Chương 3 (tt)
“Nghe đây, đồ ngốc.” Lý trí của ông nói. “Mày đã làm một chuyện ngu xuẩn. Nhưng mày đâu có định làm thế. Vậy thì phải bình tĩnh. Các xác chết phải hàng tuần nữa mới bị phát hiện. Chừng đó mày đã biến khỏi đất nước này, với tiền, đến một nơi mà họ sẽ để mày sống yên thân. Đấy là tất cả cái mày muốn bây giờ. Được để một mình. Và họ sẽ để mày được một mình, vì những cuộn băng.”
Chiếc xe của cảnh sát Nhân dân, hay VOPO, giảm tốc độ và quan sát. Ông lại bắt đầu đổ mồ hôi. Nỗi sợ hãi vẫn đang còn đó. Ông không thể biết được rằng những viên cảnh sát trẻ tuổi là những người mê ôtô và chưa từng được nhìn thấy một chiếc BMW Sendan mới nào.
Schiller mất ba mươi phút trình bày với Đội trưởng đội án mạng về điều mới phát hiện ra. Hartwig cắn môi.
“Vụ này trở nên khốn kiếp rồi. Liệu con đó đã tống tiền ai chưa, hay đây chỉ là quỹ dự trữ về hưu của nó?”
Ông ta nhấc phôn gọi phòng thí nghiệm pháp lý.
“Tôi muốn có ảnh các đầu đạn đã phục chế và các vân tay - mười chín của hôm qua và ba sáng nay - gửi đến phòng tôi lúc một giờ.” Sau đó, ông quay lại với Schiller.
“Nào, ta sẽ trở lại đó. Tôi muốn xem tận mắt.”
Chính là đội trưởng Hartwig đã tìm ra cuốn sổ. Tại sao lại phải bí mật đến nỗi giấu đi một quyển sổ ghi chép trong căn phòng vốn đã là bí mật? Nó được nhét vào ngăn dưới cùng, bên dưới những băng video.
Danh sách ấy do Renate Heimendorf viết. Hiển nhiên ả thông minh, và đó là công trình của ả - từ việc cấu trúc lại rất lành nghề căn hộ cũ đến việc sử dụng cái điều khiển từ xa trông vô hại để tắt mở camera đặt sau tấm gương. Mấy tay pháp lý đã thấy nó trong phòng ngủ lại ngỡ nó dùng để điều khiển TV.
Hartwig lướt qua danh sách trong sổ. Nó tương ứng với những con số ở gáy băng video. Có người ông nhận ra, có người không. Những người xa lạ, ông nghĩ họ không ở trong chính phủ, nhưng chắc cũng là quan trọng. Những người ông biết bao gồm hai nghị sĩ, một phát ngôn nghị viện (của đảng cầm quyền), một nhà tài chính, một nhà ngân hàng (địa phương), ba nhà công nghiệp, một thừa kế của hãng nước ngọt lớn, một quan tòa, một nhà giải phẫu nổi tiếng, một nhân vật truyền hình được cả nước biết. Tám tên họ khác đường như gốc Anglo Saxon (Anh, Mỹ, Canada?), và hai người Pháp. Ông đếm số còn lại.
“Tám mươi mốt cái tên.” Ông nói. “Tám mươi mốt cuộn băng. Lạy trời nếu những tên họ tôi nhận ra đúng là những người quan trọng đến thế thì ngần này cũng đủ để làm sụp chính phủ vài bang, có khi còn sụp cả Bonn nữa.”
“Lạ thật,” Schiller nói. “Chỉ có sáu mươi mốt băng.” Cả hai cùng đếm lại. Sáu mươi mốt.
“Cậu nói có ba bộ vân tay thu được ở đây?”
“Vâng!.”
“Cứ cho hai bộ là của Heimendorf và Hoppe thì bộ thứ ba có thể là của kẻ giết người. Và kinh khủng hơn là hắn đã lấy đi hai mươi băng. Tôi phải gặp Tổng giám đốc ngay. Đây còn hơn cả vụ giết người, về mặt phạm vi.”
Dr. Herrman ăn trưa với cấp dưới của mình, Aust.
“Aust thân mến, tạm thời chúng ta chưa biết gì hơn. Chỉ đơn giản là có những lý do để quan tâm. Có thể cảnh sát sẽ nhanh chóng bắt giữ và buộc tội một tên găngxtơ nào đó, còn Morenz có thể sẽ trở về đúng lịch trình sau một weekend tội lỗi với bồ bịch ở một nơi nào khác chứ không phải Rừng Đen. Anh ta bị buộc thôi việc lập tức là điều không tránh khỏi. Nhưng ngay bây giờ, tôi muốn hãy gắng tìm xem anh ta ở đâu. Tôi muốn một nữ nhân viên được cài bên cạnh vợ anh ta, trong trường hợp anh ta gọi điện về. Sử dụng bất cứ biện pháp gì anh muốn. Tôi sẽ hỏi xem cảnh sát đã điều tra đến đâu. Anh biết khách sạn tôi ở rồi đấy. Gọi điện ngay nếu có tin về anh ta.”
Sam McCready ngồi trong nắng ấm trên sông Saale nháp cà phê rót từ bình. Johnson vừa nói chuyện với Cheltenham, trạm thu sóng khổng lồ ở phía tây nước Anh.
“Không có bất kỳ cuộc trao đổi vô tuyến nào khác thường ở bất kỳ vùng nào. Chương trình vẫn tiếp tục.”
McCready xem đồng hồ. Bốn giờ kém mười. Bruno sẽ đến chỗ lùi xe phía Tây Weimar bây giờ. Anh đã dặn ông ta đến sớm năm phút và ở lại không quá hai mươi lăm phút nếu Otto, tức Ed, không thể xuất hiện. Cái đó sẽ tính là hỏng việc. Vẫn giữ vẻ bình tĩnh trước Johnson nhưng anh căm ghét phải chờ đợi. Hàng trăm lần, anh tính lại đường đi nước bước. Năm phút ở góc lùi xe, Otto trao tài liệu, mười phút để Otto đi khuất. Bốn giờ mười lăm phút xuất phát. Năm phút để tuồn gói tài liệu từ trong áo vào hộp ắc quy, một giờ bốn mươi lăm phút lái xe - ông ta sẽ phải lọt vào tầm nhìn của anh lúc sáu giờ. Ly cà phê nữa.
Giám đốc cảnh sát Cologne, Armin von Starnberg, nghiêm trang lắng nghe báo cáo của viên thư ký trẻ. Ngồi hai bên ông là Hartwig ở đội án mạng và Horst Fraenkel, giám đốc của toàn bộ Kriminalamt. Cả hai viên chức cao cấp này đều cho là phải đến báo cáo trực tiếp ông. Nghe xong, ông thừa nhận họ đã quyết định đúng. Chuyện này chẳng những to hơn một vụ giết người mà còn vượt quá cả tầm cỡ Cologne. Ông cũng đã có ý định đưa nó lên cao hơn.
“Anh sẽ phải tuyệt đối im lặng về chuyện này,” Ông nói. “Anh và đồng sự của anh, trợ lý Weichert. Sự nghiệp của anh phụ thuộc vào điều đó, anh hiểu chứ?” Ông quay lại Hartwig. “Cả hai nhân viên lấy dấu tay đã trông thấy phòng đặt camera cũng phải im lặng như vậy.”
Ông cho Schiller ra và trở về với hai người kia.
“Chính xác là các anh đã đi đến đâu rồi?”
Fraenkel gật đầu với Hartwig và ông này bày ra một loạt bức ảnh cỡ lớn chụp rất nét.
“Thưa ngài Tổng giám đốc, chúng tôi đã có những đầu đạn giết chết cô gái và bạn cô ta, giờ phải tìm ra khẩu súng đã bắn những viên đạn này.” Ông gõ vào hai bức ảnh. “Chỉ có hai viên, mỗi xác một. Về các vân tay, có ba bộ trong phòng camera thì hai là của cô gái và gã ma cô. Chúng tôi tin bộ thứ ba là của tên giết người, và cũng tin rằng chính hắn đã lấy đi hai mươi băng video bị thiếu.”
Không ai trong số ba người ở đấy biết thực ra là thiếu đến hai mươi mốt cuộn. Morenz đã vứt cái băng thứ hai mốt, có hình ông, xuống sông Rhine vào đêm thứ sáu ấy. Ông cũng không bị ghi vào danh sách trong cuốn sổ vì ông chẳng bao giờ là đối tượng để tống tiền - mà chỉ để cho vui.
“Thế sáu mốt băng kia đâu?” Von Starnberg hỏi.
“Ở trong két của tôi.” Fraenkel trả lời.
“Hãy mang lên đây. Không ai được phép xem cả.”
Khi còn một mình, Tổng giám đốc Von Starnberg bắt đầu gọi điện thoại. Chiều hôm đó, trách nhiệm về sự kiện này đã chuyển tới các chức sắc trong bộ máy chính quyền. Cologne đẩy vụ này cho Kriminalamt của tỉnh, đóng ở thủ phủ Dusseldorf. Nó lập tức ném lên Kriminalamt liên bang, ở Weissbaden. Những xe hòm được bảo vệ cẩn thận chuyển sáu mươi mốt cuộn băng và cuốn sổ ghi chép từ thành phố này sang thành phố khác. Tại Weissbaden, nó dừng lại một lúc để vị quan chức cấp cao ở đó suy nghĩ xem nên nói như thế nào với Bộ trưởng Tư pháp ở Bonn - người đứng ở bậc thang ngay trên đầu ông ta. Vào lúc đó, cả sáu mươi mốt cuộn băng sex đã được phân loại. Nửa số đó là những người khá giả, nửa còn lại là vừa giàu vừa mạnh. Tồi tệ hơn, có sáu nghị sĩ và phát ngôn viên của đảng cầm quyền cũng bị dính líu, cộng với hai vị của các đảng khác, hai quan chức cao cấp, một viên tướng quân đội... đó là chỉ kể người Đức. Còn có hai nhà ngoại giao nước ngoài đóng ở Bonn (một của NATO), hai chính khách nước ngoài đến công du, một cố vấn Nhà Trắng thân cận với Tổng thống Mỹ R. Reagan.
Nhưng tệ nhất là danh sách của hai mươi người bị mất băng ghi những cuộc nô giỡn của họ, gồm một thành viên cao cấp ban lãnh đạo nghị viện đảng cầm quyền, một phát ngôn nghị viện (liên bang), một quan tòa (thượng thẩm), một sĩ quan cao cấp của quân đội (thuộc không lực, khi đó), một trùm tư bản bia mà Hartwig đã nhận ra và một bộ trưởng đang lên. Đây là chưa kể một số những tinh hoa của thương mại và công nghiệp khác.
“Bọn doanh nghiệp hư đốn có thể cười xòa.” Một thám tử cấp cao ở cơ quan hình sự liên bang tại Weissbaden nhận xét. “Nếu hư hỏng thì đó là lỗi của chính họ. Nhưng con đĩ này lại rất ưa làm việc với người của chính quyền.”
Chiều hôm ấy, với lý do thủ tục, người ta đã thông báo sự kiện cho Cục An ninh nội bộ BFW, song chỉ về việc điều tra và tiến độ của nó. Trớ trêu là BFW lại đặt trụ sở ở chính Cologne, nơi đầu tiên xuất phát mọi chuyện. Bản sao thông báo nội bộ này đã được đặt lên bàn của một sĩ quan phản gián cao cấp tên là Johann Prinz.
Morenz cho xe chạy chậm theo xa lộ số Bảy, cách Weimar bốn dặm về phía Tây và một dặm cách căn cứ Xô- viết được bao bởi bức tường trắng ở Nohra. Ông tới khúc quanh có góc lùi xe McCready đã dặn: bốn giờ kém tám phút. Đường vắng ngắt. Ông giảm tốc độ và lùi xe vào góc.
Theo chỉ dẫn, ông xuống xe, mở cốp, lấy ra bộ dụng cụ, đặt nó cạnh bánh trước, nơi người qua đường dễ dàng thấy được. Rồi ông mở nắp xe. Dọc hai bên đường và ngay sau góc lùi xe có nhiều cây lớn, và cả những bụi cây. Con mắt tưởng tượng của ông như nhìn thấy những nhân viên SSD đang thu mình lại đợi bắt cả hai. Miệng ông khô đắng, mồ hôi ròng ròng trên lưng. Sự bình thản mỏng manh sắp đứt phứt như sợi dây cao su bị kéo quá căng.
Ông lấy chiếc cờ lê, đúng cỡ, và cúi xuống buồng máy. McCready đã bày cho cách nối lỏng đai ốc bắt ống nước với tản nhiệt. Một tia nước nhỏ phụt ra. Ông chọn một cờ lê khác, rõ ràng là sai cỡ và siết lại cái đai ốc bị nới lỏng ấy.
Từng phút qua chầm chậm. Ông vẫn làm động tác giả và liếc nhìn đồng hồ. Bốn giờ sáu phút. Đồ quỷ bắt ấy sao chưa thấy? Ông tự hỏi. Hầu như đúng lúc, có tiếng lạo xạo của sỏi dưới các lốp xe đang dừng lại. Ông vẫn cúi xuống... Otto sẽ đến bên ông và hỏi, “Nếu xe ông phải chữa thì lấy dụng cụ của tôi mà dùng,” và đưa cho ông một hộp gỗ dẹt đựng dụng cụ lấy từ xe ra. Quyển Mệnh lệnh tác chiến của Quân đội sẽ nằm dưới các cờ lê - bìa bọc nhựa đỏ.
Ánh nắng mặt trời bị che khuất bởi bóng một ai đó đang đến gần. Tiếng giầy ủng nghiến trên sỏi. Người kia đã tiến sát sau ông, song không nói gì. Morenz đứng thẳng dậy. Một xe cảnh sát Đông Đức đỗ cách đó năm mét. Một cảnh sát mặc sắc phục lá cây đứng cạnh cánh cửa mở bên chỗ lái xe. Một người khác thì đứng ngay bên Morenz, nhìn xuống buồng máy đang mở cửa chiếc BMW.
Morenz suýt mửa ra. Dạ dày ông cuộn lên chất axit. Ông gắng để đứng thẳng, và suýt ngã.
Viên cảnh sát bắt gặp cái nhìn của ông. “Hỏng cái gì?” Anh ta hỏi. Dĩ nhiên đó là thủ đoạn, một ân cần giả vờ để che giấu hân hoan. Morenz thấy lưỡi mình như bị dính vào hàm ếch.
“Tôi nghĩ nó bị chảy nước.” Ông đúng. Viên cảnh sát xem xét bộ tản nhiệt rồi cầm lấy cái cờ lê từ tay Morenz, cúi xuống, rồi lại ngẩng lên, với một cờ lê khác.
“Cái này mới vừa.” Anh ta nói. Morenz dùng cái đó vặn chặt lại đai ốc. Tia nước ngừng phun.
“Dùng sai cỡ cờ lê.” Viên cớm nói, chăm chú nhìn động cơ chiếc BMW. Dường như anh ta đang nhìn thắng vào bình ắc quy. “Xe đẹp quá. Ông trú ở đâu?”
“Ở Jena,” Morenz nói. “Tôi phải gặp giám đốc ngoại thương ở Zeiss, sáng mai. Để mua hàng cho công ty tôi.”
Viên cảnh sát gật đầu vẻ đồng tình.
“Có nhiều sản phẩm rất tốt ở Cộng hòa dân chủ Đức”.
Rồi anh ta chợt hỏi. “Thế thì ông làm gì ở mãi tận đây?” “Tôi muốn đi thăm Weimar... đài kỷ niệm Goethe.”
“Ông đi ngược chiều rồi. Weimar ỏ hướng này kia.” Viên cảnh sát chỉ con đường phía đằng sau Morenz.
Một chiếc xe GAZ sơn màu xám lẫn xanh của quân đội đang chạy lại từ phía đó. Người lái xe, cặp mắt bị chiếc lưỡi trai sụp xuống che khuất, nhìn Morenz, gặp mắt ông trong một thoáng, rồi liếc sang chiếc xe VOPO đỗ ở đó, rồi quay đi. Hỏng rồi. Ed không thể tiếp cận bây giờ.
“Vâng, tôi vòng ngược chiều. Tôi đang tìm chỗ quay xe thì phát hiện đồng hồ nước không chỉ.”
Cái VOPO đi theo ông tới Weimar, chỉ trở lại khi đã đến cửa ngõ thành phố. Morenz lái về Jena và lấy phòng ở khách sạn Gấu Đen.
Tám giờ tối. Sam McCready buông ống nhòm xuống. Đám bụi tụ lại đã ngăn cản hoàn toàn việc nhìn sang trạm biên phòng Đông Đức và con đường phía sau nó. Anh thấy mệt mỏi. Có chuyện trục trặc rồi, ở nơi đó. Có thể là không quan trọng, cái săm nổ, vụ kẹt xe... Không có lẽ. Hay ông ta giờ mới chạy về biên giới. Hay Otto đã không đến, vì không kiếm được xe con, không thể tách ra đi một mình... Chờ đợi bao giờ cũng khổ sở, chờ đợi, và không biết điều gì đang xảy ra. Anh bảo Johnson.
“Chúng ta rút thôi. Không nhìn thấy gì nữa.”
Dr. Herrmann có một bạn cũ bên BFV, từ nhiều năm trước, khi cùng làm vụ Guenther Guilaume, thư ký riêng của Thủ tướng Willy Brandt, bị phát hiện là người của Đông Đức. Tối hôm đó, Dr. Herrmann gọi cho bạn.
“Lothar Herrmann đây... Không, không phải. Tôi đang ở Cologne... Ồ, đi công vụ theo lịch thôi. Tôi hy vọng anh sẽ nhận lời ăn tối cùng... Tuyệt lắm. Tôi đang ở Dom Hotel. Tám giờ đến nhé? Tôi đợi đấy.”
Johann Prinz buông ống nghe, băn khoăn không biết cái gì đã đưa Herrmann đến Cologne. Đi công vụ? Có lẽ...
Hai giờ sau, họ đã ngồi cùng bàn ăn. Lúc đầu, họ rào đón thật lịch sự. Công việc thế nào? Tốt thôi... Sau món cocktail, Herrmann dịch lại gần bạn hơn một chút.
“Tôi nghĩ người ta đã thông báo với anh về vụ cô gái gọi?” Ông hỏi.
Prinz ngạc nhiên. BND biết việc này hồi nào? Chính ông mới chỉ nhìn thấy tài liệu vào lúc năm giờ. Herrmann gọi điện lúc sáu giờ, và ông ta đã ở sẵn Cologne?
“Rồi.” Ông đáp. “Nhận được tài liệu chiều nay.”
Đến Herrmann ngạc nhiên. Tại sao lại chuyển đến cơ quan phản gián tài liệu về vụ giết người kép ở Cologne? Ông nghĩ mình phải trình bày vụ này cho Prinz trước khi nhờ vả. “Một vụ bẩn thỉu.” Ông lẩm bẩm. Prinz đồng ý.
“Và ngày càng tệ. Bonn sẽ không thích chuyện những cuốn băng sex ấy được chuyền tay lung tung đâu.”
Herrmann cố giữ vẻ lãnh đạm, nhưng ruột gan như lộn cả lên. Băng sex? Lạy Chúa, lại còn băng sex nào nữa?
“Chuyện đi xa quá, phải không?” Ông rót thêm rượu vang.” Chắc là khi những chi tiết mới nhất được gửi đến thì tôi đã về nhà. Anh kể tôi nghe với chứ?”
Prinz kể. Herrmann bỗng thấy món ăn đắng ngắt, mùi rượu vang trở thành mùi tai biến ngột ngạt.
“Và vẫn không tìm ra lời giải?” Ông rầu rĩ lẩm bẩm.
“Chưa nhiều. K1 đã được lệnh rút hết người về làm vụ này, nhất là đi tìm khẩu súng và người có dấu tay đó.”
Lothar Herrmann thở dài. “Tôi e tội phạm có thể là người nước ngoài.” Ông giả định.
Prinz cười. “À, bây giờ tôi mới hiểu. Cơ quan tình báo ngoại tuyến của ta quan tâm chứ gì?”
Herrmann nhún vai, vẻ cam chịu. “Bạn thân mến, hai ta chẳng đã làm chung một việc là gì - Bảo vệ các ông chủ chính trị của chúng ta.”
Cũng như các quan chức dân sự cao cấp khác, cả hai đều có cùng cách nhìn đối với các ông chủ chính trị của họ mà khôn ngoan hơn cả là đừng bao giờ nói ra điều đó.
“Chúng tôi, dĩ nhiên là cũng có những tư liệu riêng.” Herrmann nói. “Vân tay những người nước ngoài mà chúng tôi để ý... À, chúng tôi còn chưa có vân tay những người mà các ông bạn ở KI đang lùng.”
“Anh có thể xin bằng con đường chính thức.”
“Đúng, nhưng tại sao lại phải đánh động bởi một việc chưa chắc đã dẫn tới đâu? Bây giờ, một cách không chính thức thì sao.”
“Tôi không thích cái từ không chính thức." Prinz nói.
“Tôi cũng chẳng thích thú gì. Nhưng... đôi lúc cũng phải nhờ cậy vào tình bạn lâu năm. Xin hứa, nếu phát hiện được gì, tôi sẽ báo anh ngay. Cứ coi đó là công việc chung giữa hai tổ chức của chúng ta. Xin thề đấy. Còn nếu không tìm ra cái gì, thì... cũng vô hại mà.”
“Thôi được, vì tình bạn cũ. Chỉ lần này thôi đấy.”
Rời khách sạn, Prinz băn khoăn, Herrmann biết hay nghi ngờ cái quái gì mà ông không biết.
Sam McCready ngồi uống một mình và đang lo lắng, suy nghĩ mãi về chuyện phái Morenz đi đúng hay không.
Có chuyện gì đấy không bình thường ở ông ta. Một cơn cảm lạnh? Có lẽ cúm thì đúng hơn. Nhưng ngay cúm cũng không làm người ta run như thế. Ông bạn già xem ra rất lo sợ. Liệu nó đã qua chưa? Không, không phải Bruno ngày xưa. Hồi đó, ông ta từng làm chuyện này biết bao lần. Nhưng không lần nào thái độ lạ lùng như lần này.
McCready cố biện hộ cho việc cử Bruno đi. Anh đã không còn thời gian đểm ra người khác. Và Otto cũng sẽ không “xuất hiện” nếu gặp một khuôn mặt lạ. Còn nếu không cho Morenz đi, họ sẽ mất cuốn sách quý kia. Không còn cách khác... nhưng anh cũng không đừng được lo lắng.
Cách đó bảy mươi dặm về phía Bắc, Bruno Morenz cũng đang bồn chồn trong bar của khách sạn Gấu Đen ở Jena. Ông cũng uống, một mình, và uống rất nhiều.
Dọc phố, ông thấy cổng chính Đại học Schiller có cách đây hàng thế kỷ mà bên ngoài là bức tượng bán thân Karl Marx. Một tấm biển bên dưới ghi rõ Marx đã dạy Triết học ở đây năm 1841. Morenz nghĩ giá như nhà triết học này đừng bao giờ đến London và viết Das Kapital [3], thì ông đã không bao giờ phải trải qua những giờ phút khốn khổ như thế này ở cách xa nhà hàng trăm dặm đường.
Nửa đêm thứ ba, một phong bì có gắn xi được gửi đến Dom Hotel cho Dr. Herrmann. Ông vẫn thức. Trong phong bì có ba bức ảnh cỡ lớn: hai chụp những đầu đạn cỡ 9 mm, một là loạt vân ngón tay, bàn tay. Ông không gửi chúng về Pullach ngay mà giữ nó lại sáng hôm ấy. Nếu những vết xước của đầu đạn và vân tay phù hợp với phán đoán, thì ông sẽ phải đối mặt với một tình thế khó xử ghê gớm. Biết chọn ai để báo cáo, và biết nói thật đến đâu. Giá mà chỉ cần bây giờ cái thằng Morenz chó đẻ ấy xuất hiện.
... Chín giờ, ông đáp chuyến bay đầu tiên về Munie.
Mười giờ, thiếu tá Ruth kiểm tra người nàng theo dõi hiện ở đâu. Người ta báo hắn đang ở đơn vị đồn trú ngoại thành Erfurtl, tối hắn đi Posdams. Mai, hắn về Berlin.
Mười một giờ, Morenz ra xe, thấy chuếnh choáng, cà vạt không thắt và mặt không cạo, một lớp râu bạc đã rậm rì ở má và cằm... Trông ông chẳng giống chút nào với nhà doanh nghiệp đi đàm phán về các thấu kính quang học với ban giám đốc xí nghiệp Zeiss. Ông thận trọng lái xe ra khỏi thành phố. Chỗ lùi xe cách đó ba dặm.
Chỗ này lớn hơn chỗ lùi xe hôm qua, rợp bóng những cây sồi ven đường. Bên cạnh là quán cà phê Muhltalperle. Đó không phải nơi dễ thu hút sự chú ý của khách qua đường. Ông lùi xe vào góc, lúc mười hai giờ kém năm, lấy ra bộ đồ nghề và lại mở nắp động cơ. Mười hai giờ hai phút, một chiếc GAZ chạy tới và đỗ lại. Một người mặc quân phục vải bông rộng thùng thình, đi ủng cao bước ra. Ông ta đeo quân hàm thượng sĩ và đội mũ lưỡi trai sụp xuống tận mắt, tiến đến bên chiếc BMW.
“Nếu xe ông phải chữa thì lấy dụng cụ của tôi mà dùng.” Ông ta nói và đặt hộp dụng cụ vào ngăn máy, trên cụm xi lanh, đưa móng tay cáu bẩn gạt cái lẫy mở nắp hộp. Bên trong là một mớ cờ lê lộn xộn.
“Chào, Yêu Tinh, dạo này ra sao?” ông ta hỏi khẽ.
Miệng Morenz lại trở nên khô đắng. “Tốt thôi.” Ông thì thầm trả lời, tay gạt những chiếc cờ lê sang một bên. Dưới chúng là quyển sách bìa nhựa đỏ. Ed cầm chiếc cờ lê và siết vào đai ốc bị lỏng. Morenz lấy quyển sách ra và tuồn vào áo mưa, kẹp dưới nách. Ed xếp lại bộ cờ lê.
“Tôi rút đây.” Ed nói khẽ. “Đợi mười phút hãy đi và làm cử chỉ cám ơn. Có thể có kẻ đang nhìn.”
Ông ta đứng thẳng lên, vẫy vẫy tay rồi trở lại chiếc GAZ. Động cơ vẫn đang làm việc. Morenz đứng dậy và vẫy lại. ”Cám ơn!” Ông gọi với theo. Chiếc xe con chạy về hướng Erfurt. Morenz bỗng thấy muốn xỉu, muốn chạy khỏi đây, muốn uống một chút. Lát nữa, ông sẽ lấy cuốn sách ra và giấu nó vào cái ngăn bên dưới bình ắc quy. Nhưng ngay bây giờ, ông phải uống, vẫn kẹp quyển sách ở nách, ông buông nắp máy sập xuống, xếp dụng cụ lại rồi trèo vào xe. Bình rượu vẫn trong cốp, ông lôi nó ra và tu một hơi dài, khoan khoái. Năm phút sau, tự tin trở lại, ông quay đầu xe về Jena, đã nhắm một chỗ lùi xe khác, phía bên kia Jena, ngay trước con đường nối với Autobahn chạy về biên giới. Ông sẽ dừng lại ở đó để giấu cuốn sách.
Cú đâm xe hoàn toàn không phải là lỗi của ông. Phía nam Jena, ở ngoại ô Stadtroda, khi ông đang chạy giữa những cụm nhà ở cao tầng nom gớm guốc, một chiếc Trabant rẽ ra quá đột ngột từ một con đường nhánh. Gần như sắp phanh được, nhưng phản xạ của ông đã chậm, đã để chiếc BMW đâm vào đuôi chiếc xe mini Đông Đức.
Morenz lập tức thấy sợ hãi. Đây là một cái bẫy? Có phải lái xe này là nhân viên SSD? Người đó trèo ra khỏi xe, đứng nhìn chằm chằm cái đuôi xe méo mó của mình và xô tới chiếc BMW, khuôn mặt quắt queo, bần tiện.
“Anh có biết mình làm cái quái quỷ gì không?’’ Anh ta gào. “Đồ phương Tây khốn nạn, lái xe như thằng điên ấy.”
Morenz kẹp chặt nách để giữ quyển sách, xuống xe và chìa ra một tập Mark. Dĩ nhiên là Mark Đông Đức, ông không thể đưa Mark Tây Đức ra - đó lại là một sự xúc phạm nữa. Dân chúng bắt đầu tụ tập lại để xem.
“Tôi xin lỗi.” Ông nói. “Tôi xin đền tiền chỗ hỏng. Nhiều đấy. Thực sự là tôi đang vội.”
Gã Đông Đức giận dữ nhìn. Hiển nhiên là số tiền lớn.
“Không phải vấn đề tiền.” Anh ta nói. “Tôi phải chờ bốn năm mới mua được chiếc xe này.”
“Sửa đi là được chứ gì.” Một người đứng cạnh nói.
“Không, sửa thế nào được.” Một người khác phản đối. “Phải đưa nó về nhà máy thôi.”
Đám đông đã đến mấy mươi người. Cuộc sống trong những ngôi nhà kiểu cư xá thật nhàm chán, còn chiếc BMW thì lại rất ưa nhìn. Đúng lúc đó, một xe cảnh sát trờ tới. Thanh tra giao thông, nhưng Morenz bắt đầu run. Hai cảnh sát bước ra. Một người đến xem chỗ vỡ.
“Sửa được.” Anh ta nói. “Anh muốn buộc tội không?”
Người lái xe Trabaut đã lùi lại sau. “À...”
Viên cảnh sát thứ hai tiến sát lại Morenz. “Ausweis, bitte.[4]”'Anh ta nói. Morenz dùng tay phải lấy hộ chiếu ra. Tay ông run bắn. Viên cốm nhìn bàn tay, nhìn cặp mắt đờ đẫn và cái cằm không cạo.
“Ông đã uống rượu.” Anh ta ngửi và khẳng định. “Chính xác. Đi về đồn. Nào, lên xe.”
Anh ta xô Morenz về phía chiếc xe cảnh sát vẫn đang nổ máy, cửa xe chỗ người lái đang mở. Đó chính là lúc Morenz suy sụp hoàn toàn. Ông vẫn đang còn quyển sách kẹp dưới nách, ở đồn cảnh sát thì kiểu gì nó chả bị lòi ra. Ông vung cánh tay còn tự do ra phía sau, đánh mạnh vào mũi làm viên cảnh sát ngã gục xuống. Rồi ông nhào vào xe cảnh sát, lái đi. Ông chạy sai đường, vì chiếc xe đang quay đầu về phía Bắc, về hướng Jena.
Viên cảnh sát kia, choáng váng nhưng cố bắn đuổi theo. Ba phát trượt. Chiếc VOPO, ngoặt một cách điên rồ, đã khuất sau góc phố. Nhưng viên đạn thứ tư đã khoan một lỗ ở thùng xăng làm xăng phun ra thành vòi.
Chú thích:
[3] Tư bản luận.
[4] Tiếng Đức trong nguyên băn: Hộ chiếu.