PHẦN BA- MỘT CHÚT NẮNG Chương 1
Vượt trên mặt biển lăn tăn những gợn sóng lấp lánh, chiếc Gulf Lady lên đường trở về, một giờ trước khi mặt trời lặn. Julio Gomez ngồi ở mũi tàu, lưng dựa vào thành cabin, đôi chân đi giầy moccasin duỗi dài, thỏa mãn rút điếu xì gà Puerto Rico ra, và cái mùi ngầy ngậy của khói xì gà bắt đầu lan tỏa trên sóng nước Caribbe.
Vào giờ phút này, anh là một người hạnh phúc. Mười dặm phía sau anh là vực nước lớn, chỗ mà con đê biển vĩ đại Bahama ăn vào kênh Santaren; nơi chỉ có cá mặt trăng đuổi theo cá đuối và cá ngừ California săn cá hồi thường. Loài cá này lại bị hút theo tiếng đập, gõ và cuối cùng làm mồi cho cá cò và cá kiếm lớn.
Trong khoang thuyền cũ nát phía lái, hai con cá ngừ tuyệt diệu đang chờ, một cho anh, một cho thuyền trưởng, người đang hướng con thuyền đánh cá cho thuê của ông ta về cảng Plaisance.
Đâu phải thu hoạch một ngày của anh chỉ là hai con ngừ; còn một con cá cờ rất tuyệt (rồi lại được thả về biển), một mẻ lưới cá ngừ nhỏ dùng để làm mồi; một con cá ngừ Canifornia vẩy vàng mà anh ước chừng khoảng bảy mươi pao [1] trước khi nó lặn xuống quá nhanh và quá sâu, đến nỗi anh phải cắt dây câu nếu không muốn nhìn cái guồng dây đứt tung ra ngay trước mắt mình; rồi hai con cá chó màu hổ phách mà với mỗi con anh đều phải vật lộn đến ba mươi phút mới kéo lên được. Anh thả những con cá lớn về biển, chỉ để lại cá ngừ, bởi đây là một trong những giống cá ngon nhất ở vùng nhiệt đới.
Julio Gomez không thích sát sinh. Cái hàng năm thu hút anh đến vùng nước này là thú được nghe tiếng rin rít của dây câu chạy qua guồng, cái hồi hộp khi cần câu bị kéo cong và cái kích động tột cùng của cuộc đấu sức với con cá vùng vẫy như quỷ dữ. Đó là một ngày tuyệt đẹp.
Ớ tít xa sau anh, ngoài tầm đảo Tortugas khuất sau chân trời, quả cầu lửa đỏ rực đang hạ nhanh xuống biển, làm dịu đi tia nắng cháy da, nhường chỗ cho cái mát lạnh của ngọn gió và màn đêm.
Ba dặm phía trước Gulf Lady, hòn đảo dần hiện ra, lừng lững. Họ sẽ thả neo sau hai mươi phút nữa. Gomez búng mẩu xì gà, xoa xoa cườm tay. Dù có làn da nâu tự nhiên, anh vẫn phải xoa kem lên người khi trở về nhà trọ.
Jimy Dobbs đứng ở lái thì khỏi cần. Ông sinh ra, lớn lên trên đảo, có thuyền riêng cho du khách thuê câu cá. Trên làn da gỗ mun của ông, mặt trời chẳng nghĩa lý gì.
Julio Gomez nhảy xuống đuôi thuyền.
“Để tôi lái cho, Jimmy. Ông hãy đi mà lau sàn.”
Jimmy Dobbs cười toét miệng, lấy xô, chổi cọ rửa vẩy cá, ruột cá... đẩy hết xuống lỗ thông. Hàng chục con nhạn biển không biết từ đâu hiện ra, sà xuống mổ bằng sạch. Chẳng có gì bỏ phí trên biển, đúng hơn, chẳng chất hữu cơ nào bỏ phí ở đây.
Dĩ nhiên, có khối thuyền đánh cá kiểu hiện đại cho thuê ở vùng Carribbe này; những thuyền có vòi phun nước mạnh gắn với động cơ để rửa sàn, có bar rượu, có máy thu hình và cả đầu video, có thiết bị dò cá điện tử, có cả các thiết bị dẫn đường, dư sức đi vòng quanh thế giới. Gulf Lady thì chỉ là con thuyền gỗ cũ, sứt mẻ, với một động cơ diesel kiểu Perkins khói mù mịt, nhưng đã lênh đênh trên mặt nước nhiều hơn tất cả các vùng nước mà những thằng nhóc ở Florida Keys có thể dùng radar quét qua. Nó có một cabin nhỏ phía trước, một mớ cần và dây câu sực mùi cá và dầu máy, một sàn thuyền không mái có đến mười trụ cắm câu và một cái ghế câu duy nhất tự đóng lấy bằng gỗ sồi, với đệm ngồi tách rời.
Jimmy Dobbs không có vi mạch sillicom để tìm cá, ông tự tìm lấy thôi, theo cách mà cha ông đã truyền lại, căng mắt ra mà tìm những dấu hiệu nhỏ nhất của sự thay đổi màu nước, gợn sóng lăn tăn trên mặt nước, con chim bổ nhào xuống nước ở nơi rất xa... Ông có linh tính kỳ diệu về mặt đó, và ngày nào cũng tìm được cá. Đó chính là lý do Julia Gomez cứ mỗi vụ nghỉ lại đến đây câu cá với ông.
Sự thiếu vắng văn minh của hòn đảo khiến cho Julio hài lòng. Cả sự thiếu vắng của kỹ thuật hiện đại trên Gulf Lady cũng vậy. Anh đã cả đời phải đắm mình vào kỹ thuật hiện đại Mỹ; nào đưa các câu hỏi vào máy tính, nào luồn lách ôtô qua những đường phố chật ních ở trung tâm Miami, vân vân... Nên với những kỳ nghỉ, thậm chí ngày nghỉ, anh chỉ muốn biển, mặt trời, gió, và cả cá nữa, bởi anh, Julio Gomez, chỉ có hai đam mê trong cuộc sống: công việc và câu cá. Anh vừa có năm ngày cho việc đó và chỉ còn có hai ngày nữa, thứ sáu và thứ bảy. Chủ nhật là anh phải bay về Florida để sáng thứ hai, đến báo cáo công việc với Eddie. Nghĩ đến đây anh thở dài.
Jimmy Dobbs cũng đang hạnh phúc. Ông đã qua một ngày tuyệt diệu với khách hàng, và cũng là bạn ông nữa. Ông có vài đôla trong túi để mua một bộ đồ cho bà vợ già, với một con cá ngon dành cho bữa tối của họ cùng lũ con. Liệu còn mong đợi gì hơn ở cuộc sống nữa?
Họ thả neo lúc năm giờ trong một bến đỗ bằng gỗ cũ kỹ dành cho thuyền đánh cá mà không hiểu sao vẫn chưa sụp đổ. Viên thống đốc trước đã hứa sẽ yêu cầu London cho tiền để xây cái mới, nhưng ông ta đã bị thay chỗ bởi ông bây giờ, Sir Marston Moberley, và ông này thì chẳng quan tâm gì đến cá mú. Cũng chẳng quan tâm gì hơn đến dân đảo, nếu như những chuyện đồn đại ở Shanty-town có thể tin được; và chuyện bao giờ chả như vậy.
Như thường lệ, bọn trẻ ùa ra xem thuyền có đánh bắt được gì không và mang giúp cá lên bờ. Vẳng lên tiếng cười đùa chen lẫn tiếng hát du dương bằng ngôn ngữ bản địa khi chiếc Gulf Lady cặp bến, trước khi trời tối.
“Ngày mai ông rỗi chứ, Jimmy?” Gomez hỏi.
“Chắc rồi. Anh muốn đi nữa à?”
“Thì tôi ở đây để đi mà. Hẹn ông tám giờ nhé.”
Julio Gomez cho thằng bé một đôla để nó mang cá cho anh rồi cùng đi vào đường phố bụi bặm của Port Plaisance. Họ không phải đi xa, bởi nơi này có lẽ chỉ lớn hơn cái làng một chút.
Đó là kiểu ‘Thành phố’ phổ biến trên những hòn đảo nhỏ vùng Caribbe, cái mớ lộn xộn những nhà cửa một mái bằng gỗ sơn màu sáng, và xen giữa chúng là những con đường nhỏ trải đầy vỏ sò vỏ hến. Dọc theo bờ biển, bao quanh các vịnh nhỏ với những khối san hô đó làm nơi thả neo cho con tàu buôn vẫn đến đây hàng tuần, là những ngôi nhà đẹp hơn, như trạm hải quan, tòa án và tượng đài chiến tranh. Tất cả đều xây bằng đá san hô đó.
Xa hơn nữa là tòa thị chính, nhà thờ Anh giáo, trạm cảnh sát, và khách sạn Quarter Deck. Ngoài những nhà đó, và thêm cái nhà kho khung thép xấu xí ở đầu kia bến cảng, các nhà còn lại chủ yếu làm bằng gỗ. Ở ngay rìa thành phố, sát bờ biển, là tư thất của Thống đốc, rồi Dinh Thống Đốc, tất cả đều màu trắng, với hai khẩu thần công kiểu Napoleon đặt hai bên cửa, và cột cờ ở giữa bãi cỏ xanh được tỉa xén cẩn thận. Suốt ngày, lá cờ Anh quốc reo phần phật và khi Julio Gomez đi ngang qua để về nhà trọ của mình, nó mới được trịnh trọng hạ xuống bởi viên cảnh sát, trước sự chứng kiến của người phụ tá cho Thống đốc.
Gomez thừa sức ở Quarter Deck nhưng anh thích cái không khí gia đình ở nhà trọ của bà quả phụ Macdonald có mái tóc xoăn trắng như tuyết, thân hình đồ sộ và bà nấu món Chowser [2] bằng ốc xà cừ thì ngon tuyệt trần đời.
Anh rẽ vào con phố nơi bà ở, bỏ qua những áp phích tranh cử lòe loẹt dán khắp mọi bức tường, hàng rào và nhìn thấy ngay đám bụi bà quét từ những bậc lên xuống của căn nhà tách biệt, gọn gàng của bà - một thứ nghi lễ mà ngày nào bà cũng làm vài lần. Bà chào đón anh và con cá của anh với nụ cười rạng rỡ hàng ngày.
“Chứ sao nữa, Mistah[3] Gomez, con cá này rất tuyệt.”
“Để nấu bữa tối, bà Macdonald, và tôi nghĩ là nó đủ cho tất cả chúng ta.”
Gomez trả tiền cho thằng bé, nó tung tăng chạy ngay đi, rồi anh vào nhà. Bà Macdonald thì rút vào bếp để lo món cá ngừ nướng. Gomez tắm rửa, cạo mặt, mặc vào chiếc quần ngắn màu kem và áo cộc tay trắng, thầm quyết định sẽ uống thứ bia nhẹ, rất lạnh, và đi bộ đến bar của Quarter Deck.
Mới bảy giờ mà đường phố đã tối om, chỉ lác đác ánh đèn từ vài khung cửa sổ hắt sáng lờ mờ. Anh rảo bước vào Quảng trường Nghị viện, với đám cọ mọc trên một bãi cỏ xinh xắn ở chính giữa, còn vây quanh là nhà thờ giáo hội Anh, trạm cảnh sát và khách sạn Quarter Deck.
Anh đi qua trạm cảnh sát, nơi có những bóng đèn thắp sáng nhờ cái máy phát điện đang ầm ì đâu đó ở bến tàu. Tại ngôi nhà nhỏ xây bằng đá san hô này, Chánh thanh tra Brian Jones và lực lượng của ông ta gồm hai trung sĩ và tám cảnh sát viên, đại diện cho pháp luật và trật tự trong một cộng đồng có tỷ lệ tội phạm thấp nhất vùng Tây bán cầu. Đến từ Miami, Gomez không thể không kinh ngạc trước một xã hội đường như không ma túy, không băng nhóm, không trấn lột, không đĩ điếm, không cưỡng dâm, và mỗi năm chỉ nghe nói đến chừng nửa tá vụ trộm cắp vặt là cùng. Anh thở dài, đi nhanh qua cổng nhà thờ tối om, bước vào sảnh Quarter Deck.
[3] Mistah: Ông (tiếng Anh ) do người bản xứ phát âm sai.
Anh rẽ vào con phố nơi bà ở, bỏ qua những áp phích tranh cử lòe loẹt dán khắp mọi bức tường, hàng rào và nhìn thấy ngay đám bụi bà quét từ những bậc lên xuống của căn nhà tách biệt, gọn gàng của bà - một thứ nghi lễ mà ngày nào bà cũng làm vài lần. Bà chào đón anh và con cá của anh với nụ cười rạng rỡ hàng ngày.
“Chứ sao nữa, Mistah[3] Gomez, con cá này rất tuyệt.”
“Để nấu bữa tối, bà Macdonald, và tôi nghĩ là nó đủ cho tất cả chúng ta.”
Gomez trả tiền cho thằng bé, nó tung tăng chạy ngay đi, rồi anh vào nhà. Bà Macdonald thì rút vào bếp để lo món cá ngừ nướng. Gomez tắm rửa, cạo mặt, mặc vào chiếc quần ngắn màu kem và áo cộc tay trắng, thầm quyết định sẽ uống thứ bia nhẹ, rất lạnh, và đi bộ đến bar của Quarter Deck.
Mới bảy giờ mà đường phố đã tối om, chỉ lác đác ánh đèn từ vài khung cửa sổ hắt sáng lờ mờ. Anh rảo bước vào Quảng trường Nghị viện, với đám cọ mọc trên một bãi cỏ xinh xắn ở chính giữa, còn vây quanh là nhà thờ giáo hội Anh, trạm cảnh sát và khách sạn Quarter Deck.
Anh đi qua trạm cảnh sát, nơi có những bóng đèn thắp sáng nhờ cái máy phát điện đang ầm ì đâu đó ở bến tàu. Tại ngôi nhà nhỏ xây bằng đá san hô này, Chánh thanh tra Brian Jones và lực lượng của ông ta gồm hai trung sĩ và tám cảnh sát viên, đại diện cho pháp luật và trật tự trong một cộng đồng có tỷ lệ tội phạm thấp nhất vùng Tây bán cầu. Đến từ Miami, Gomez không thể không kinh ngạc trước một xã hội đường như không ma túy, không băng nhóm, không trấn lột, không đĩ điếm, không cưỡng dâm, và mỗi năm chỉ nghe nói đến chừng nửa tá vụ trộm cắp vặt là cùng. Anh thở dài, đi nhanh qua cổng nhà thờ tối om, bước vào sảnh Quarter Deck.
Bar nằm bên trái sảnh. Anh ngồi trên chiếc ghế cao ở góc xa và gọi món bia nhẹ, lạnh buốt. Bây giờ cho đến lúc món cá ăn được, phải cỡ một giờ, đủ thời gian để một vại bia nữa vào dạ dày sóng đôi với vại này. Bar lúc đó cũng khá đông, bởi đây là một vũng nước được ưa chuộng của du khách và dân lưu tán. Sam, tên bồi rượu vui tính mặc vét trắng, cung cấp tất cả, nào rượu punch pha với rum, bia, nước quả, coke, rum pha chanh, soda làm dịu bớt thứ rum Mount Gay cháy cổ...
Tám giờ kém năm, Julio Gomez vừa thọc tay vào túi lấy tiền trả thì bỗng dừng phắt lại, ngây ra như hóa đá, chằm chằm nhìn một người vừa bước vào, đang gọi đồ uống, ở đầu bar bên kia. Vài giây sau, vì lại ngồi xuống ghế nên anh bị đám người xúm xít bên bar ngăn mất tầm nhìn. Không thể tin ở mắt mình, nhưng anh biết mình không lầm. Anh có thể từng ngồi suốt bốn ngày đêm bên bàn, đối diện với kẻ mà nhìn vào mắt hắn anh chỉ thấy sự thù hận, sao lại quên nổi bộ mặt đó, cho dù tám năm đã trôi qua? Anh cũng có thể suốt bốn ngày đêm tìm mọi cách moi cho được một lời của hắn để rồi chẳng được lời nào, thậm chí đến tên hắn cũng chẳng biết, đến nỗi cuối cùng phải đặt cho hắn một biệt danh chỉ để có mà ghi vào hồ sơ, mà bây giờ lại quên được cái mặt hắn?
Gomez ra hiệu cho Sam rót đầy vại nữa, trả tiền, rồi lui vào một góc. Nếu hắn đã đến đây, thì chắc phải có lý do, và nếu hắn đăng ký phòng khách sạn, thì hắn phải có
một cái tên nào đó. Gomez muốn biết cái tên ấy. Anh ngồi, chờ đợi và quan sát. Tới chín giờ, hắn đang ngồi uống, một mình, và chỉ uống rum Mount Gay, bỗng đứng dậy ra về. Gomez bám theo.
Ở quảng trường Nghị viện, hắn lên chiếc xe jeep mui trần của Nhật Bản, mở máy chạy đi. Gomez tuyệt vọng nhìn quanh. Anh chẳng có xe cộ gì cả. Nhưng gần cửa khách sạn, thấy chiếc môtô mà chìa khóa vẫn cắm trong ổ, anh nhảy phắt lên. Loạng choạng một chút, rồi Gomez cũng bám theo được.
Chiếc jeep rời thành phố rồi cứ chạy theo con đường bờ biển, con đường duy nhất vòng quanh đảo. Mọi vị trí quan trọng trên đảo đều ở bên trong con đường này và có những lối nhỏ bụi bặm dẫn từ nơi đó ra đường. Chiếc jeep vượt qua khu định cư nữa của đảo, một làng mà người ta đặt tên là Shanty-towne rồi chạy qua nơi gọi là sân bay, vì nó chỉ là một đường băng trên bãi cỏ rộng.
Xe cứ chạy, cho đến khi sang tới đầu kia hòn đảo. Nơi đây, con đường chạy men khu vịnh Teach, được đặt theo Edwards Teach, hải tặc râu đen, kẻ đã có lần bỏ neo và lấy thức ăn dự trữ ở đây. Chiếc jeep rẽ khỏi đường lớn, leo lên một nhánh ngắn dẫn đến cổng sắt của một khu nhà rộng rãi có tường bao quanh. Nếu nhìn thấy đèn xe máy đằng sau suốt cả quãng đường từ khách sạn, có lẽ hắn cũng chẳng để ý gì. Nhưng chắc là hắn có nhìn thấy.
Tại cổng, thấy có người bước ra khỏi bóng tối để mở cho xe vào, nhưng hắn đã giảm tốc độ, rồi dừng lại. Hắn với lên trần xe, lôi ra chiếc đèn pin to tướng. Khi Gomez phóng qua, luồng sáng quét lên người anh rồi cứ bám theo cho đến khi anh khuất dạng trên đường.
Gomez trả chiếc môtô vào chỗ cũ rồi đi bộ về nhà, suy nghĩ căng thẳng và lo lắng, bởi đã thấy kẻ anh hằng muốn thấy, và đã không nhầm. Anh đã biết nơi kẻ đó ở, song chính anh cũng lại bị kẻ đó nhìn thấy. Anh chỉ cầu sao sau cho tám năm, trong bóng tối của đêm Caribbe, và chỉ vài giây lướt qua anh sẽ không bị nhận diện.
Bà Macdonald lo lắng vì anh về ăn tối muộn, khoảng hai giờ, bà bảo vậy, và nhìn người khách ăn món cá ngừ do bà làm, bà chẳng hài lòng chút nào. Anh đắm chìm trong suy nghĩ, và chỉ một lần thốt thành lời.
“Vô lý, cậu ạ,” bà la rầy, “làm gì có những của đó trên hòn đảo của chúng tôi.”
Julio Gomez cân nhắc suốt đêm. Hắn, kẻ anh chưa biết tên kia, ở trên đảo bao lâu anh không biết, nhưng chỉ cần hắn xuất hiện tại đây là phải báo cho người Anh, nhất là phải cho họ biết chỗ hắn ở. Anh sẵn sàng tới gặp Thống đốc, nhưng liệu ông ta có thể làm gì? Chẳng lý do gì để bắt giữ cả. Hắn đâu thâm nhập lãnh thổ Mỹ? Chắc là phải có lệnh từ London, kèm theo yêu cầu dẫn độ của Hoa Kỳ.
Anh định sáng ra sẽ gọi điện nhưng rồi lại bỏ ý nghĩ đó. Điện thoại ở đây đều là loại công cộng, dây trần, kiểu cổ, nối đến Nassau, Bahamas rồi Miami. Không chần chừ được nữa, anh phải tự mình về Florida, ngay sáng mai.
Cũng trong đêm đó, trên chuyến bay của Delta Airlines từ Washington đến Miami, trong số hành khách có một viên chức người Anh, hộ chiếu mang tên Mr. Frank Dillon, coi bộ mệt mỏi. Ông ta còn vài giấy tờ khác nữa, nhưng thấy không cần xuất trình trong chuyến bay nội địa, cho biết ông là nhân viên Bộ Ngoại giao Anh và yêu cầu các giới chức có liên quan dành cho ông mọi giúp đỡ khi cần.
Hộ chiếu, và không giấy tờ nào khác, cho biết tên thật của ông là Sam McCready, mà chỉ một nhóm sĩ quan cao cấp của CIA ở Langley, Virginia vừa cùng Sam tham dự một hội thảo kéo dài hàng tuần về vai trò cộng đồng tình báo của thế giới tự do trong thập kỷ 90, là được biết. Như thế có nghĩa họ phải lắng nghe cả loạt giáo sư, viện sĩ thuyết giảng, mà lại toàn những người thà sử dụng mười từ phức tạp còn sướng hơn dùng một từ đơn giản.
McCready gọi taxi, bảo chở đến Hotel Sonesta Beach. Anh thuê phòng và tự chiêu đãi mình bữa tôm hùm trước khi làm một giấc ngủ sâu không mộng mị. Anh đang đứng trước, hoặc tưởng vậy, bảy ngày phơi nắng trên bãi biển, đọc tiểu thuyết trinh thám rẻ tiền, đôi lúc ngước mắt khỏi ly rum pha chanh lạnh toát để nhìn con gái Florida bơi qua. Nhà Thế Kỷ xa tít đâu đâu, công việc của Xuyên tạc, Lừa dối và Tác động Tâm lý thì vẫn chạy đều với bàn tay tin cậy của phó phòng mới được chỉ định - Dennist Gaunt. Bây giờ là lúc, anh nghĩ khi bắt đầu lơ mơ, để cho Kẻ Lừa Dối có được làn da cháy nắng.
Sáng thứ sáu, Julio Gomez trả phòng bà Macdonald mà không đòi bớt tiền hai ngày về sớm, và với rất nhiều lời xin lỗi. Anh xách va ly ra Quảng trường Nghị viện gọi taxi chạy tới đường băng.
Vé của anh đặt trước hãng BWIA cho chuyến bay sáng chủ nhật, qua Nassau rồi mới tới Miami, bởi đây không có chuyến bay thẳng, tất cả đều phải qua Nassau. Ở đây cũng chẳng có đại lý, việc đặt vé diễn ra ở ngay đường băng, nên anh chỉ biết thầm mong có một chuyến bay sáng thứ sáu của BWIA. Và anh không nhận ra mình bị theo dõi từ khi bắt taxi ở Quảng trường.
Nhà ga sân bay, một cái nhà dài, đơn độc, gồm có gian hải quan, thêm vài gian nhỏ nữa, không đóng cửa, nhưng vắng ngắt. Có một viên sĩ quan kiểm tra hộ chiếu ngồi dưới nắng đọc tờ Miami Herald từ tuần trước và thêm anh nữa, Gomez, là ngươi thứ hai.
“Không phải là hôm nay, bạn ạ,” viên sĩ quan vui vẻ nói. “Không bao giờ có chuyến bay vào ngày thứ sáu.”
Gomez nhìn ra bãi cỏ. Bên ngoài cái nhà để máy bay lợp kim loại duy nhất thấy có một chiếc Piper Navajo Chief. Một người mặc quần vải bông đang kiểm tra máy.
Gomez đi ra đó. “Anh bay hôm nay à?” Anh hỏi.
“Đúng thế!” Viên phi công đáp, giọng Mỹ.
“Có cho thuê không?”
“Không! Đây là máy bay riêng, của ông chủ tôi.'’
“Bay tới đâu? Nassau?”
“Không phải. Tới Key West.”
Trái tim Gomez rộn lên. Từ Key West anh có thể đón một chuyến thường xuyên đi Miami.
“Liệu có thể nói chuyện với ông chủ của anh không?”
“Mr. Klinger. Ông ta sẽ đến đây trong một giờ nữa.”
“Tôi đợi vậy.”
Anh tìm thấy bóng mát gần nhà đỗ máy bay và ngồi xuống đó. Vừa có kẻ nào chui ra khỏi bụi cây, lấy chiếc môtô giấu trong đó ra và phóng xuôi theo con đường bờ biển, về thành phố.
Sir Marston Moberley xem đồng hồ, rời chiếc bàn ăn được đặt trong vườn có tường bao quanh đằng sau dinh Thống đốc và chầm chậm bước tới những bậc thang dẫn lên hành lang có phòng làm việc của mình. Cái đoàn đại biểu phiền phức này có thể xuất hiện bất cứ lúc nào.
Anh quốc duy trì rất ít thuộc địa cũ ở vùng Caribbe. Thời thuộc địa qua đã lâu. Tuy nhiên vẫn còn năm vùng đất được giữ lại, những kỷ vật tuyệt diệu của một thời xa xưa. Không gọi thuộc địa được nữa; đó là một từ không thể chấp nhận, mà ngày nay chúng ta gọi là Những lãnh thổ phụ thuộc, và một trong chúng là quần đảo Cayman, nổi tiếng về tài đắp đê biển. Trong hội nghị tại London bàn về việc trao trả độc lập cho ba đảo Cayman, dân chúng đã bỏ phiếu tán đồng ở lại với Anh quốc. Và họ trở nên thịnh vượng, như cây nguyệt quế xanh um, khác hẳn với những đảo láng giềng.
Một nhóm nữa là quần đảo Virgin thuộc Anh, bây giờ trở thành bến cảng cho đua thuyền và câu cá. Nhóm thứ ba, không được nổi bật lắm, là hòn đảo nhỏ Anguilla, mà dân chúng từ trước tới nay chỉ làm duy nhất một cuộc cách mạng, nhưng là để ở lại trong Liên hiệp Anh, để khỏi phải sát nhập với hai hòn đảo bên cạnh có nền độc lập đáng nghi ngại.
Còn kém nổi bật hơn nữa là Turks và Caicos, nơi mà cuộc sống diễn ra khá mơ màng dưới bóng cỏ và dưới bóng cờ Liên hiệp Anh, không bao giờ bị xáo động bởi ma túy, cảnh sát mật, đảo chính, và thói côn đồ. Ở cả bốn nơi này, London đều cai trị bằng bàn tay bọc nhung, với vai trò chính yếu trong ba vùng sau là cứu vãn những thâm hụt ngân sách hàng năm cho chúng. Để đổi lại, dân chúng bản địa sẽ vui lòng một ngày kéo và hạ một lần lá cờ Liên hiệp Anh và in biểu tượng Nữ hoàng Elizabeth lên tiền giấy và mũ cảnh sát của mình.
Mùa đông năm 1989, nhóm thứ năm tuyên bố gia nhập Liên hiệp Anh. Đó là Barclays, là nhóm cuối cùng trong các Lãnh thổ phụ thuộc, gồm tám hòn đảo nằm ở phía tây đảo Andros thuộc Bahamas, đông bắc Cu Ba và nam Florida Keys.
Tại sao Barclays không bị nhập vào Bahamas khi quần đảo này giành độc lập, chẳng ai nhớ được. Một tay tếu trong Bộ Ngoại giao một lần bảo có thể đơn giản vì chúng bị bỏ quên, và cũng có thể là đúng vậy. Nhóm đảo tí ti này chỉ cỡ hai chục ngàn dân, và cũng chỉ hai đảo là có người ở. Hòn đảo chính, một nơi đánh cá tuyệt vời, cũng là nơi đặt dinh Thống đốc, mang cái tên vui vẻ là Tia Nắng.
Đây chẳng phải các đảo giàu. Công nghiệp không có, và thu nhập từ mọi khoản cũng chẳng hơn số không bao nhiêu. Phần lớn là từ tiền lương của những người trẻ tuổi gửi về. Họ rời đảo đi làm bồi tàu hoặc bồi bàn, hầu phòng cho các nhà hàng, khách sạn ở nơi khác và thường rất được du khách Âu Mỹ ưa thích vì tính nết dễ chịu và nụ cười rạng rỡ.
Một nguồn thu nữa là các hoạt động du lịch nhỏ, như chở khách đi chơi bằng thuyền cá, thu tiền đỗ máy bay, bán những con tem in xấu, tôm hùm và ốc xà cừ cho những con thuyền đi ngang. Cái ngân sách khiêm tốn ấy cho phép họ mua những hàng hóa cần thiết cho đời sống, qua một chiếc tàu hơi nước, mỗi tuần đến một lần.
Biển cả hào phóng vẫn cung cấp hầu hết thực phẩm, cộng với hoa quả từ rừng và các vườn trên dốc hai quả núi của đảo Tia Nắng, núi Spyglass và núi Sawbones.
Thế rồi đầu năm 1989, ai đó trong Bộ Ngoại giao quả quyết rằng Barclays đã chín mùi để độc lập. Bản Báo cáo tình hình đã biến thành Bản đệ trình luận điểm rồi tiếp tục trở thành một chính sách. Nội các Anh quốc năm đó phải vật lộn với một thâm hụt mậu dịch ghê gớm, mất tín nhiệm trong dân chúng và mâu thuẫn trong chính sách một châu Âu thống nhất. Thế là cái chuyện vặt về việc trao trả độc lập cho một hòn đảo mù mờ nào đó ở Caribbe được thông qua ngay, không vướng víu gì.
Tuy nhiên, Thống đốc đảo khi đó, đã kháng nghị, và bị triệu hồi ngay, thay vào là Sir Marston Moberley. Con người cao lớn và tự phụ, vẫn vênh vang rằng mình giống cố nghệ sĩ George Sanders như đúc, được phái đến đảo Tia Nắng, với chiếc cặp không rời khỏi tay, đã được Trợ lý Vụ trưởng Caribbe dặn dò cặn kẽ. Barclays sẽ được trao trả độc lập, ứng cử viên Thủ tướng sẽ được mời tới và ngày bầu cử đã ấn định. Sau cuộc bầu cử dân chủ chọn Thủ tướng đầu tiên cho Barclays, một khoảng thời gian thích hợp (ví dụ ba tháng) sẽ được thỏa thuận giữa ông ta với nội các của mình, để trao trả hoàn toàn độc lập - điều này được nhắc đi nhắc lại.
Sir Marston phải đảm bảo chương trình sẽ trót lọt và một gánh nặng nữa sẽ được trút khỏi vai Ngân khố Anh. Ông ta cùng phu nhân đến Tia Nắng từ cuối tháng Bảy với quyết tâm hòan thành tốt trọng trách.
Hai ứng cử viên đã sớm có mặt ở nơi sẽ là phủ Thủ tướng. Ông Marcus Johnson, một nhà buôn bán địa giầu có và là nhà từ thiện, đã trở về đảo quê hương sau khi thử vận may ở Trung Mỹ, hiện sống trong một lãnh địa đẹp đẽ phía bên kia núi Sawbones, bận rộn với việc thành lập Hội Thịnh Vượng Barclays để phát triển hòn đảo và mang lại thịnh vượng cho dân chúng. Người hơi thô kệch nhưng bình dân hơn, là Horatio Livingstone, sống ở phía dưới Shantytown, là vùng ông chiếm giữ phần lớn, và là sáng lập viên của Mặt trận Độc lập Barcleys. Cuộc bầu cử chỉ còn ba tuần nữa, dự định vào ngày năm tháng Giêng. Sir Marston hài lòng khi thấy những cuộc vận động tranh cử lớn, của cả hai ứng cử viên, cuồng nhiệt kêu gọi dân đảo ủng hộ mình.
Chỉ còn có một thứ quấy phá Sir Marston. Đó là lực lượng CCC, tức Ủy ban các Công dân quan tâm, là chống lại độc lập. Tổ chức này đứng đầu bởi một con người đáng ngán - Đức cha Walter Drake, ông thày tu dòng Baptist bản xứ. Sir Marston đã đồng ý tiếp đoàn đại biểu CCC vào chín giờ sáng.
Không kể Đức cha Drake, đoàn gồm bảy người. Cha sở dòng Anh giáo, một người Anh vô tích sự, xanh xao, râu cạo nhẵn, và Sir Marston biết ông có thể làm việc được với người này. Sáu người kia là các thân hào địa phương - một bác sĩ, hai chủ sạp hàng, một chủ trại, một chủ bar rượu và một chủ nhà trọ tên là Macdonald, cả bọn đều có tuổi và học vấn đều sơ đẳng. Họ không thể theo kịp tiếng Anh của Sir Marston và không thể cùng tranh luận. Với mỗi người này, ông dư sức có hàng tá người sẵn sàng nhận độc lập làm đối trọng.
Marcus Johnson, ứng viên Thịnh vượng được tháp tùng bởi ông quản lý phi trường, các ông chủ bến cảng (Johnson đã hứa xây dựng một cảng quốc tế ở đó), và đa số cộng đồng doanh nhân, những người sẽ lãi to cùng với sự phát triển. Livingstone thì có hậu thuẫn là nhóm người vô sản, bọn tay trắng, mà y đã hứa tăng mức sống một cách kỳ diệu bằng cách quốc hữu hóa mọi tài sản, kho tàng.
Vấn đề là lãnh tụ đoàn đại biếu CCC, cha Drake, con người to lớn thô kệch mặc áo choàng đen đang lau mồ hôi trên mặt kia. Cha là nhà truyền giáo cưỡng bách, tỉnh táo và ưa ồn ào, từng tiếp thu nền giáo dục Mỹ, mang trên ve áo huy hiệu con cá và là người chống Cơ đốc từ trong bụng mẹ. Cha đặt lên bàn Thống đốc một chồng giấy tờ.
Sir Marston đã biết không đủ chỗ cho mọi người, nên tất cả đều đứng. Cả ông cũng đứng - như thế buổi gặp gỡ sẽ ngắn hơn. Ông hy vọng vậy, và liếc nhìn chồng giấy.
“Đây là, thưa ngài Thống đốc,” cha Drake nói ồm ồm, “đơn thỉnh cầu. Vâng, thưa ngài, đơn thỉnh cầu. Do hơn một ngàn công dân đã ký. Chúng tôi muốn đơn này được chuyển về London, đặt trước mặt đích thân bà Thatcher. Hoặc thậm chí Nữ hoàng. Chúng tôi tin các bà này sẽ đồng ý với chúng tôi, dù ngài có thể không đồng ý.”
Sir Marston thở dài. Thế này thì, ông tìm tính từ yêu thích của mình, còn đáng ngán hơn cả ông nghĩ.
“Vâng, tôi hiểu, nhưng đơn này thỉnh cầu điều gì?”
“Chúng tôi muốn một trưng cầu ý dân, như nhân dân Anh được trưng cầu về khối thị trường chung. Chúng tôi không muốn bị cưỡng ép độc lập. Chúng tôi muốn vẫn tiếp tục sống như cũ, như từ xưa đến nay. Chúng tôi không muốn bị ông Johnson hay ông Livingstone cai trị. Chúng tôi kháng nghị tới London.”
Ở cuối đường băng, có một taxi đi đến, và Mr. Barney Klinger bước ra. Ông ta mập, lùn, sống ở một khu trại giàu có, kiểu Tây Ban Nha, ở Coral Gables lân cận Miami. Cô gái đi cùng ông thì lại chẳng mập cũng chẳng lùn; trông đẹp tuyệt và chỉ đáng tuổi con ông ta. Mr Klinger có căn nhà gỗ trên sườn núi Spyglass, nơi ông đôi khi đến nghỉ một cách kín đáo, không cho bà vợ biết.
Ông định bay tới Key West, thả cô bạn gái xuống đón chuyến bay thường kỳ về Miami, rồi ông sẽ về nhà một mình, trên máy bay riêng, hoàn toàn một mình, như một nhà doanh nghiệp mệt mỏi sau chuyến thảo luận một hợp đồng mệt mỏi. Bà Klinger sẽ đón ông ở sân bay Miami và thấy ông chỉ một mình, cẩn thận mấy cũng không thừa, bà Klinger quen biết vài luật sư rất danh tiếng.
Julio Gomez nhổm dậy, tiến tới gặp ông.
“Mr. Klinger, đúng không ạ?”
Klinger thót cả tim. Thám tử tư? “Ai đang hỏi tôi?”
“Thưa ngài, tôi có vấn đề khó xử. Tôi nghỉ ở đây và vừa nhận được tin vợ gọi. Trẻ nhà tôi bị tai nạn, và tôi phải về ngay, nhất định phải về ngay. Nhưng lại không có chuyến bay hôm nay. Cả máy bay cho thuê cũng không. Không biết ngài có thể cho tôi đi nhờ về Key West? Tôi sẽ mang ơn ngài suốt đời.”
Klinger lưỡng lự. Tay này có thể là một thám tử tư do bà Klinger thuê.
“À,” Klinger nói. “Tôi không biết.”
Quanh máy bay lúc đó có đến năm người: viên sĩ quan cửa khẩu, người khuân vác, Gomez, Klinger, cô bạn gái. Người khuân vác nghĩ Gomez thuộc đoàn Klinger, còn Klinger nghĩ hắn là người của sân bay. Viên phi công thì đang trong đám cây cối cách đó hai mươi mét.
“Anh yêu, thật là đáng thương, chúng ta phải giúp ông ấy.” Cô gái nói.
“Okey,” Klinger nói. “Miễn là ta cất cánh đúng giờ.”
Viên sĩ quan đóng nhanh dấu vào ba hộ chiếu, ngăn hành lý được đóng lại và ba hành khách bước lên máy bay, viên phi công khởi động cả hai động cơ và ba phút sau, chiếc Navajo bốc lên khỏi đảo Tia Nắng với đường bay được hoạch định tới Key West mất bảy mươi phút.
“Các bạn thân mến của tôi, hy vọng tôi có thể gọi tất cả là bạn được,” Sir Marston Moberley nói. “Xin hãy gắng hiểu tình trạng hiện tại của Chính phủ Nữ hoàng. Vào lúc này, việc trưng cầu dân ý là không thích hợp. Nó sẽ làm phức tạp thêm cho chính quyền.”
Ông sẽ không thể trở thành một nhà ngoại giao cao cấp, đứng trên bao nhiêu cấp bậc quan trọng khác, nếu không biết cách thuyết phục một cách kẻ cả như vậy.
“Xin hãy giải thích,” Cha Drake to tiếng. “Tại sao một cuộc trưng cầu lại phức tạp hơn một cuộc bầu cử, và chúng tôi muốn được quyền quyết định có bầu cử hay không.”
Lời giải thích rất đơn giản, nhưng không thể nói ra ở đây. Chính phủ Anh sẽ phải trả tiền cho một cuộc trưng cầu. Còn trong bầu cử, ứng cử viên sẽ chi tiền cho các cuộc vận động riêng của họ, chính xác là chi như thế nào thì Sir Marston thấy không cần tìm hiểu. Ông thay đổi đề tài.
“Xin hãy cho biết, nếu ông nghĩ như thế, tại sao ông không ra ứng cử Thủ tướng? Theo quan điểm của ông, thì ông sẽ phải thắng.”
Bảy người trong đoàn đại biểu coi bộ rối trí. Nhưng Cha Drake đã xỉa ngón tay chuối mắn ra. “Ngài biết rõ điều ấy, Thống đốc ạ. Các ứng cử viên đang sử dụng báo chí, hệ thống diễn thuyết công cộng, thậm chí đưa cả người tổ chức vận động bầu cử từ nước ngoài về. Và họ biếu người ta hàng đống tiền.”
“Tôi không có một bằng chứng nào về việc đó, tuyệt đối không,” Thống đốc ngắt lời, mặt đã hơi đỏ lên.
“Bởi vì ngài không chịu ra ngoài để xem cái gì đang diễn ra!” Viên giáo sĩ Baptist, gào lên. “Nhưng chúng tôi thì biết. Chuyện đó diễn ra trên từng góc phố. Và họ còn dọa dẫm những ai chống lại họ.”
“Khi nhận được báo cáo của Chánh thanh tra Jones về chuyện này, tôi sẽ hành động,” Sir Marston cắt ngang.
“Chắc chắn là chúng ta khỏi cần tranh cãi,” Cha sở dòng Anh giáo nói. “Vấn đề là, liệu ngài có gửi đơn thỉnh cầu của chúng tôi lên London không, Sir Marston?”
“Nhất định là gửi rồi. Đó là điều nhỏ nhất tôi có thể làm cho các bạn, nhưng tôi sợ rằng đó cũng là điều duy nhất tôi có thể làm. Hai tay tôi, lạy trời, bị bó chặt rồi. Và bây giờ, nếu các bạn cho phép...”
Họ kéo nhau ra, đã làm xong việc họ định làm. Khi rời khỏi tòa nhà, ông bác sĩ, hóa ra lại là chú của viên sếp cảnh sát hỏi, “Các ông nghĩ có thực hắn ta gửi đi không?”
“Nhất định rồi,” Cha sở nói. “Hắn đã nói sẽ gửi.”
“Phải, nhưng gửi bằng tàu thủy,” Cha Drake gầm gừ, “để nó sẽ đến London vào giữa tháng Giêng. Chúng ta phải thoát khỏi cái tên Thống đốc này và tự tìm cho mình một người mới.”
“Không được đâu,” Cha sở nói. “Sir Marston sẽ không từ nhiệm đâu.”
Trong cuộc chiến tranh liên miên chống lại sự xâm nhập ma túy vào vùng bờ biển phía nam, chính phủ Mỹ đã sử dụng các kỹ thuật quan sát đắt tiền, nên rất thông minh. Trong số đó có cả loạt khí cầu bí mật, thả ở những vùng xa xôi, thuộc sự quản lý của Washington.
Trong chiếc giỏ treo dưới khí cầu là những bộ quét radar có công nghệ cực cao, và các radio monitor. Chúng bao trùm cả vùng biển Caribbe, từ Yucatan ở phía tây đến Angeda ở phía đông, từ Florida ở phía bắc đến tận bờ biển Venezuela. Mỗi máy bay, dù to dù nhỏ, chỉ cần cất cánh từ một điểm trong vùng là bị phát hiện liền, cả đường bay, độ cao, tốc độ đều được hiển thị và báo về. Mỗi chiếc thuyền buồm, tàu nhỏ, tàu chở hàng hay tàu đường dài vừa rời cảng là bị định vị ngay và sẽ bị bám đuôi suốt hải trình bằng những đôi mắt, đôi tai vô hình lơ lửng tận trên trời, ở một nơi rất xa. Đa số thiết bị trong giỏ đều do hãng Westinghouse chế tạo.
Khi cất cánh từ đảo Tia Nắng, chiếc Piper Navajio Chief cũng lập tức bị một Westnghouse 404 phát hiện. Nó bị bám sát khi vượt qua biển tới Key West ở phương vị 310 độ, và được đưa tới ngay trạm quan sát Key West. Chỉ còn cách Key West năm mươi dặm, nó bỗng nổ tung và biến khỏi màn hình. Một tàu phòng vệ bờ biển U.S tới ngay địa điểm đó, nhưng không tìm thấy mảnh vỡ nào.
Sáng thứ hai, Julio Gomez, thám tử trong lực lượng cảnh sát Metro-Dade, không thấy trình diện tại nhiệm sở. Đồng sự anh, thám tử Eddie Favaro, hết sức bực mình. Họ phải cùng đến tòa án sáng nay và bây giờ Favaro, buộc phải đến một mình. Phiên tòa diễn ra thật tồi tệ và chính Favaro đã phải chịu mọi cay đắng của nó. Gần trưa, anh trở về trụ sở cơ quan, MDPD (Le Miami-Dade Police Department (MDPD)= Sở Cảnh sát Miami -Dade), trên phố North West Fourteenth số 1320 (khi đó lực lượng đang chuẩn bị chuyển về nơi mới ở Doral District) và đến gặp cấp trên, trung úy Broderick.
“Có chuyện gì với Julio?” Favaro hỏi. “Hắn không tới tòa án.”
“Sao lại hỏi tôi? Hắn cặp với cậu mà?” Broderick đáp.
“Hắn không đến cả đây sao?”
“Không! Và cậu không làm một mình được à?”
“Không thể. Chúng tôi đang xử lý hai vụ, và không bị cáo nào nói được thứ tiếng nào khác ngoài Tây Ban Nha.”
Phản ánh thực trạng dân cư ở đó, sở cảnh sát Metro- Dade mà trách nhiệm của nó là quản lý cả một vùng vẫn gọi là Miami lớn, có số nhân viên hết sức là đa chủng tộc, một nửa là gốc Mỹ Latin, vài ba người còn không nói nổi tiếng Anh cho ra hồn. Julio Gomez có cha mẹ là người Puerto Rico, lớn lên ở New York, cũng là nơi anh gia nhập cảnh sát. Cách đây mười năm, anh di chuyển xuống miền nam, về sống ở Metro-Dade. Tại đây không ai coi anh là lính mới, bởi theo tập tục vùng này, xử sự vậy là thiếu khôn ngoan, vả lại, sự thành thạo tiếng Tây Ban Nha của anh quả là vô giá.
vẫn đi cặp với Gomez chín năm nay, là Eddie Favora, người Mỹ gốc Ý. Bố mẹ anh người Catania, nhập cư vào Mỹ như những cặp mới cưới khác đi tìm cuộc sống tốt, hơn. Còn trung úy da đen Clay Broderick thì đang nhún vai. Anh ta luôn phải làm việc quá sức, và do thiếu người giúp việc nên anh ta đã phốt lờ đi hàng núi vụ việc.
“Tìm hắn,” anh ra lệnh. “Cậu biết rõ quy định rồi.”
Dĩ nhiên là Favaro biết, ở Metro-Dade, nếu anh vắng mặt ba ngày không lý do thích đáng và cũng chẳng đến trình diện nữa, anh sẽ bị coi là tự bỏ việc.
Favaro kiểm tra căn hộ của bạn, nhưng không dấu vết gì chứng tỏ mới có người về hoặc đến đây. Anh biết nơi Gomez đi nghỉ, bao giờ cũng là đảo Tia Nắng, bèn kiểm tra danh sách hành khách các chuyến bay tối hôm trước từ Nassau. Máy tính của hãng hàng không phát hiện ra một chỗ được giữ trước với vé đã trả tiền, song không thu được tấm vé nộp lại. Favaro quay lại Broderick.
“Có thể hắn gặp nạn,” anh hối hả nói. “Trò câu cá là nguy hiểm lắm.”
“Có phôn ở đó mà,” Broderick nói. “và hắn có số phôn của chúng ta.”
“Biết đâu hắn đang hôn mê... ở bệnh viện. Có thể hắn nhờ ai đó gọi, nhưng họ cóc quan tâm. Bọn dân trên đảo ấy đều thế cả, ít nhất ta cũng phải kiểm tra chuyện này.”
Broderick thở dài. Có mất một, thậm chí vài thám tử anh cũng cóc cần. “Okay, cho tôi số điện thoại của cảnh sát đảo này, tên gì nhỉ, Tia Nắng à? Tởm, tên với tuổi. Cho tôi biết tên Sếp cảnh sát ở đấy, rồi tôi sẽ gọi cho họ.”
Nửa giờ sau, Favaro đã có những thứ đó. Sao mà mù mịt đến vậy, nhưng cái đó đã không tìm được trong Danh mục Điện thoại Quốc tế. Anh đã phải hỏi Tòa Lãnh sự Anh quốc, ông này gọi cho dinh Thống đốc ở Tia Nắng và lấy tin từ đấy chuyển cho anh. Mất đến ba mươi phút nữa, trung úy Broderick mới bắt được liên lạc.
Vẫn còn may, gặp được ngay Chánh thanh tra Jones đang ở phòng làm việc. Lúc đó là giữa trưa.
“Thưa Ông Chánh thanh tra Jones, đây là trung úy thám tử Clay Broderick, gọi từ Miami. Hello? Ông có nghe rõ không? Với tư cách đồng nghiệp, tôi muốn xin ông chút ân huệ. Một trong những người của tôi đã đến nghỉ trên đảo Tia Nắng, và không thấy về trình diện. Chúng tôi hy vọng không có tai nạn nào chứ ạ? Vâng, người Mỹ. Tên là Julio Gomez. Không, tôi không biết anh ta trọ ở đâu. Anh ta đến để câu cá mà.”
Chánh thanh tra Jones rất coi trọng cú điện thoại này. Lực lượng của ông thì nhỏ xíu, còn Metro-Dade thì lại khổng lồ. Nhưng người Mỹ sẽ thấy Chánh thanh tra Jones đâu có ngủ gật. Ông quyết định tự mình xử lý vụ này và gọi một xe Land Rover cùng một cảnh sát viên.
Ngay lập tức, ông bắt đầu với khách sạn Quarter Deck nhưng chỉ thu được số không. Ông tiếp tục đến bến cá và tìm thấy Jimmy Dobbs đang làm việc trên thuyền của lão, hôm nay chẳng có ai thuê. Dobbs liên hệ ngay tới chuyện không thấy Gomez thuê thuyền hôm thứ sáu, thật lạ, và cho biết anh ta ở nhà trọ bà Macdonald.-
Bà chủ nhà cho biết Julio Gomez rời nhà rất vội vàng vào sáng thứ sáu để đến sân bay. Jones đến đó nói chuyện với viên quản lý, và ông này triệu tập sĩ quan cửa khẩu, người khẳng định rằng sáng thứ sáu đó Mr Gomez đã đi nhờ máy bay của ông Klinker đến Key West, và đưa ra số đăng ký máy bay. Bốn giờ chiều, Jones gọi lại Broderick.
Trung úy gọi ngay tới cảnh sát Key West và họ kiểm tra ngay sân bay ở đó. Lúc sáu giờ, trung úy, mặt mũi nghiêm trang, triệu tập Eddie Favaro đến.
“Eddie, Julio bất thần quyết định quay về vào sáng thứ sáu, sớm hơn hai ngày. Không có chuyến bay thường kỳ nên anh ấy đã đi nhờ một máy bay riêng đến Key West. Máy bay đó không đến được đích. Nó đã rơi từ độ cao 15.000 bộ xuống biển, cách Key West 50 dặm. Cảnh vệ bờ biển nói không còn ai sống sót.”
Favaro ngồi phịch xuống, lắc đầu. “Tôi không tin.”
“Tôi cũng thế... Coi, tôi rất tiếc, Eddie. Tôi biết các cậu thân nhau thế nào.”
“Chín năm,” Favaro thì thào. “Chín năm anh ấy cảnh giới đằng sau cho tôi. Phải làm gì bây giờ?”
“Cơ quan sẽ tiếp nhận việc này,” Broderick đáp. “Tôi sẽ báo cáo giám đốc. Cậu biết thủ tục rồi. Nếu không làm được lễ tang, ta sẽ làm truy điệu, với đầy đủ nghi lễ.”
Nghi ngờ xuất hiện vào đêm đó, và sáng hôm sau.
Ngày chủ nhật, thuyền trưởng một tàu cho thuê tên Joe Fanelli đưa hai đứa bé người Anh ra câu cá ngoài khơi Mary’s Marina ở Islamorada, một địa điểm nghỉ mát ở Florida Keys, ngay phía bắc Key West, sáu dặm bên ngoài mũi Cá Sấu. Khi đang chạy về Humb, vừa chạy vừa câu, Stuart và Shane thấy dây câu giật mạnh, vội kéo lên cái mà chúng ngỡ là một con cá mặt trăng, cá đuối hoặc cá ngừ gì đó. Khi con mồi được kéo lên thì hóa ra đó là phần còn sót lại của một áo phao, vẫn còn nguyên số hiệu chiếc máy bay có áo phao đó, và vài vết cháy xém.
Cảnh sát địa phương gửi nó tới Miami, và họ đã xác định rằng nó thuộc về chiếc Navajio Chief của Barney Klinger và các vết xém không mang dấu hiệu cháy xăng, mà chất nổ dẻo. Thế là thành cuộc điều tra án mạng.
Việc đầu tiên họ làm là kiểm tra việc kinh doanh của Mr.Klinger. Và kết quả là... tắc tị thêm. Hơn nữa, họ cũng không có giấy phép điều tra trên lãnh thổ Anh quốc, ở đảo Tia Nắng, và cũng rất ít tin tưởng ở lực lượng cảnh sát địa phương đủ sức đi đến tận cùng một vụ án có thể có bàn tay chuyên nghiệp nhúng vào.
Sáng thứ ba, McCready thư giãn trong căn phòng cạnh bể bơi khách sạn Sonesta Beach, đặt ly cà phê thứ hai sau bữa sáng và mở tờ Miami Herald ra.
Anh lơ đãng lướt qua tờ báo, tìm mục thời sự quốc tế - quá ít ỏi - rồi đọc sang mục những sự kiện trong vùng. Cột báo thứ hai đề cập tới những phát hiện mới nhất, về vụ chiếc máy bay hạng nhẹ bị mất tích trên biển phía đông nam Key West sáng thứ sáu vừa rồi.
Các phóng viên của tờ Herald phát hiện ra không chỉ việc chiếc máy bay có thể bị gài bom mà cả việc Mr Klinger được người ta coi là ông vua không ngai của buôn lậu và tân trang phụ tùng máy bay ở miền nam Florida.
Sau ma túy, lĩnh vực kinh doanh bất hợp pháp này có lẽ mang tới lợi nhuận cao nhất. Florida thì đầy các loại máy bay chở khách, chở hàng, rồi máy bay riêng. Cũng có vài công ty hợp pháp khá lớn trên thế giới chuyên buôn bán phụ tùng máy bay mới, hay đã phục hồi, đáp ứng những nhu cầu không bao giờ dứt. AVIOL và Dịch vụ Thiết bị Định vị là công ty chuyên cung cấp phụ tùng thay thế cho cả thế giới.
Nhưng mặt khác, ngành công nghiệp bất hợp pháp lại chuyên đánh cắp những phụ tùng như vậy để bán theo kiểu không-hỏi-nguồn gốc cho những khách hàng khác (thường ở thế giới thứ Ba), hay nguy hiểm hơn, còn bán những phụ tùng đã hết thời hạn sử dụng với cái giá của những phụ tùng đã được phục hồi, có thể dùng như mới, bằng toàn giấy tờ giả mạo. Bởi có vài phụ tùng tới phần tư triệu đôla mỗi chiếc, nên chúng thu lợi nhuận vô kể.
Việc buôn bán sôi nổi đến mức có kẻ nào đó muốn loại Mr Klinger ra.
“Vào lúc nửa đời,” McCready lẩm bẩm, rồi quay sang mục dự báo thời tiết. Hôm nay trời nắng.
Cũng sáng thứ ba ấy, trung úy Broderick triệu tập Eddie Favaro, thái độ xem ra nghiêm trọng hẳn.
“Eddie, trước khi làm lễ truy điệu với đầy đủ nghi thức cho Julio, ta phải xem xét một vài khía cạnh phiền hà mới nảy ra. Cái quái quỷ gì đã khiến cho Julio cùng đi chiếc máy bay với cái đồ bẩn mắt như Klinger?”
“Anh ấy cố về sớm mà,” Favaro đáp.
“Thật không? Thế anh ta đến đó làm gì?”
“Câu cá.”
“Thật không? Thế tại sao lại ở đó cùng một thời gian với Klinger? Hay là họ có việc phải bàn bạc?”
“Clay, hãy nghe tôi đây này. Không đời nào Julio Gomez là con người như vậy. Vì cố gắng để về sớm, anh ấy thấy có máy bay sắp cất cánh nên xin đi nhờ, thế thôi.”
“Tôi hy vọng cậu đúng.” Broderick điềm tĩnh. “Vậy tại sao Gomez phải cố về nhà sớm hai ngày so với dự định?”
“Tôi cũng băn khoăn chính điều đó,” Favaro gật đầu. “Anh ấy chỉ mong đến kỳ nghỉ để đi câu cá, nên sẽ chẳng bao giờ bỏ đi sớm, nếu không xảy ra chuyện gì đó quan trọng và cấp bách. Tôi muốn tới đó xem sao?
“Cậu có ba lý do để không nên đi,” trung úy nói. “Cái sở này công việc đang ngập mày ngập mặt, và ở đây cần cậu, rồi cái quả bom đó - nếu quả thật có bom - chắc chắn là nhằm vào Klinger. Cô gái và Julio chỉ là nạn nhân ngẫu nhiên. Tôi xin lỗi, nhưng Quản lý Nội bộ sẽ phải kiểm tra tình trạng tài chính của Julio. Không thể tránh được. Nếu anh ấy chưa bao giờ gặp gỡ Klinger, trước hôm thứ sáu, đó sẽ là một tai nạn cực kỳ bi đát.”
“Tôi còn ít ngày phép nữa,” Favaro nói, “tôi muốn nghỉ phép, Clay. Muốn nghỉ ngay bây giờ.”
“Phải, cậu còn phép. Và tôi không thể từ chối cho cậu nghỉ. Nhưng nếu đến đó, thì là việc riêng của cậu thôi, Eddie. Đó là lãnh thổ Anh, và chúng ta không có quyền gì ở đó cả. Và tôi muốn cậu đưa súng cho tôi.”
Favaro trao trả súng, rồi đến ngân hàng. Ba giờ chiều hôm đó, anh đã hạ cánh xuống đường băng trên đảo Tia Nắng, trả tiền thuê chiếc máy bay bốn chỗ ngồi và đứng nhìn nó quay về Miami. Rồi anh đi nhờ xe của một nhân viên sân bay về cảng Plaisance. Chẳng biết đi đâu nữa, anh thuê phòng ở Quarter Deck.
Sir Marston Mobeley ngồi trên chiếc ghế rất dễ chịu trong vườn, nhấp whisky pha soda. Đó là nghi thức yêu thích hàng ngày của ông. Cái vườn ở sau dinh Thống đốc không rộng lắm nhưng rất riêng biệt. Các bức tường bao ba phía khu vườn - phía thứ tư chính là tường nhà - thảy đều cao hơn bốn mét, trên cắm đầy thủy tinh vụn. Ở một mặt ngày trước có cửa ra vào bằng thép, cao hơn ba mét, nhưng lâu rồi không dùng. Phía sau cửa là một đường nhỏ chạy thẳng ra cảng Plaisance. Cái cửa thép đó đã đóng chặt bao năm nay, trên hai ổ khóa bán nguyệt bằng thép ở mặt ngoài còn được móc thêm một chiếc khóa nữa có kích thước gần bằng cái đĩa nhỏ. Tất cả đều đã gỉ ngoèn.
Sir Marston tận hưởng cái lạnh của buổi tối. Người tùy tùng của ông đang ở đâu đó trong phòng riêng ở đầu kia ngôi nhà; vợ ông thì đang vướng việc thăm viếng bệnh viện bản xứ. Jefferson, người bếp hầu phòng quản gia của ông chắc đang nấu bữa tối trong bếp. Sir Marston thưởng thức whisky và gần như giật mình khi nghe tiếng rít của cái cửa sắt bung ra. Ông quay lại và chỉ đủ thời gian để nói, “Có chuyện gì thế này, coi kìa.”
Tiếng nổ của phát đạn thứ nhất làm ông kinh hoàng. Đầu đạn xuyên qua những nếp gấp của thứ vải mềm ở ống tay áo sơ mi, phá vỡ một mảng tường đá san hô của ngôi nhà đằng sau ông, dội ngược trở lại, méo mó, gần như bẹp dí. Viên thứ hai xuyên đúng tim ông.
Chú thích:
[1] Pound: Đơn vị trọng lượng Anh, Mỹ bằng 450gr.
[2] Chomser: Món xúp bản xứ.
[3] Mistah: Ông (tiếng Anh ) do người bản xứ phát âm sai.