Chương 4
Hai cảnh sát sửng sốt trước việc xảy ra đến nỗi quên cả hành động. Bọn họ chưa hề được huấn luyện, cũng chưa từng có kinh nghiệm phải xử sự như thế nào với loại phạm luật này. Họ đã bị hành hung công khai trước đám đông dân chúng, đến nỗi trước khi quyết định phải làm gì, họ cứ bắn theo cái đã.
Viên sĩ quan không bị thương để bạn ở lại, một mình quay về đồn. Họ không mang theo bộ đàm cầm tay vì đã quen dùng máy trên xe để liên lạc với sở chỉ huy. Hỏi mượn điện thoại của dân thì được những cái nhún vai trả lời, ở đây, dân thường rất ít người có điện thoại riêng.
Gã lái xe xin được đi tiếp nhưng sững lại ngay trước họng súng của “Mũi vỡ”, người đang đi đến kết luận rằng bất kỳ ai ở đây cũng có thể can dự vào âm mưu vừa rồi.
Đồng sự của anh ta đi bộ đến tận Jena, dọc đường thấy một chiếc Wartburg chạy ngược chiều bèn vẫy súng bắt dừng lại và ra lệnh đưa mình vể sở cảnh sát trung tâm Jena. Đi được hơn dặm, họ gặp một xe tuần tra. Viên cảnh sát trong chiếc Wartburg dân sự cuống cuồng vẫy lại và giải thích cho đồng nghiệp mọi chuyện. Sử dụng máy bộ đàm trong xe, họ thông báo với cấp trên về tội phạm vừa xảy ra và được lệnh thông báo thẳng lên Tổng nha cảnh sát. Trong khi đó, các xe tuần tra gần đấy được phái đến chỗ đụng xe.
Cuộc gọi đến trung tâm Jena được ghi nhận lúc 12 giờ 35. Và nó cũng được ghi nhận ở một nơi rất xa, cách nhiều dặm, trên đỉnh Harz Mountains ở bên kia biên giới, nơi có một trạm thu mạnh của Anh mang bí danh Archimedes.
Một giờ chiều, Dr. Herrmann đã ngồi sau bàn mình ở Pullach, nhấc ống nghe đón cuộc gọi ông đang mong đợi từ phòng thí nghiệm đạn đạo của BND được bố trí ngay cạnh kho vũ khi đóng ở tòa nhà kế bên. Thói quen khôn ngoan của nó là trước khi phát một khẩu súng cho nhân viên, nó không chỉ đơn giản ghi số và đánh dấu, mà phải bắn thử hai phát trong buồng kín để lấy đầu đạn lưu giữ.
Kỹ thuật viên nào chả thích làm việc trực tiếp với các đầu đạn lấy được từ thi thể nạn nhân, nhưng thường là phải làm với các bức ảnh. Mọi nòng súng đều có chút gì khác nhau và khi bắn ra một viên đạn, mỗi nòng súng sẽ để lại những vết xước đặc trưng trên đầu đạn ấy. Cũng hệt như những vết vân tay. Kỹ thuật viên đã so sánh những vết xước trên hai đầu đạn lưu của khấu Walther PPK được phát ra mười năm trước với những bức ảnh người ta đưa mà không nói cho biết nguồn gốc.
“Hoàn toàn trùng hợp? Tôi hiểu rồi. Cám ơn.” Dr. Herrmann nói. Ông lại gọi cho bộ phận vân tay (BND lưu giữ vân tay của tất cả nhân viên, ngoài chuyện lưu giữ vân tay của những người được nó quan tâm) và nhận được câu trả lời y như. Ông trút một hơi thở dài và hiểu lại phải tự mình lên gặp Tổng giám đốc thôi.
Chuyện xảy ra sau đó dường như là một cuộc phỏng vấn khó khăn nhất trong đời Dr. Herrmann. Tổng giám đóc vốn có ấn tượng không hay lắm về hiệu quả công việc cũng như hình ảnh Cục ông dưới con mắt của nội các ở Bonn và cả trong cộng đồng tình báo phương Tây. Những tin tức mà Herrmann mang đến chẳng khác nào một trái đấm. Ông loay hoay với ý định dối trá là đã mất viên đạn lưu cùng dấu tay Morenz, nhưng rồi nhanh chóng bác bỏ. Sớm muộn Morenz cũng bị cảnh sát tóm, rồi các kỹ thuật viên phòng thí nghiệm cũng sẽ phải làm nhân chứng trước tòa - lúc đó thì còn tồi tệ hơn.
BND là cơ quan tư vấn của riêng Thủ tướng và Tổng giám đốc biết rằng thế nào Thủ tướng cũng nhận được thông tin về vụ này mà có khi ông nhận được rồi cũng nên. Ông sẽ không thích chuyện này đâu.
‘‘Tìm hắn.” Ông ra lệnh cho Herrmann. ‘‘Tìm hắn nhanh lên và thu hồi lại tất cả các băng.” Khi Herrmann dợm dậy, Tổng giám đốc, vốn giỏi tiếng Anh, nói thêm. “Dr. Herrmann, người Anh có câu như thế này: Anh không cần phải giết chóc, cũng không cần chạy nhắng lên để giữ được tính mạng''
Ông đã cho một lời nhắc nhở bằng thành ngữ của Anh. Dr. Herrmann hiểu, nhưng có một từ ông vẫn còn băn khoăn - nhắng lên. Trở lại phòng làm việc, ông tìm trong từ điển và chọn unnötig: một cách không thật cần thiết - có lẽ là cách dịch tốt nhất. Trong suốt đời sự nghiệp của mình ở BND, đây là lần đầu tiên ông được chỉ dẫn một cách bóng bẩy đến thế. Ông phôn cho phòng hồ sơ trung tâm của Cục nhân lực.
“Gửi cho tôi hồ sơ cá nhân của một nhân viên cơ quan ta, Bruno Morenz.”
Hai giờ chiều, Sam McCready và Johnson vẫn đang còn trên đồi. Họ lên từ lúc bảy giờ. Mặc dù anh ngờ rằng cuộc hẹn đầu tiên ở ngoại ô Weimar đã hỏng nhưng ai biết được; có thể sáng nay Morenz mới về chứ. Thế mà không thấy động tĩnh gì hết. Một lần nữa, McCready điểm lại kế hoạch; gặp lúc mười hai giờ, trở về lúc mười hai giờ mười, chạy mất một tiếng bốn lăm phút - nghĩa là Morenz có thể xuất hiện bất cứ lúc nào. Anh lại nâng ống nhòm lên, quan sát mãi con đường tận phía xa, sau biên giới.
Johnson đang đọc tờ báo địa phương thì nghe tiếng bip bip liên tục từ điện thoại. Anh cầm máy lên nghe rồi đưa cho McCready.
“Họ muốn nói với anh.”
Đó là bạn của McCready, gọi từ Cheltenham.
“Nghe đây, Sam. Vừa có rất nhiều cuộc đàm thoại vô tuyến ở gần khu vực anh. Có lẽ anh nên gọi Archimedes. Bọn họ có nhiều thông tin hơn chúng tôi.”
Liên lạc cắt. McCready ra lệnh.
“Gọi Archimedes ngay.” Johnson bấm các phím số.
Giữa những năm 50, chính phủ Anh, thông qua đơn vị quân đội Anh đồn trú ở vùng Rhine, đã mua một tòa lâu đài đổ nát trên đỉnh núi Harz, gần thị trấn Goslar xinh xắn và nhiều di tích. Harz là dãy núi thấp, cây mọc chen chúc, có đường biên giới với Đông Đức chạy qua tạo thành đường ngoằn ngoèo, chỗ cắt cả nửa quả đồi, chỗ cheo leo trên vách đá. Đây là vùng thường được những kẻ đào tẩu Đông Đức lựa chọn để thử vận may.
Schloss Lowenstein đã được người Anh cải tạo lại với mục đích công khai là đào tạo nhân viên điện đài cho quân đội. Mưu mẹo này được duy trì hàng ngày nhờ những âm thanh liên tục của các tín hiệu phát ra từ lâu đài nhưng thực ra là nhờ các băng ghi âm và máy khuếch đại. Nhưng ở gian sửa chữa, các kỹ sư từ Cheltenham đã lắp đặt những anten đặc biệt nhạy, thành tựu của kỹ thuật hiện đại nhất. Mặc đù các quan chức địa phương lâu lâu vẫn được mời tới dự những buổi hòa nhạc thính phòng hoặc quân nhạc ở lâu đài, Lowenstein vẫn thực sự là một trạm ngoại vi của Cheltenham, mật danh Archimedes. Nhiệm vụ của nó là thu trộm những đàm thoại vô tuyến của Nga hoặc Đông Đức từ phía bên kia biên giới. Với chiều cao của núi, chất lượng thu thường rất hoàn hảo.
“Phải, chúng tôi vừa chuyển về Cheltenham.’’ Viên sĩ quan trực thông báo. “Họ nói anh có thể gọi trực tiếp.”
Anh trao đổi thêm vài phút và mặt tái xanh.
“Cảnh sát Jena đang gặp một chuyện thối tha.” Anh bảo Johnson. “Vừa có vụ đụng xe ở ngoại ô Jena. Phía Nam. Một xe Tây Đức chưa rõ tung tích đâm vào một xe Trabant. Người lái xe Tây Đức tấn công một cảnh sát đến xử lý vụ đụng xe và bỏ trốn - bằng xe cảnh sát. Dĩ nhiên, có thể đấy không phải là người của mình.”
Johnson coi bộ đồng tình song cũng chẳng tin vào điều đó hơn gì McCready. “Ta làm gì bây giờ?”
McCready, hai tay ôm mặt. “Phải đợi..Không còn làm gì hơn được nữa. Archimedes sẽ gọi lại nếu có gì mới.”
Lúc đó thì chiếc BMW đã được đưa về Sở cảnh sát Jena. Chẳng ai nghĩ đến vân tay cả - họ biết thừa người họ định tóm là ai. Viên cảnh sát vỡ mũi được băng bó và đang viết tường trình, cả đồng nghiệp anh ta cũng vậy. Gã lái xe Trabant bị thẩm vấn, cùng với cả tá người đứng xem. Trên bàn của viên chỉ huy cảnh sát là tấm hộ chiếu mang tên Hans Grauber nhặt được từ chỗ đâm xe. Các thám tử quây quanh cái cặp và túi ngủ đêm. Giám đốc ngoại thương của Zeiss được triệu tập đến, phủ nhận rằng ông không hề biết một Hans Grauber nào hết, nhưng đúng ông từng có quan hệ buôn bán với BKI ở Würzburg. Khi đối chứng với chữ ký trên các thư giới thiệu, ông tuyên bố nó chỉ giống chứ không phải chữ ký của ông.
Bởi vì hộ chiếu là của Tây Đức, viên chỉ huy cảnh sát thông báo cho cơ quan SSD địa phương theo quy định. Mười phút sau, nhân viên của họ đã có mặt. “Hãy chở chiếc xe đến garage chính của chúng tôi ở Erfurt”, họ nói. “Ngừng ngay việc in vân tay lung tung lên nó. Và đưa nộp tất cả những đồ đạc thu được trong xe, cùng tất cả tường trình của các nhân chứng. Ngay bây giờ.”
Viên đại tá cảnh sát thừa hiểu ai mới là người có quyền hành ở đây. Khi mà Stasi đã ra lệnh, ông chỉ có việc tuân theo. Chiếc BMW đen được chở đến garage của SSD ở Erfurt lúc bốn giờ rưỡi và các chuyên viên cơ khí của cảnh sát cũng phải nhận rằng SSD đúng. Mọi sự đều có vẻ vô lý. Người Tây Đức kia đáng lẽ chỉ phải đền tiền và nộp phạt nặng vì lái xe trong khi say rượu - Đông Đức luôn khát ngoại tệ mạnh. Nhưng giờ thì hắn sẽ phải ngồi tù. Vậy tại sao hắn chạy? Dù cho Stasi muốn làm gì với cái xe đi nữa thì nhiệm vụ của ông vẩn phải là tìm cho được người lái BMW. Ông ra lệnh cho mọi xe cảnh sát và mọi đội tuần tra trong vùng phải để mắt tới Grauber và chiếc xe tuần tra bị cướp. Mô tả người và chiếc xe được truyền qua radio tới các đơn vị, từ Apolda phía Bắc đến Weimar ở phía Tây Jena. Không thấy có thông cáo báo chí để kêu gọi sự trợ giúp của dân chúng. Và tất cả những liên lạc radio ồn ào đó đã được Archimedes thu nhận.
Bốn giờ chiều, Dr. Herrmann gọi cho Dieter Aust ở Cologne. Ông không nói gì về kết quả giám định hoặc những thông tin nhận được từ Johann Prinz tối qua. Aust không cần phải biết những thứ đó.
“Tôi muốn nói chuyện riêng với Frau Morenz.” Ông nói. “Anh đã cài một nữ nhân viên bên cạnh bà ta rồi chứ? Tốt. Cứ để cô ta đó. Nếu cảnh sát đến thẩm vấn Frau Morenz, đừng ngăn cản, nhưng cho tôi biết ngay. Cố gắng moi ở bà ta bất kỳ điều gì gợi cho biết hắn có thể đi đâu, nhà nghỉ nào, hay nhà riêng của bồ bịch, họ hàng - tất cả. Sử dụng toàn bộ nhân viên của anh cho việc bám theo bất kỳ đầu mối nào bà ta cho. Báo cáo lại chi tiết cho tôi.”
“Ông ta không có họ hàng nào ở đây cả.” Aust, vốn đã đọc hồ sơ cá nhân của Morenz, đáp. “Trừ vợ, con trai, con gái. Con gái ông ta là hippie, đang vật vờ ở Dusseldorf. Tôi sẽ để mắt đến nó, trong trường hợp này.”
“Làm đi.” Herrmann nói và đặt phôn xuống. Sau đó, căn cứ vào một chi tiết đọc được trong hồ sơ Morenz, ông gửi ngay một tín hiệu loại blitz cho Wolgang Fietzau, nhân viên BND làm việc trong tòa Đại sứ Đức, London.
Năm giờ, điện thoại cầm tay trong chiếc Range Rover reo chuông. McCready cầm lên. Anh nghĩ đó là London hay Archimedes. Tiếng nói trong ống nghe vang lên yếu ớt, khó nhọc dường như người nói bị nghẹt thở.
“Sam? Anh đấy phải không, Sam?”
McCready đờ người ra. “Phải.” Anh vội nói. “Tôi đây.”
“Xin lỗi anh. Vô cùng xin lỗi. Tôi làm hỏng hết rồi.”
“Anh không sao chứ?” McCready hối hả nói. Morenz đang lãng phí những giây sống còn.
“Tôi đi đứt rồi, Sam. Tôi không định giết cô ấy. Tôi yêu cô ấy, Sam. Tôi yêu nàng.”
McCready đập máy, cắt đứt cuộc điện đàm. Không ai có thể gọi sang phương Tây từ một trạm điện thoại Đông Đức. Điều đó là bất khả. Nhưng SIS duy trì một nhà an toàn ở vùng Leipzig, do một nhân viên người Đông Đức làm việc cho London, nắm giữ. Cuộc gọi từ đó sẽ chuyển phát lên vệ tinh để gửi đến phương Tây.
Nhưng các cuộc liên lạc không được quá bốn giây để tránh bị các thiết bị định vị của Đông Đức phát hiện. Morenz đã lảm nhảm đến chín giây. Mặc dù McCready không biết chính xác nhưng chắc bộ phận quản lý sóng của SSD đã lần được đến tận Leipzig rồi. Chỉ cần sáu giây nữa, bọn họ sẽ đến được ngôi nhà Morenz đã được phép sử dụng nơi này nhưng chỉ khi khẩn cấp và cực kỳ hãn hữu.
“Anh ta sụp rồi.” Johnson nói. “Vỡ tan từng mảnh.”
“Trời đất, anh ta khóc như trẻ con.” McCready cáu kỉnh. “Hoàn toàn suy sụp thần kinh. Nói những điều tôi không hiểu nổi. Cái quái gì mà Tôi không định giết cô ấy.”
Johnson có vẻ suy nghĩ. “Anh ta ở Cologne à?”
“Anh biết rồi còn gì?”
Thực ra, Johnson không biết. Anh chỉ biết rằng mình phải đón McCready từ Hotel Holiday Inn ở gần sân bay Cologne. Anh chưa từng biết Yêu tinh. Cũng không cần thiết phải biết. Anh nhặt tờ báo địa phương và chỉ cột báo in trên trang nhất. Đó là bài viết của Guenther Braun trên tờ báo của anh ta ở Cologne, được in lại trên tờ Nordbayrischer Kurier, tờ báo của vùng Bắc Bavarie, in ở Bayreuth. Bài báo được đặt cái tít Cologne - Gái gọi/ Ma cô bị tàn sát trong ổ nhện mới khám phá. McCready đọc rồi buông tờ báo và nhìn trừng trừng về hướng Bắc.
Ôi, Bruno, ông bạn khốn khổ của tôi. Ma quỷ nào xui khiến anh làm thế. Năm phút sau, Archimedes gọi đến.
“Chúng tôi nghe thấy rồi.” Viên sĩ quan trực nói. “Tôi cho là... và ai cũng nghĩ thế. Tôi xin lỗi. Anh ta đi đứt rồi, phải không?”
“Có tin gì mới không?” Sam hỏi.
“Họ đang nói đến cái tên Hans Grauber.” Archimedes trả lời. “Có lệnh truy tìm anh ta trên toàn vùng Nam Thuringia. Say rượu, chống người thi hành công vụ, cướp xe cảnh sát. Anh ta lái chiếc BMW đen, đúng không? Họ đã đưa nó về garage của SSD ở Erfurt. Tất cả đồ đạc bị thu giữ và chuyển giao cho Stasi.”
“Vụ đụng xe chính xác là vào mấy giờ?” Sam hỏi.
Viên sĩ quan trực trao đổi với một ai đó.
“Cuộc gọi đầu tiên tới sơ cảnh sát Jena là từ một xe tuần tra. Người gọi hiển nhiên là viên cảnh sát không bị đánh. Anh ta nói năm phút trước. Đăng ký thu lúc mười hai giờ ba lăm.”
“Cám ơn.” McCready nói.
Tám giờ sáng ở garage Erfurt, một thợ máy phát hiện ra ngăn hẹp dưới dãy bình ắc quy. Một người mặc thường phục bước đến, người này là thiếu tá SSD. Cả hai xem xét kỹ cái ngăn, viên thiếu tá gật đầu.
“Ein Spionwagen.” Anh ta nói. Một cái xe gián điệp. Việc khám xe lại tiếp tục mặc dù chả còn gì mà phát hiện. Viên thiếu tá lên lầu gọi điện cho Lichtenberg, trụ sở SSD ở Đông Berlin, biết rất rõ nơi cần gọi đến: Abteilung II, Cục chống gián điệp của SSD. Ở đó, nội vụ được chuyển đến đích thân Cục trưởng Abteilung, đại tá Voss. Mệnh lệnh đầu tiên của ông là chuyển toàn bộ vụ này lên Đông Berlin; lệnh thứ hai là đưa tất cả những người chỉ cần và đã từng thoáng thấy chiếc BMW hay chủ của nó, kể từ khi nhập cảnh, bắt đầu là lính biên phòng đồn Saale, về thẩm vấn lập tức. Cuối cùng, cả đám nhân viên khách sạn Gấu Đen, cả hai viên thanh tra giao thông từng chạy vượt chiếc BMW trên Autobahn - đặc biệt là hai người đã làm hỏng cuộc hẹn đầu tiên, và cuối cùng là hai cảnh sát trên chiếc xe bị cướp.
Lệnh thứ ba của Voss là chấm dứt tuyệt đối bất kỳ cuộc trao đổi nào có liên quan tới sự vụ này trên bộ đàm võ tuyến hoặc trên đường dây không bảo mật. Ra lệnh xong, ông nhấc điện thoại nội bộ gọi cho Abteilung VI, lực lượng an ninh cửa khẩu và sân bay.
Mười giờ tối, Archimedes gọi cho McCready lần cuối.
“Tôi e mọi việc đã kết thúc.” Sĩ quan trực nói. “Không, họ chưa bắt được ông ta, nhưng rồi sẽ bắt được. Chắc họ đã phát hiện ra cái gì ở garage Erfurt. Liên lạc vô tuyến dầy đặc, dùng mật mã giữa Erfurt và Đông Berlin. Tất cả những cuộc trao đổi vớ vẩn khác trên sóng bị cắt hết. Ở, các trạm biên giới đều báo động mức cao, tăng gấp đôi lính gác, quét đèn pha liên tục. Số đã định rồi. Xin lỗi.”
Ngay chỗ đang đứng, McCready cũng thấy trong mấy giờ qua có rất ít ánh đèn ôtô chạy từ phía Đông Đức ra biên giới. Chắc hẳn họ giữ xe lại hàng giờ, ở nơi cách xa biên giới cả dặm đường để bảo đảm một con chuột cũng khó lọt qua.
Mười rưỡi, Timothy Edwards gọi ở bên máy.
“Coi, chúng ta đều rất tiếc, nhưng mọi sự đã kết thúc rồi.” Anh ta nói. “Trở về London, ngay lập tức, Sam.”
“Họ vẫn chưa bắt được anh ta. Tôi phải ở lại đây, may ra có thể làm gì. Mọi sự chưa phải đã kết thúc.”
“Dừng ngay lại.” Edwards khăng khăng, “Ở đây có những chuyện cần phải bàn - việc mất tài liệu không phải là thiệt hại duy nhất. Các ông anh American của chúng ta là những người không được dễ chịu lắm, nói thật đấy. Cho nên, hãy lên ngay chuyến bay đầu tiên từ Munic hay Frankfurt, chuyến đầu tiên trong ngày mai.”
McCready tranh thủ ngủ được vài giờ ở phi trường Sheraton và lên chuyến bay đầu tiên về Heathrow, hạ cánh lúc tám giờ. Denis Gaunt đón anh và đưa thẳng về Nhà Thế Kỷ. Anh đọc tập điện thu trộm ngay trên ôtô.
Thiếu tá Ruth dậy sớm vào sáng thứ năm ấy và vì không có phòng tập thể thao, nàng đành tập kiểu “ngồi gập” trong phòng riêng. Chuyến bay của nàng vào buổi trưa, và nàng muốn tạt qua trụ sỏ để kiểm tra lần cuối hành trình của người mà nàng săn đuổi.
Nàng biết hắn đã từ Erfurt về Potsdam trong đoàn xe quân sự tối qua và ngủ đêm trong nhà sĩ quan ở đó. Nàng và hắn sẽ bay cùng chuyến Potsdam-Berlin trưa nay
Lúc tám giờ, nàng đi bộ đến trụ sở và rẽ vào phòng truyền tin. Ở dây có khả năng gọi Potsdam để khẳng định lại chuyến bay. Trong lúc chờ tin, ngồi chung bàn cà phê với một trung úy trẻ, nom mệt lử và ngáp luôn miệng.
“Thức suốt, đêm à?” Nàng hỏi.
“Ừm... Cả đêm. Suốt đêm bọn họ cứ nhặng xị cả lên.”
Anh ta không xưng hô cấp bậc của nàng vì nàng đang mặc thường phục và từ ngữ anh ta sử dụng toát lên vẻ rất không hài lòng.
“Có chuyện gì thế?” Nàng hỏi.
“Ồ, họ bắt giữ một xe Tây Đức và phát hiện một ngăn bí mật. Cho là nó được sử dụng bởi một nhân viên của họ.”
“Ở ngay Berlin?”
“Không, dưới mạn Jena.”
“Chính xác là ở chỗ nào trong Jena?”
“Coi này, cô em. Phiên trực hết rồi. Tôi đi ngủ đây.”
Nàng mỉm cượi khả ái, mở xách tay và chìa thẻ bìa đỏ của mình ra. Viên trung úy ngừng ngáp, mặt tái đi. Một thiếu tá của Cục Ba thì quả là vận rủi rồi. Anh ta chỉ cho nàng thấy - trên tấm bản đồ treo tường ở đầu kia căng tin. Nàng cho anh ta đi rồi tiếp tục xem bản đồ Zwickau, Gera, Jena. Erfurt - nằm trên một con đường liên tục, con đường của đoàn xe quân sự có con người mà nàng săn đuổi đi qua. Hôm qua...Erfurt. Và Jena chỉ cách mười bốn dặm. Gần quá, gần một cách chết tiệt.
Mười phút sau, một viên thiếu tá đã chỉ dẫn nàng phương cách điều tra của vụ này.
“Đến giờ, nội vụ chắc sẽ thuộc quyền Abteilung II. Thuộc quyền đại tá Voss. Ông ta chịu trách nhiệm về nó.”
Nàng sử dụng điện thoại, tranh thủ được một vài giới chức và hẹn được một cuộc gặp tại trụ sở Lichtenberg với đại tá Voss. Vào lúc mười giờ.
Chín giờ, giờ London, McCready ngồi vào phòng họp bên dưới phòng Sếp một tầng, trong Nhà Thế Kỷ. Claudia Stuart ngồi đối diện, ánh mắt trách móc. Chris Appleyard bay tới London để tự mình hộ tống cuốn sách sẽ nhận được về Langley, giờ rít thuốc, mắt nhìn lên trần nhà. Cử chỉ như muốn nói: vụ này hoàn toàn là của bọn Ăng Lê (Anglais) các anh. Các anh đã làm nát bét nó ra, vậy bây giờ dọn đi. Timothy Edwards chiếm chiếc ghế đầu bàn, đóng vai người phán xử. Chương trình thì chỉ có một nhưng không ai nói ra: đánh giá thiệt hại. Còn chuyện hạn chế nó thì hậu xét, nếu như còn có thể làm gì. Cũng chẳng ai cần phải được giải thích; tất cả mọi người đều đã đọc tập điện đàm thu trộm được và các báo cáo về điệp vụ.
“Vấn đề là”, Edwards khởi sự, “Yêu Tinh, người của Sam, đã làm bung bét mọi sự và thế là điệp vụ đi đời. Giờ chúng ta chỉ còn xem có cứu được gì nữa không.”
“Ma quỷ nào khiến anh phái hắn đi, Sam?” Claudia hỏi, giận điên lên.
“Cô biết tại sao rồi. Tại cô muốn phải làm việc đó. Tại cô không thể tự mình làm việc đó. Tại đó là một việc cấp bách. Tại tôi bị cấm không thể đi. Tại Otto chỉ đòi gặp mỗi mình tôi. Tại Yêu Tinh là người duy nhất có thể thay thế tôi. Tại vì anh ta nhận lời đi.”
“Nhưng đến giờ hóa ra là”, Appleyard dài giọng, “anh ta đã giết cô gái gọi và đã xẹp hết hơi. Chẳng lẽ anh không nhận ra điều gì sao?”
“Không. Anh ta tỏ ra hồi hộp nhưng vẫn kiềm chế được. Hồi hộp là bình thường - trước một thời điểm quyết định. Anh ta không nói với tôi về chuyện riêng của anh ta, còn tôi không phải thầy bói.”
“Điều khốn nạn nhất,” Claudia nói, “là y đã gặp Otto. Khi bị Stasi bắt, y sẽ khai hết. Đương nhiên là ta sẽ mất Otto nhưng có trời biết sẽ phải thiệt hại bao nhiêu nữa với những lời khai của hắn sau đó.”
“Bây giờ Otto ở đâu?” Edwards hỏi.
“Theo kế hoạch, hắn sẽ lên máy bay ở Potsdam bay về Berlin đúng giờ này đây.”
“Cô không thể báo cho hắn à?”
“Không thể. Về đến nơi, hắn sẽ đi ngay cùng những người kia đến khu nghỉ. Chúng tôi không thể làm gì cho đến khi hắn lại trở về Potsdam - nếu hắn còn trở về.”
“Còn cuốn Điều lệnh chiến tranh?’’ Edwards hỏi.
“Tôi nghĩ Yêu Tinh vẫn đang giữ nó.” McCready đáp.
Tất cả đều chú ý vào anh. Appleyard thôi rít thuốc.
“Tại sao?”
“Thời gian. Hẹn lúc mười hai giờ. Giả sử anh ta rời điểm hẹn lúc mười hai giờ hai mươi. Vụ đụng xe xảy ra lúc mười hai giờ ba mươi, cách đó mười phút và năm dặm đường, phía bên kia Jena. Tôi nghĩ nếu đã kịp giấu quyển sách vào ngăn thì thậm chí trong tình trạng như vậy anh ta vẫn đủ sáng suốt để chấp nhận chịu phạt vi cảnh lái xe trong khi say rượu, nằm khám một đêm, và nộp phạt. Có cơ là cảnh sát sẽ không khám cái xe quá kỹ.
“Còn nếu nó nằm trong xe thì tôi tin chắc thế nào cũng có trò reo mừng của cảnh sát trên làn sóng. SSD sẽ được huy động trong vòng mười phút chứ không phải hai giờ sau. Tôi chắc anh ta vẫn giữ nó bên mình - ngay trong áo jacket. Vì thế mới không chịu đến đồn cảnh sát, vì ở đó chúng sẽ lột áo ra để thử máu: Cho nên anh ta bỏ chạy.”
Im lặng kéo dài vài phút.
“Tất cả lại quay về Yêu Tinh.” Edwards nói. Mặc dù ai nấy đều biết tên thật, họ vẫn thích gọi mật danh công tác hơn. “Anh ta chắc chắn phải trốn ở đâu đó. Anh ta sẽ đi đâu? Nhà an toàn? Hay một cái gì khác.”
McCready lắc đầu. “Anh ta biết một nhà an toàn ở Đông Berlin Tôi đã thử gọi, không có. Tại miền Nam, anh ta không hề biết ai. Chưa từng ở đó mà.”
“Hay là nấp trong rừng?’ Claudia hỏi.
“Vùng ấy không có rừng. Chỉ có trang trại, thị trấn, làng mạc, nông trại... liên tiếp.”
“Không thể có chỗ cho một kẻ chạy trốn đã mất hết lý trí.” Appleyard nói.
“Vậy là ta mất anh ta.” Claudia nói. “Anh ta, quyển Điều lệnh chiến tranh và Otto. Mất tất.”
“Tôi e là sự việc sẽ như vậy.” Edwards nói. “Cảnh sát Đông Đức sẽ dùng chiến thuật biển người. Vây kín đến từng ngõ ngách. Tôi sợ trưa nay là họ tóm được anh ta.”
Cuộc họp kết thúc ở nốt buồn này. Khi những người Mỹ đã đi, Edwards giữ McCready lại.
“Sam, tôi biết đã tuyệt vọng nhưng anh vẫn cứ theo, đúng không? Tôi đã yêu cầu Cheltenham và trạm Đông Đức tăng cường nghe ngóng và thông báo ngay khi tóm được bất cứ tin gì. Ta sẽ phải xoa dịu các ông anh, dù sao đi nữa, mặc dù có trời biết phải xoa thế nào.”
McCready trở về phòng trong nỗi thất vọng sâu sắc. Anh nhấc ống nghe ra và đăm đắm nhìn lên trần.
Nếu uống được rượu, chắc là anh đã với lấy cái chai. Nếu không bỏ thuốc mấy năm trước, chắc anh đã moi ra hút. Thua rồi, anh biết thế. Dù có nói gì với Claudia về những áp lực đè lên mình thì cuối cùng vẫn là anh quyết định phái Morenz đi. Và đó là quyết định sai.
Anh đã đánh mất cuốn Điều lệnh chiến tranh và chắc đã làm rụng Otto. Thật đáng ngạc nhiên khi biết rằng anh là người duy nhất ở đây coi những tổn thất đó là không quan trọng bằng việc đã đưa bạn mình đến chỗ chết do đã kém tinh tường, không nhận thấy những dấu hiệu mà bây giờ - quá muộn rồi – mới thấy là quá rõ ràng. Morenz ở trong tình trạng không thể đi được. Anh ta ra đi chỉ vì không muốn làm bạn mình, Sam McCready, thất bại.
Kẻ Lừa Dối biết - dù lại là quá muộn - rằng từ nay về sau, suốt đời anh, vào những giờ thao thức, khi giấc ngủ không chịu đến, khuôn mặt phờ phạc của Bruno Morenz trong phòng khách sạn hôm ấy sẽ luôn trở lại với anh...
Bây giờ Bruno Morenz ra sao? Anh ta phản ứng thế nào với hoàn cảnh? Một cách logic? Hoặc điên rồ? Anh sực nhớ, vội gọi đến nhà thần kinh học, cố vấn của cơ quan, một bác sĩ xuất sắc nhưng vẫn thường bị gọi bằng cái biệt danh suồng sã “Rụt vòi”. Dr. Carr nói rất vui được giúp McCready vụ tư vấn đặc biệt này.
Đúng mười giờ, Ruth tới chỗ đại tá Voss đang đợi. Ông dẫn nàng vào văn phòng và nàng cà phê. Khi người phục vụ đã ra, ông lịch sự hỏi “Tôi có thể giúp gì cho đồng chí, thưa thiếu tá?”
Ông tò mò, không hiểu ngọn gió nào đã đưa lại cuộc viếng thăm này, bởi với ông, hôm nay thực sự là ngày bận rộn. Nhưng lời yêu cầu lại được gửi đến từ viên tướng chỉ huy Cục 3 khiến đại tá Voss thực khó mà từ chối.
“Đồng chí đang xử lý vụ việc ở Jena?” Ruth hỏi. “Một tình báo viên Tây Đức đụng xe và bỏ trốn. Liệu tôi có được phép biết chi tiết vụ đó không?”
Ông bổ sung những gì chưa có trong bản Ruth đã đọc.
“Tóm lại,” Ruth nói khi ông kết thúc, “tình báo viên này, Grauber, đến để nhận hay trao một cái gì đó... Có tìm thấy gì chứng tỏ hắn định mang ra hay vào không?”
“Chẳng gì hết. Tất cả giấy tờ của hắn đều giả mạo. Cái ngăn rỗng không. Nếu mang gì vào, hắn đã trao nó rồi. Nếu định mang gì ra, hắn chưa nhận được nó.”
“Hoặc vẫn giữ nó trong người?”
“Có thể. Ta sẽ rõ khi thẩm vấn hắn. Tôi có thể biết tại sao thiêu tá quan tâm đến vụ này không?”
“Có khả năng, nhỏ thôi, là vụ tôi đang theo cũng liên quan đến vụ này.” Bên trong vẻ mặt thản nhiên, Voss bối rối thực sự. Vậy cô nàng kiều diễm này nghi ngờ tên người Tây Đức có liên hệ với một nhân vật cao cấp của quân đội? Ruth nói tiếp. “Có lý do nào để ngờ, thưa đại tá, rằng Grauber đến gặp trực tiếp, hay qua một hộp thư chết?”
“Chúng tôi tin hắn đến gặp trực tiếp.” Voss trả lời. “Mặc dù vụ đụng xe xảy ra lúc mười hai giờ ba mươi hôm qua, nhưng hắn đã qua biên giới từ mười một giờ hôm trước. Nếu hắn chỉ đơn giản đặt gì đó vào hộp thư chết hoặc nhặt đi, thì hắn có thể đã làm ngay đêm đó. Thế mà hắn lại qua đêm thứ ba tại khách sạn Gấu Đen ở Jena. Chúng tôi tin hắn đến để trao hoặc nhận tận tay.”
Tim Ruth đập mạnh. Một cuộc gặp trực tiếp ở -vùng Jena - Weimar, có lẽ dọc đường giao thông, con đường mà kẻ bị nàng săn đuổi đang đi trong cùng thời gian. Chính là Grauber đến gặp tên phản bội khốn kiếp này! Nàng nghĩ.
“Đồng chí có nhận dạng Grauber chưa? Chắc cũng không phải là tên thật.”
Cố giấu sự hân hoan, Voss mở hồ sơ và trao cho Ruth bức hình vẽ theo trí nhớ, với sự giúp đỡ của hai cảnh sát Jena, hai thanh tra giao thông, người đã giúp Grauber vặn đai ốc, và đám nhân viên khách sạn Gấu Đen. Bức vẽ rất chính xác. Không thêm một lời, Voss đưa tiếp cho nàng một bức ảnh cỡ lốn. Hai bức hoàn toàn giống nhau.
“Tên hắn là Morenz.” Voss nói. “Bruno Morenz. Nhân viên chính thức của BND, căn cứ ở Cologne.”
Ruth rất đỗi ngạc nhiên. Vậy ra là một hoạt động của Tây Đức. Thế mà nàng cứ luôn luôn ngờ vực tên đó làm việc cho CIA hoặc bọn Anh.
“Đồng chí vẫn chưa bắt được hắn?”
“Chưa. Tôi phải thú nhận rất ngạc nhiên vì sự chậm trễ. Đêm qua đã tìm thấy chiếc xe cảnh sát. Báo cáo nói rằng thùng xăng bị trúng một viên đạn. Nó chỉ chạy được chừng mươi mười lăm phút sau khi bị cướp. Thấy ở gần đây, ngay phía bắc Jena, là anh chàng của chúng ta phải đi bộ. Chúng tôi đã có mô tả nhận dạng đầy đủ - cao, vạm vỡ, tóc bạc, mặc áo mưa mỏng, không có giấy tờ, nói giọng Rhineland nặng... Hắn sẽ lòi ra như ngón tay đau thôi.”
“Tôi muốn được tham dự hỏi cung.” Ruth nói.
“Nếu đó là yêu cầu chính thức của Cục 3, dĩ nhiên tôi sẽ rất vui lòng.”
“Sẽ có yêu cầu chính thức.”
“Vậy xin đừng đi đâu xa, thiếu tá. Chúng tôi sẽ tóm hắn, có lẽ chỉ đến trưa là cùng.”
Thiếu tá Ruth hủy chuyến bay và liên lạc với tướng Josef Steiner qua đường dây bảo mật. Ông đồng ý.
Mười hai giờ trưa, một máy bay quân sự từ Potsdam bay về Berlin. Đại tá Otto và các sĩ quan cao cấp ở trên khoang chính. Vài sĩ quan trẻ khác thì ở mãi đằng sau. Không thấy nàng Ruth kiều diễm đi cùng chuyến này.
“Anh ta sẽ như vậy,” Dr. Carr nói khi đang ăn món khai vị dưa hấu với lê tây, “trong cái tình trạng ta gọi là phân ly, tranh tối tranh sáng hay chứng fuga."
Ông đã nghe rất chăm chú mô tả của Sam McCready về con người nào đó hiển nhiên đã chịu đựng một cơn suy sụp thần kinh nặng nề. Ông đã không tìm hiểu, hoặc hỏi bất kỳ điều gì về nhiệm vụ người đó đang làm hay cơn suy sụp đã xảy ra ở đâu, vân vân
“Phân ly khỏi cái gì vậy?” McCready hỏi.
“Khỏi thực tại, dĩ nhiên. Đó là một trong những hội chứng kinh điển của loại bệnh này. Anh ta có thể đã biểu hiện những dấu hiệu tự lừa dối mình trước cơn gục lần cuối cùng.”
Và làm sao mà, McCready nghĩ, Morenz lại có thể tự ru mình với ý nghĩ con điếm đó thực sự yêu ông, hay ý nghĩ ông có thể trốn thoát với vụ giết người đôi đó.
“Chứng fuga", Dr. Carr tiếp tục, “nghĩa là bay. Bay đi khỏi thực tại ác nghiệt, khó chịu. Tôi nghĩ, người của anh bây giờ đang trong tình trạng xấu thực sự.”
“Vậy anh ta sẽ hành động thế nào?” McCready hỏi. “Anh ta sẽ đi đâu?”
“Sẽ đi nấp, ở nơi mà anh ta cảm thấy an toàn, có thể ẩn mình, nơi các vấn đề sẽ buông tha anh ta và được người ta để cho yên. Có thể anh ta trở lại tình trạng con trẻ. Tôi có một bệnh nhân, một lần bị quá tải với các vấn đề của mình, đã cứ nằm cuộn tròn như một bào thai, nhét ngón tay vào mồm và không chịu trở dậy nữa. Như trẻ con, anh thấy đấy. An toàn, yên ổn. Thoát khỏi mọi sự..”
Nghe hay đấy, McCready nghĩ, nhưng Bruno Morenz thì trốn đâu được? Sinh ra và lớn lên ở Hamburg, làm việc ở Berlin, Munie rồi Cologne, khó lòng có chỗ yên ổn ở Jena hay Weimar. Anh rót thêm rượu vang rồi hỏi.
‘"Nếu giả sử không có chỗ để nấp?”
“Vậy thì anh ta sẽ trở nên mù lòa trong tình trạng bối rối cực độ, không thể tự cứu mình. Theo kinh nghiệm của tôi, nếu có thể trốn, anh ta sẽ hành động một cách logic để đến đó. Còn nếu không...” ông bác sĩ nhún vai. “sẽ bị bắt. Có khi bây giờ đã bị bắt rồi. Muộn nhất là đến tối.”
Nhưng Morenz đã không bị bắt, đúng hơn là chưa bị. Qua buổi chiều, cơn giận dữ và thất vọng của đại tá Voss lên tới cực điểm. Thế là đã qua hai tư giờ, sắp tới ba mươi giờ - cảnh sát và mật vụ rải đầy đường ngang ngõ tắt trong vùng Apolda - Jena - Weimar; vậy mà cái thằng Tây Đức béo ị, bẩn mắt, bệnh hoạn, loạn thần kinh ấy lại biến mất như tan vào không khí vậy.
Voss lồng lộn trong văn phòng. Ruth ngồi trong căn hộ riêng; nhân viên ôm máy thu tin ở Schloss Lowenstein và Cheltenham; xe cộ bị dừng lại kiểm tra trên tất cả các trục đường chính, phụ ở nam Thuringia; McCready uống đến cả một sông cà phê đặc ở Nhà Thế Kỷ... Vô ích. Bruno vẫn biệt tăm tích.