi xuống một ngăn, phía góc xa, gọi vại bia sông Rhine và chờ. Năm phút sau, thân hình to béo của Bruno Morenz xuất hiện trong chiếc ghế đối diện với anh.

“Lâu quá rồi nhỉ, ông bạn cũ." McCready nói.

Morenz gật đầu và nhấp bia.

“Anh muốn gì, Sam?"

Sam kể. Mất đến mười phút. Morenz lắc đầu.

“Sam, tôi năm mươi hai tuổi rồi. Sắp nghỉ hưu. Tôi có những dự định của mình. Ngày xưa thì khác, rất sôi động. Còn bây giờ, nói trắng ra, bọn đó làm tôi sợ.’’

“Cả tôi cũng thế, Bruno. Nhưng tôi sẽ đi, nếu có thể. Song tôi đã bị gạch tên, anh thì chưa. Vả lại, đó là một vụ nhanh gọn - đi buổi sáng, về buổi tối. Thậm chí chuyến đầu không được, anh sẽ trở lại hôm sau, vào giữa trưa. Họ chịu đưa anh mười ngàn bảng, tiền mặt.”

Morenz giương mắt nhìn.

“Nhiều đấy. Thế thì thiếu gì người làm, sao lại là tôi?”

‘‘Người ấy đã biết anh. Ông ta sẽ thấy đó không phải là tôi, những không lùi được nữa. Tôi ghét việc đòi hỏi anh thế này nhưng thực sự, xin hãy vì tôi. Thề với anh, đây là lần cuối. Xin hãy vì ngày xưa của chúng ta.”

Bruno uống cạn bia rồi đứng dậy.

“Tôi nhất định sẽ trở lại đó... Được rồi, Sam. Vì anh đấy, vì ngày xưa của chúng ta. Nhưng sau đó thì thôi đấy, tôi thề. Vĩnh viễn.”

“Anh đã có được lời hứa của tôi, Bruno. Không bao giờ nửa. Hãy tin, tôi không bao giờ để anh ngã đâu.”

Họ thỏa thuận địa điểm gặp lần sau, vào sớm ngày thứ hai. Bruno trở về nơi làm việc. McCready đợi thêm mười phút, quay trở ra bến taxi vẫy xe đi Bonn. Có nhiều việc phải làm mà thì giờ lại quá ít.

Cùng thời gian đó, thiếu tá Ruth được tướng Steiner tiếp. Ông ngồi sau bàn, đầu cạo nhẵn, trông giống nông dân hơn là một tướng lĩnh, nhưng lại toát ra vẻ quyền thế và mưu lược. Ông đọc tập hồ sơ một cách kỹ lưỡng, rồi đẩy nó về phía nàng.

“Thiếu chi tiết.” Ông nói, thích bắt nhân viên phải bảo vệ luận cứ của họ. Ngày xưa - tướng Steiner ưa ngày xưa- chỉ cần chừng ấy tài liệu trước mặt ông là đủ. Nhưng thời thế đã đổi thay và vẫn tiếp tục đổi thay.

“Bây giờ thì chưa, thưa thiếu tướng,” Ruth thừa nhận. “Nhưng lại có vô số sự kiện. Bọn Mỹ đã biết quá nhanh về những tên lửa SS-20 ỏ ta từ hai năm trước đây.”

Tướng Steiner im lặng.

“Còn chuyện các hạm đội xuất phát từ cảng phương Bắc nữa. Bọn ở NATO hình như cũng đã biết.”

“Có thể có lỗ rò,” ông thừa nhận, “hoặc vài chỗ cũng nên. Khinh suất, ba hoa, hàng loạt yêu tố khác nữa. Nhưng nếu có nghĩ đó là một người...”

“Người này.” Nàng chồm tới trước và đập tay vào bức ảnh dán trên trang đầu tập hồ sơ.

“Sao? Tại sao là anh ta?”

“Bởi vì hắn luôn luôn có mặt ở đó.”

“Ở gần đó,” ông chữa lại.

“Gần đó, rất gần, trong cùng một hoàn cảnh. Luôn luôn thấy mặt.”

“Chưa đủ, tôi chưa thể ra một lệnh gì cho cô. Tôi cần một cái gì chắc chắn. Dù là nhỏ.”

“Xin hãy cho tôi theo dõi hắn.” Ruth thúc giục.

‘‘Thật kín đáo.”

“Vâng, thưa thiếu tướng. Theo dõi thật kín đáo.”

“Thế thì được, thiếu tá.”

“Chỉ vài ngày thôi, Herr Direktor. Một đợt nghỉ hè ngắn ngày. Tôi muốn đưa vợ con cùng đi. Hai ngày cuối tuần cộng với thứ hai, thứ ba, thứ tư.”

Đó là sáng thứ tư, và Dieter Aust đang ở tâm trạng thư thái. Ngoài ra, là một công chức đúng mực, ông hiểu nhân viên của mình có quyền được nghỉ hè, chỉ ngạc nhiên vì Morenz xin nghỉ quá ít ngày. Có lẽ do không đủ tiền.

“Morenz thân mến, nhiệm vụ của chúng ta khá là vất vả. Do đó, cơ quan luôn sẵn sàng cho nhân viên của mình nghỉ ngơi, khi thuận tiện cho cả hai bên. Năm ngày thì không là vấn đề gì đâu, nhưng giá anh cho chúng tôi biết sớm hơn Thôi được, cũng không sao.”

Tối hôm ấy, Morenz bảo vợ là ông phải đi công vụ.

“Hai ngày cuối tuần cộng với thứ hai, thứ ba và thứ tư. Herr Direktor Aust muốn tôi tháp tùng ông ta.”

‘‘Thế à?” Bà vợ nói, mắt vẫn dán vào TV.

Thực ra, Morenz cũng dự định nghỉ một cuối tuần đầy lạc thú và thơ mộng với Renate, dành thứ hai cho Sam McCready và những chỉ dẫn kéo dài hàng ngày của anh ta, rồi vượt tường sang Đông Đức vào thứ ba. Nếu có phải qua đêm ở Đông Đức để đến điểm hẹn thứ hai thì ông cũng sẽ trở lại miền Tây vào tối thứ tư rồi lái xe cả đêm về nhà cho kịp đi làm vào sáng thứ năm. Sau đó, ông sẽ xin nghỉ việc, đoạn tuyệt với vợ và cùng Renate ra đi. Chẳng biết bà vợ có quan tâm đến chuyện đó không. Dường như bà ta còn chẳng để ý đến chuyện ông sống hay là chết.

Thứ năm, thiếu tá Ruth chịu cú thất bại đầu tiên. Nàng văng tục và ném mạnh ống nghe xuống. Đội theo dõi của nàng đã sẵn sàng bám theo mục tiêu, nhưng trước hết, nàng phải biết đại thể những hoạt động hàng ngày của đối tượng. Để tìm hiểu, nàng gọi cho một người trong đám nhân viên Cục 3 SSD gài trong tổ chức tình báo quân sự.

“ Xin lỗi, thưa thiếu tá.” Người kia nói. ''Người mà đồng chí quan tâm ngày mai sẽ bắt đầu thanh tra các đơn vị lớn. Vâng, tôi đã có chương trình của đồng chí ấy.”

Anh ta đọc cho nàng chép lại. Nàng suy nghĩ rồi viết đơn xin phép bay đến sân bay quân sự ở Porsdam.

Chiều thứ sáu, Bruno chúi mũi vào làm cho xong các việc lặt vặt rồi về sớm. Bởi sẽ gửi đơn xin nghỉ khi quay lại, vào giữa tuần tới, nên ông thu dọn luôn đồ cá nhân, chọn ra được một ít giấy tờ trong két, và bên dưới chúng là khẩu súng ngắn tự động do cơ quan cấp.

Khẩu Walther PPK đã quá bẩn. Ông không hề sờ đến nó từ dạo bắn thử để đăng ký. Tiện tay, ông nhét nó vào túi áo vét và rời cơ quan, mỉm cười khi nghĩ đây sẽ là lần đầu tiên ông trưng cho Renate thấy. Có lẽ như vậy nàng mới tin rằng công việc của ông là quan trọng. Nhưng cũng chẳng cần thiết gì. Vì dù sao nàng cũng yêu ông.

Trước khi lái xe đi Hahnwald, ông dừng lại ỏ trung tâm thành phố mua một ít thịt bê ngon, rau tươi, một chai vang đỏ Pháp. Cái cuối cùng ông phải mua là bó hoa lớn.

Ông đỗ chiếc Open Kadett ở góc phố nhà nàng và đi bộ đoạn còn lại. Ông cũng chẳng dùng điện thoại trên ô tô để báo trước nữa. Ông muốn làm nàng ngạc nhiên. Có một phụ nữ vừa ra khỏi khu nhà khi ông bước đến cửa nên khỏi phải bấm chuông gọi. Hãy để nàng ngạc nhiên thực sự. Ông có chìa khóa riêng vào căn hộ nàng.

Ông bước nhẹ nhàng để sự bất ngờ càng hoàn hảo. Trong nhà im ắng. Ông gọi “Renate, em yêu, anh đến đây” khi nghe thấy chuỗi cười của nàng. Ông vui vẻ nghĩ nàng đang xem hoạt hình trên TV. Ông hé cửa phòng khách. Nó rỗng không. Tiếng cười lại vang lên, từ phía cuối hành lang dẫn vào phòng tắm. Ông chợt giật mình nhận ra sự ngu ngốc của mình. Có thể nàng đang có khách. Ông đã không gọi điện để biết trước. Sau đó ông lại nhận ra, với khách hàng, nàng chắc sẽ ở văn phòng với cửa đóng chặt, và cửa ấy có bọc cách âm. Ông sắp lên tiếng gọi lần nữa thì lại nghe tiếng đàn ông cười. Ông bước tới hành lang.

Cửa phòng ngủ lớn mở hé, khe hẹp đó bị che tối một phần bởi cánh tủ quần áo cũng bị mở ra, để lộ một đống áo khoác vứt trên sàn tủ.

“Thật là đồ cứt đái.” Giọng đàn ông nói. “Hắn thực sự nghĩ em sẽ lấy hắn à?”

“Hẳn mụ cả người lên rồi. Thằng con hoang ngu ngốc! Trông hắn kìa!” Giọng nàng.

Morenz buông rơi bó hoa cùng túi thực phẩm rồi tiến tới chỗ cửa hé mở. Ông bàng hoàng, khép cánh cửa tủ lại và thúc mũi giày vào cửa buồng, mở nó ra.

Renate ngồi bên mép chiếc giường vĩ đại, đang hút thuốc. Không khí trong phòng nức mùi cannabis. Nằm ườn trên giường là một gã ông chưa từng gặp bao giờ- gầy, trẻ, dữ dằn, mặc quần Jeans và áo da đi mô tô. Cả hai đều nhìn ra khi thấy cửa mở, và chồm dậy. Chỉ với một bước nhảy, gã trai đã đứng sau Renate. Hắn có bộ mặt hèn hạ với mái tóc vàng bẩn. Trong đời sống tình dục của mình, Renate thích cái gọi là “ngón nghề thô bạo,” và gã này, bạn thường xuyên của ả, là típ cực kỳ.

Cặp mắt Morenz dán vào màn hình TV đặt ở cuối giường đang chiếu một cảnh video. Không người đàn ông đứng đắn, đàng hoàng nào trông lại, đàng hoàng, đứng đắn khi đang làm tình cả. Morenz ngắm mình trên TV với cảm giác nhục nhã và tuyệt vọng ngày căng tăng. Renate cũng ở trên màn hình, đôi lúc lại ló mặt ra sau lưng ông để làm những cử chỉ khinh bỉ trước ống kính. Hiển nhiên những cái đó đã gây ra trận cười lúc nãy.

Bây giờ, Renate hầu như trần truồng, nhưng tỉnh lại rất nhanh. Mặt ả đỏ lên vì giận dữ. Khi ả lên tiếng, đó không còn là giọng nói tươi vui ông từng biết mà là tiếng rít của con mụ hàng thịt.

“Ông làm cái đếch gì ở đây?”

“Anh muốn làm em bất ngờ.” Ông lẩm bẩm.

“À, ông muốn làm tôi bất ngờ. Đồ cứt đái. Cút ngay. Xéo về với cái mụ bị thịt ngu ngốc của nhà ông ở Porz.”

Morenz hít một hơi thật sâu.

“Điều làm tôi đau nhất là,” ông nói, “đáng lẽ cô có thể nói thẳng với tôi. Cô đừng để tôi xử sự như một thằng ngốc mới phải. Bởi vì tôi đã thực sự yêu cô.”

Mặt ả méo mó đi. Ả khạc ra từng lời.

“Đừng để ông...? Ông không cần cho ai để làm cái gì cả. Ông là một thằng ngu. Một thằng già béo ị, ngu ngốc. Cả ở trên giường cũng như ở ngoài đời. Giờ thì xéo.”

Chính lúc đó ông đã đánh ả. Không phải cú đấm mà cả một cái tát với bàn tay xòe ra. Một cái gì đó đổ vỡ trong ông và ông tát ả. Cái tát làm ả mất thăng bằng. Ông vốn to lớn và cú đấm tiếp theo đã hất ả xuống sàn.

Lúc đó thằng tóc vàng nghĩ gì, Morenz sau này chẳng thể nào biết được. Vì khi ông đã sắp rời đi thì thằng ma cô thọc tay vào trong áo. Có lẽ nó có súng. Morenz rút phắt khẩu PPK khỏi thắt lưng. Ông nghĩ khóa an toàn đã mở sẵn. Nó phải mở sẵn rồi. Ông muốn bắt thằng ma cô giơ tay lên và cho nó đi. Nhưng nó lại cố rút súng ra. Morenz siết cò. Bẩn thật đấy, nhưng khẩu Walther nổ không tồi.

Ở trường bắn, Morenz chưa bao giờ bắn trúng cái bia, thậm chí nó to như cái cửa kho thóc cũng vậy. Và ông chẳng hề lai vãng đến đó nữa. Một nhà thiện xạ thì phải luyện tập hàng ngày. Nhưng đây thì là vận may. Viên đạn duy nhất đã trúng ngay tim thằng ma cô ở khoảng cách mười lăm bước. Nó giật nảy lên và trên mặt xuất hiện một vẻ ngỡ ngàng. Nhưng không biết có phải là một phản ứng thần kinh không. Tay phải hắn giơ lên siết chặt khẩu Beretta. Ông lại bắn. Renate đã chọn đúng thời điểm ấy để vùng dậy và hứng lấy viên đạn thứ hai.

Morenz lặng người trong vài phút, nhìn hai cái xác, cảm thấy người tê dại. Cuối cùng, ông rời căn phòng, khép chặt cửa, không khóa. Vừa sắp giẫm lên đám quần áo mùa đông vứt lộn xộn thì, thậm chí trong trạng thái đờ đẫn, ông cũng tự hỏi tại sao chúng lại nằm đây, vào mùa này? Ông nhìn vào tủ áo và thấy tấm gỗ ở lưng tủ như sắp rơi ra. Ông đưa tay kéo tấm gỗ.

Bruno Morenz ở trong căn hộ thêm mười lăm phút nữa rồi mới đi, mang theo cuốn băng có hình mình, những đồ ăn ông mua, bó hoa, một cái kẹp cavát màu đen vẫn không phải của ông. Sau này, ông không thể giải thích tại sao lại làm như vậy. Đi cách Hahnwald hai dặm, ông vứt túi thực phẩm, rượu và hoa vào một thùng rác ven đường. Lái xe đi một giờ nữa, ông ném băng video và khẩu súng xuống sông Rihne, rồi rẽ vào Cologne gửi lại cái kẹp cà vát, cuối cùng mới về nhà. Khi ông bước vào phòng khách, đã chín giờ rưỡi. Bà vợ không nói một câu nào.

“Chuyến đi của tôi với Herr Direktor bị hoãn.” Ông nói. “Tôi sẽ đi vào sáng thứ hai, rất sớm.”

“Thế à?” Bà vợ nói.

Đôi khi ông nghĩ, khi về nhà dù ông có nói “Hôm nay tôi vừa nhào xuống Bonn và bắn chết Thủ tướng Kohl’’ thì bà ta cũng chỉ đáp “Thế à?”

Cuối cùng thì bà ta cũng dọn ra bữa tối. Nhưng thật là không thể nuốt nổi, do đó ông không ăn.

“Tôi đi ra ngoài uống một chút.” Ông nói. Bà ta rút hai thanh socola, đưa một cho Lutz và lại mê mẩn với TV.

Ông uống say đêm ấy. Một mình. Thấy tay mình vẫn run lên, khắp người đổ mồ hôi, nghĩ mình bị cảm cúm gì đó. Ông không phải là nhà tâm lý và cũng chẳng có nhà tâm lý nào ở đó để giúp ông. Nghĩa là không có ai để nói ông đang đối mặt với cơn suy sụp thần kinh. Hoàn toàn.

Thứ bảy ấy, thiếu tá Ruth biết tin người mình đang theo dõi vừa ở Cottbus, đang trên đường tới Dresden cùng đám quân nhân, và ngoài tầm tay nàng. Vào chủ nhật,

hắn sẽ tới Karl-Marx Stadt, thứ hai Zwickau và thứ ba Jena. Phải xin mở rộng phạm vi theo dõi, và lại phải giấy tờ. Luôn là chuyện giấy tờ chết tiệt, nàng giận dữ nghĩ.

Sam McCready trở lại Đức và dành cả buổi sáng làm việc với trưởng trạm Bonn. Buổi chiều, anh nhậnchiếc xe BMW và chạy tới Cologne. Anh rẽ vào Hotel Holyday Inn ở ngoài sân bay, nơi đã thuê sẵn một phòng cho hai ngày, và đã trả tiền.

Trước lúc bình minh sáng thứ hai, Bruno Morenz đã lặng lẽ rời khỏi nhà. Ông đến Hotel Holyday Inn vào khoảng bảy giờ của cái buổi sáng tháng Chín rực rỡ ấy và lên phòng Sam McCready. Người Anh đặt bữa sáng cho cả hai rồi trải ra một tấm bản đồ giao thông cỡ lớn.

“Trước hết ta bàn về đường đi.” Sam nói. “Sáng mai, anh sẽ xuất phát từ bốn giờ. Đường dài đấy, nên cứ ung dung mà đi, từng chặng một. Đi theo đường E35 qua Bonn, Limburg và Frankfurt. Đường này nối vào E41 và E45, qua Wurzburg và Nuremburg. Phía Bắc Nuremburg, rẽ trái vào E51 qua Bayreuth và từ đấy đến thẳng biên giới. Đây là điểm vượt biên gần Hof. Trạm biên phòng cầu Saale. Anh phải ở đó vào lúc mười một giờ. Tôi sẽ đến trước anh, xem xét mọi việc từ nơi ẩn nấp. Anh thấy sao?”

Morenz đầm đìa mồ hôi dù đã cởi áo ngoài.

“Đây nóng quá.” Ông nói. Sam bật điều hòa nhiệt độ.

Sáng hôm ấy, Frau Popovic đến căn hộ Hahnwald. Bà góc Nam Tư nhập cư, làm nghề quét dọn, từ chín đến mười một giờ. Có chìa khóa riêng mở cửa chính và cửa buồng, lại biết Fraulein Heimendorf thích ngủ muộn nên bà luôn tự vào nhà và dọn các phòng khác trước để cô chủ có thể ngủ đến tận mười rưỡi. Cuối cùng mới đến lượt phòng ngủ. Còn căn phòng khóa kín ở cuối hành lang thì bà chẳng bao giờ đụng đến vì được bảo rằng đó là phòng chứa đồ, và bà tin là vậy. Bà chẳng có khái niệm gì về nghề kiếm sống của chủ nhà.

Sáng đó, bà bắt đầu từ bếp, rồi phòng đợi, rồi hút bụi dọc hành lang cho đến cái cánh cửa khép kín thì nhận thấy một vật mà bà nghĩ là mãnh lụa màu nâu rơi trên sàn. Bà nhặt lên, nhưng nó lại không phải mảnh lụa. Đó là một vệt lớn màu nâu, đã khô cứng, và dường như chui từ trong phòng ra. Bà lầm bầm nguyền rủa cái việc phải làm thêm này rồi khi quỳ xuống lau sàn, chạm vào cánh cửa, bà ngạc nhiên thấy nó không khóa.

Vềt loang bẩn rất khó cọ sạch. Nghĩ nó có thể còn chảy ra, bà mở cửa xem nó bắt đầu từ đâu. Một giây sau, bà vừa kêu gào vừa chạy xuống cầu thang đập cửa căn hộ tầng trệt dựng ông bán sách về hưu dậy. Ông ta không lên lầu mà chỉ gọi điện thoại cấp cứu 110 và gọi cho cảnh sát.

Cú điện thoại được ghi nhận ở cảnh sát lúc chín giờ năm mốt phút. Đầu tiên, tuân theo truyền thông bất di dịch của cảnh sát Đức, họ phái một Streifenwagen, tức là xe tuần tra với hai nhân viên mặc sắc phục, tới hiện trường xác định xem có đúng đã xẩy ra vụ án hay không, nếu có thì loại tội phạm gì, sau đó mới báo động cho ban chuyên trách loại tội phạm đó. Một cảnh sát ở lại dưới

chân thang cùng Frau Popovic, đang được bà vợ ông bán sách cũ săn sóc, còn người cảnh sát thứ hai thì lên lầu, không chạm tới vật gì, đi nhanh tới cuối hành lang, nhìn qua cánh cửa đã mở một nửa, huýt sáo vì kinh ngạc và trỏ xuống gọi nhờ điện thoại ông bán sách. Không cần phải là Sherlock Holmes mới đoán ra đây là một vụ giết người.

Theo thủ tục, đầu tiên anh ta gọi bác sĩ cấp cứu - ở Đức luôn luôn được kèm theo với đội cứu hỏa. Sau đó anh ta gọi về Polizei Prosidium và yêu cầu Leidstelle. Ban trọng án, thông báo cho người trực ban biết mình đang ở đâu và đã thấy gì, rồi yêu cầu cho thêm hai cảnh sát mặc sắc phục. Thông tin được chuyển tiếp tới Mordkommission. Đội điều tra án mạng, thường được gọi là K1, ở tầng mười và mười một ngôi nhà xấu xí, bê tông màu xanh, chiếm trọn cả một phía của quảng trường Waidmark. Đội trưởng K1 ra lệnh cho một thư ký và hai trợ lý. Sau này hồ sơ cho biết họ đã đến căn hộ Hahnwald vào lúc mười giờ bốn mươi phút sáng, đúng lúc ông bác sĩ vừa đi ra.

Viên thư ký, tên là Peter Schiller gặp ông bác sĩ trên cầu thang. Peter biết ông này.

“Có chuyện gì thế?” Peter hỏi. Việc của bác sĩ đơn giản chỉ là chứng thực nạn nhân đã thực sự chết.

“Hai xác. Một đàn ông, một đàn bà. Một có quần áo, một trần truồng.”

“Nguyên nhân chết?”

“Do đạn bắn, có thể nói vậy. Pháp y sẽ nói rõ sau.”

“Chết lúc nào?”

“Tôi không phải chuyên gia mặt đó. Ồ, có thể từ một đến ba ngày, tôi nghĩ thế. Xác chết cứng đơ rồi. Nhưng đó không phải là ý kiến chính thức đâu nhé. Tôi đi đây.”

Peter lên gác cùng một trợ lý. Người kia ở lại dưới nhà để lấy cung Frau Popovic và người bán sách. Hàng xóm đã tụ tập dưới đường phố. Có ba xe cảnh sát đậu ở đó.

Y hệt viên đồng sự mặc cảnh phục, Peter huýt lên tiếng sáo khi bước vào phòng ngủ. Renate và gã ma cô của ả vẫn nằm tại chỗ chúng ngã xuống, đầu cô gái khỏa thân kế sát cửa, trên vũng máu chảy loang ra hành lang. Gã kia thì nằm ngang căn phòng, lưng quay về màn hình TV, trên mặt còn chưa hết vẻ ngạc nhiên. TV đã tắt.

Peter mở một loạt ngăn tủ và ngăn kéo ra xem.

“Điếm,” anh ta nói. “Gái gọi, chắc thế. Hàng xóm có biết không. Chúng ta sẽ hỏi họ. Lập danh sách đi.”

Viên trợ lý Weichert đã sắp sửa đi bỗng nói. “Tôi đã gặp tên này ở đâu đó rồi. Hoppe. Benhhard Hoppe. Cướp nhà băng, tôi nghĩ thế. Một thằng rắn mặt đấy.”

“Tốt!” Peter nói khinh bỉ. “Một vụ thanh toán nội bộ.”

Có đến hai máy điện thoại trong căn hộ, nhưng Peter, mặc dù tay đã đeo găng, không sử dụng chúng. Có thể có những vân tay trên đó. Anh đi xuống gọi nhờ điện thoại của ông bán sách.

Anh gọi cho cấp trên mình, Hartwig, đội trưởng đội điều tra án mạng và thông báo vụ án này có thể là chuyện thanh toán băng nhóm. Hartwig lại báo cho cấp trên của mình, giám đốc cơ quan hình sự, Kriminalamt, gọi tắt là KA. Nếu cái xác trên sàn là của một tên găngxtơ thì phải xin ý kiến chuyên gia của các ban khác, Ban cướp bóc - cưỡng đoạt chẳng hạn.

Trong lúc chờ đợi, Hartwig phái nhóm chuyên viên pháp lý gồm một thợ ảnh, bốn chuyên viên dấu tay đến hiện trường. Căn hộ đó sẽ thuộc về họ trong nhiều giờ nữa, cho đến khi tất cả những dấu vết, vân tay cuối cùng đã lấy xong, tất cả những gì đáng nghi đã được mang đi phân tích. Một loạt hàng xóm được hỏi han để tìm nhân chứng - những ai có thể trông thấy một hoặc vài người đàn ông đã vào hoặc ra khỏi căn nhà chết chóc này.

Vào giờ đó, Sam McCready đặt ly cà phê thứ hai xuống và gàp l<ại tấm bản đồ. Anh đã dặn dò Morenz rất cấn thận về cả hai diem hẹn, cho xem tâm ảnh mói nhất của Otto, rằng ông ta sẽ mậc bộ quân phục thùng thình của hạ sĩ quan, đội mũ sụp xuống mặt và lái xe con GAZ. Đó chính là cách inà Otto đã nghi ra. Rồi Sam nói thêm.

“Không may là hắn nghĩ sẽ gặp tôi. Chúng ta buộc phải hy vọng rằng hắn nhận ra anh và trao tài liệu. Bây giờ đến chuyện cái xe. Nó nằm ở bãi đỗ xe dưới này. Chúng ta sẽ đi thử nó một đoạn, để anh quen xe.

“Đó là chiếc BMW kiểu Sedan, màu đen, biển đăng ký Wurzburg, vì anh hiện sống ở đó. Tôi sẽ nói rõ toàn bộ lý lịch giả của anh và đưa giấy tờ sau. Có chiếc xe thật mang biển số ấy. Cũng một BMW Sedan màu đen.

“Còn đây là xe của Hãng. Nó đã qua biên giới vài lần ở chỗ cầu Saale nên hy vọng bọn họ quen với nó rồi. Người lái thì mỗi lần một khác nhau vì đó là xe của công ty. Xe này luôn đi Jena, mục đích công khai là xem xét công việc của hãng Zeiss tại đó. Và xe luôn luôn không mang theo bất cứ cái gì. Trừ lần này, Dưới bình ắc quy có một ngăn mỏng, gần như không thể thấy, trừ khi tìm rất kỹ. Nó vừa đủ để nhét tập tài liệu mà anh nhận từ Ed.”

(Trên nguyên tắc, Morenz không bao giờ được biết tên thật của Otto, thậm chí không được biết người này cấp bậc gì, đang làm việc ở đâu. Lần gặp cuối cùng, ông ta vẫn chỉ biết Otto qua cái tên Ed.)

Bữa ăn trưa, Morenz uống vang ừng ực, tay run bắn.

“Anh chắc mình vẫn khỏe đấy chứ?” McCready hỏi.

“Chắc chứ. Đây chỉ là chứng cảm chết tiệt, anh biết không? Với một chút hồi hộp nữa. Lẽ thường thôi.”

McCready gật đầu. Hồi hộp là lẽ thường - với các diễn viên chuẩn bị lên sâu khấu, với binh lính sắp xung trận, với các điệp viên sắp vượt biên bất hợp pháp vào khối Xô- viết. Nhưng anh không thích cái bộ dạng của Morenz lúc này. Anh chưa bao giờ thấy người ta hồi hộp kiểu ấy. Song với Otto, anh không thể với tới được và chỉ còn hai mươi bốn giờ nữa, anh không còn con đường nào khác.

“Ta xuống xem ôtô.” Anh nói.

Khó nói cái gì xảy ra hôm nay ở Đức mà báo chí lại không biết đến, và vào năm 1985, khi Đức còn là Tây Đức thì cũng vậy. Phóng viên hạng nhất và kỳ cựu về các tội phạm ở Cologne vẫn là Guenther Braun của tờ Kolner Stadt Anzeiger. Anh ta ăn trưa với một nhân viên sở cảnh sát và được mách đang có một vụ xôn xao ở Hahnwald. Braun lập tức cùng người chụp ảnh, Walter Schiestel, mò đến khu nhà, cố tiếp xúc với Schiller, nhưng anh này lại đang trên tầng, gửi lời xuống là rất bận và khuyên Braun đến cơ quan báo chí của Präsidium mà lấy tin. Một dịp béo bở, song Braun sẽ lấy cái thông báo đã gột rửa kỹ càng của cảnh sát sau. Giờ hãy hỏi han xung quanh đã. Sau đó, anh ta gọi vài cú điện thoại. Đúng lúc báo chí lên khuôn, anh ta đã có trọn câu chuyện. Lại chuyện hay nữa. Dĩ nhiên, radio và TV thế nào chẳng đi trước, nhưng anh ta biết rằng mình đã có trong tay những chi tiết độc quyền.

Trên lầu, nhóm pháp lý đã xong công việc với các tử thi, đã chụp các xác chết từ mọi góc, chụp cả đồ đạc và cách bài trí trong phòng, từ cái giường, tấm gương lớn sau bàn trang điểm đến các đồ nghề trong tủ và hòm. Vẽ xong các vạch phấn quanh tử thi, người ta cho chúng vào bao kín rồi chở đến nhà xác, nơi các bác sĩ pháp y tiếp tục làm việc với chúng. Các thám tử cần biết thời gian chết và các đầu đạn, rất khẩn cấp.

Trong toàn căn hộ đã thu được mười chín bộ vân tay. Có ba bộ bị loại, đó là của hai người thiệt mạng và của Frau Popovic, giờ đang ở Präsidium với vân tay in rất nét trong hồ sơ. Chỉ còn lại mười sáu.

“ Chắc là của khách hàng?” Schiller lẩm bẩm.

“Một trong chúng là sát nhân?” Weichert giả định.

“Tôi ngờ là không. Tên này rất chuyên nghiệp. Có thể hắn mang găng.”

Vấn đề khiến Schiller bối rối là không phải không tìm ra động cơ giết người, mà là quá nhiều. Cô gái gọi này có phải là mục tiêu không? Kẻ gây án là một khách hàng bị xúc phạm, hay chồng cũ, hay người vợ ghen tuông, hay địch thủ trong làm ăn, hay tên ma cô bị chọc giận? Hay cô ta đơn giản bị giết vì ngẫu nhiên còn tên ma cô mới là cái đích? Hắn đã được xác nhận là Bernhard Hoppe, tống tiền, cướp nhà băng, găngxtơ, và thực sự hạ đẳng. Một cuộc tính sổ, một vụ ma túy bị đổ bể, một vụ tống tiền đối thủ? Schiller ngờ rằng vụ này sẽ rất gai góc.

Các biên bản lấy lời khai hàng xóm cho thấy không ai biết cái nghề nghiệp bí mật của Renate. Cũng có những người đến tìm, nhưng đều là những ông lịch sự, khả kính. Không có tụ tập ban đêm, không có âm nhạc ồn ào, không mùi rượu nồng nặc.

Trong khi nhóm pháp lý đang bới từng phân vuông căn hộ, Schiller đi khắp nhà và lục tung đồ vật lên. Anh vào buồng tắm. Có cái gì đó quái gở trong này nhưng anh chịu không tìm ra. Sau bảy giờ một chút, nhóm pháp lý xong việc và báo anh là họ rút. Anh đã mất cả một giờ bận rộn với căn hộ ngổn ngang này. Đến tám giờ kém mười Schiller nhún vai và quyết định sẽ tổng kết vụ này vào sáng mai, tại nhiệm sở. Anh niêm phong căn hộ, đặt một cảnh sát gác ở hành lang phòng khi có kẻ trở lại xem cảnh tội ác do mình gây ra (điều này đã từng có) rồi về nhà. Vẫn có cái gì vương vướng trong tâm trí anh về căn hộ đó. Schiller vốn là một thám tử thông minh và nhạy cảm.

Sam McCready dành cả chiều hôm đó chỉ dẫn những điều cuối cùng cho Morenz.

‘‘Anh là Hans Glauber, năm mốt tuổi, có vợ, ba con. Giống như những người đàn ông tự trọng khác, anh mang theo ảnh gia đình. Họ đây, chụp trong một ngày nghỉ. Heidi, vợ anh cùng với Hans Junior, Lotte và Ursula, vẫn gọi là Uschi. Anh làm việc cho hãng thủy tinh quang học BKI ở Wurzburg. Họ có thật, và ôtô cũng là của họ. May là đã có thời gian anh làm nghề này nên anh có thể dùng thuật ngữ nghề nghiệp nếu phải bàn đến nó.

‘‘Anh có hẹn với giám đốc ngoại thương ở xí nghiệp Zeiss tại Jena. Đây là giấy mời của ông ta. Giấy mời thật, cả ông ta cũng có thật. Chữ ký giống hệt, nhưng là giả. Hẹn ba giờ chiều mai. Nếu thuận lợi, anh có thể đặt Zeiss làm những thấu kính chính xác và sẽ trở về Tây Đức ngay tối hôm ấy. Nếu cần thảo luận thêm, anh có thể ở lại qua đêm. Đó là đề phòng cảnh sát cửa khẩu lục vấn chi tiết.

“Khó có khả năng bọn này kiểm tra điều đó với Zeiss. SSD thì dám đấy, nhưng đã có quá nhiều doanh nghiệp phương Tây làm việc với Zeiss, nay thêm một người cũng chẳng phải là lý do để nghi ngờ. Vậy thì đây là hộ chiếu, một cái vé đã dùng của nhà hát Opéra Wurzburg, thẻ tín dụng, bằng lái xe, chùm chìa khóa trong đó có chìa khóa chiếc BMW. Cái áo mưa rộng...

“Anh sẽ chỉ mang theo cặp và túi ngủ đêm. Xem kỹ cái cặp và những thứ bên trong đi. Khóa cặp đặt ở các số ngày sinh tưởng tượng của anh, mùng 5 tháng 4 năm 34, hay 5434. Giấy tờ trong đó đều liên quan tới việc anh mua sản phẩm của Zeiss cho hãng của mình. Chữ ký Hans Grauber là tự tay anh phải ký. Quần áo và đồ vệ sinh đều là hàng gốc Wurzburg, giặt là với tem hiệu ở Wurzburg. Nào ông bạn già, đã đến lúc ta ăn tối rồi.”

Vào nửa đêm, McCready được đón lên chiếc Range Rover do Kít Johnson, nhân viên liên lạc của trạm SIS ở Bonn đưa đến. Họ thay nhau lái để tới được sông Saale phía Bắc Bavaria trước Morenz.

Bruno Morenz ở lại phòng Sam McCready, gọi rượu, và uống vô chừng. Ông ngủ chập chờn khoảng hai tiếng và vùng dậy khi đồng hồ báo thức reo lúc ba giờ. Đúng bốn giờ sáng thứ ba đó, ông rời Holiday Inn, khởi động chiếc BMW và xuyên qua bóng tối hướng về phía Nam.

Đúng lúc đó, Peter Schiller chợt tỉnh dậy ở Cologne và nhận ra điều gì cứ canh cánh trong lòng về căn hộ ở Hahnwald. Anh gọi điện đánh thức Weichert giận điên người dậy, hẹn gặp anh ta ở ngôi nhà Hahnwald lúc bảy giờ. Cảnh sát Đức đi điều tra phải có hai người trở lên.

Morenz đến hơi sớm một chút, Ở phía nam biên giới, ông phải dừng lại ở quán ăn trong vùng Frankenwald để qua hai mươi lăm phút. Ông không uống rượu mà gọi cà phê, nhưng mua đầy một bình rượu loại đeo bên sườn.

Mười một giờ, McCready cùng Kit Johnson đã giấu mình trên ngọn cây một quả đồi phía bờ nam sông Saale. Chiếc Range Rover thì đỗ khuất ở trong rừng. Từ chỗ nấp, họ có thể nhìn thấy trạm gác biên giới Tây Đức phía bên dưới, cách đó nửa dặm. Đằng sau trạm là một hẻm nhỏ do hai quả đồi tạo nên. Qua đó chừng nửa dặm là những mái nhà của trạm biên phòng Đông Đức.

Vì Đông Đức xây dựng hệ thống kiểm tra của họ ở sâu trong lãnh thổ nên người lái xe vừa vượt qua trạm Tây Đức là lọt vào đất Đông Đức rồi. Lý do của việc lập một hành lang nửa dặm bên trong Đông Đức là để đủ thời gian chặn lại bất kỳ kẻ nào định vượt qua cửa khẩu.

Mười một giờ hai phút McCready phát hiện chiếc BMW màu đen chạy khoan thai qua những trạm kiểm soát thờ ơ của Tây Đức. Sau đó, nó đi vào hành lang, hướng về mảnh đất được kiểm soát bởi lực lượng cảnh sát mật thiện nghệ nhất và đáng sợ nhất - lực lượng Stasi.