Chương 19
Trận chiến Tùng Hỗ chính là mốc đánh dấu Mã Đán thực sự trưởng thành. Lý Tông Nhân vô cùng thán phục và tán dương sự chiến đấu cực kỳ anh dũng của Mã Đán nên đã cấp cho cậu ta một chiếc huân chương. Binh đoàn Thượng Tân hầu như đã bị diệt vong hoàn toàn, nhưng trong đội ngũ của cánh quân Quế Lâm, ai ai cũng cảm phục và đều gọi họ là những “cảm tử quân anh dũng” một cách kính trọng, Mã Đán trở thành “danh tướng” trong toàn quân. Nhưng cũng có người bất phục Mã Đán, bởi vì họ nghe phong phanh là trong khi chiến đấu, những từ ngữ như “anh dũng”, “cảm tử” vân vân chẳng qua đều là do cậu ta tự ngụy trang cho mình, còn thực chất thì cậu ta rút đầu rút cổ như một con rùa, chỉ lo tìm muôn nghìn cách để cho tính mệnh của mình được bảo toàn. Trong quân đội trước đây đã từng có một vị tướng cực kỳ nhu nhược, đến bây giờ người ta lại dùng cái danh hiệu “tướng hèn” để ám chỉ cho Mã Đán. Đương nhiên là Mã Đán rất bực bội, muốn chứng minh chính mình. Lý Tông Nhân đã cấp cho Mã Đán một đội quân mới, tuy không phải tất cả binh lính đều là người Thượng Tân nhưng vẫn được gọi là “Thượng Tân binh đoàn” như xưa, bởi lẽ đơn giản chỉ huy đơn vị là người Thượng Tân.
- Ta không qua tâm cậu là “hèn tướng” hay “dũng tướng”, chỉ quan tâm đến chuyện có thể đánh nhau hay không mà thôi. - Lý Tông Nhân nói.
Tuy tin tức về chiến sự và người chết trận liên tục truyền về Thượng Tân nhưng hầu như những sự khốc liệt và chết chóc ấy chẳng ảnh hưởng gì đến việc trai tráng Thượng Tân và các vùng phụ cận đua nhau đến đầu quân cho Mã Đán, ngay cả A Tín ở cửa hàng vải họ Mao cũng đã đến gặp Mã Đán. A Tín nói:
- Một số người nói binh đoàn Thượng Tân là binh đoàn nhu nhược. Tôi không phục, tôi đến đây là để chứng minh cho bọn chúng thấy người Thượng Tân không phải như thế.
Mã Đán không ngờ một người bình thường rất đỗi hiền lành ít nói như A Tín lại có thể nói được những lời khẳng khái đến thế.
- Anh không sợ chết sao? - Mã Đán hỏi.
- Không sợ! - A Tín nói rất sảng khoái.
- Mao Tuyết Hoa đồng ý để anh đến đây tìm cái chết sao?
- Chính cô ấy động viên tôi đến đây đấy. Cô ấy nói, cô ấy là lá gan của tôi, tôi phải đến đây để giúp cậu. Người ta đều nói Mã Đán cậu là kẻ nhu nhược, nhưng Mao Tuyết Hoa lại tin rằng cậu là một anh hùng. - A Tín nói - Cậu cũng phải chỉ huy tôi để tôi trở thành một anh hùng!
Có điều Mã Đán cần phải trở về Thượng Tân. Cậu ta đã thật sự chán ghét chiến tranh, không muốn làm anh hùng. Lúc nào Mã Đán cũng nhớ Khang Khu, nhớ Mã Hổ. A Tín nói:
- Chưa đuổi được người Nhật ra khỏi đất nước mà cậu đã về nhà, cậu sẽ là một thằng đào ngũ. Khang Khu sẽ chửi cậu. Chúng ta sẽ quay về một cách đường đường chính chính.
Ngay cả A Tín mà còn nói được những lời có cánh như vậy khiến cho Mã Đán không phải biết ăn nói làm sao nữa. Lý Tông Nhân hiểu ý định của Mã Đán nên nói:
- Đánh xong bọn Nhật Bản là cậu có thể về Thượng Tân. Đến lúc ấy, ta sẽ cấp cho cậu hai túi bạc thật to!
Thật ra lúc ấy, bạc không phải là vấn đề quan trọng nữa, thậm chí danh dự cũng đã trở thành vấn đề thứ yếu. Về nhà mới là quan trọng nhất. Nhưng về nhà rất khó. Mã Đán ngày nào cũng nghĩ đến chuyện đánh đuổi người Nhật ra khỏi Trung Quốc để sớm được về nhà, về một cách quang minh chính đại, ngẩng đầu ưỡn ngực mà về nhà. Chính vì vậy, Mã Đán chỉ còn có thể liều mạng đánh nhau với hy vọng là nhanh chóng đuổi được bọn Nhật về nước.
Dưới sự chỉ huy của Mã Đán, “Thượng Tân binh đoàn” trở thành một mũi nhọn của cánh quân Quế Lâm, lập được rất nhiều công lao trong chiến đấu. Khi chiến dịch Đài Nhi Trang bắt đầu, quân số của “Thượng Tân binh đoàn” đã lên đến hơn ba trăm. Lính Nhật nghe nói trong quân đội Quốc dân đảng có một “binh đoàn nhu nhược” thì phao tin lên rằng, chúng sẽ bắt gọn cả binh đoàn này để làm lễ tế cờ. Có một lần, Mã Đán đang vận chuyển lương thực về quân doanh thì chạm trán với một cánh quân Nhật, hai bên triển khai trận thế chuẩn bị cho một trận tử chiến. Trận chiến bắt đầu, pháo đạn hai bên trao qua trả lại bên tám lạng người nửa cân, nhưng do lần này, Mã Đán chủ yếu làm nhiệm vụ vận chuyển quân lương nên chỉ trang bị vũ khí gọn nhẹ, so ra là quá đơn giản so với lính Nhật đã được chuẩn bị đầy đủ để giáp chiến. Được khoảng hai mươi phút thì quân sĩ bên Mã Đán sắp hết đạn, đề nghị Mã Đán hạ lệnh vứt bỏ lương thực lại để đột phá trùng vây, giữ lấy tính mạng. Mã Đán quát lớn:
- Ta cần lương thực chứ không cần mạng sống! Tuyệt đối không được để mất lương thực!
Có điều, đạn dược đã hết sạch, lính Nhật lại ập đến, thấy Mã Đán và quân lính đã hết đạn, bèn khuyên họ đầu hàng. Mã Đán nhìn đồng đội, hỏi:
- Anh em có đồng ý đầu hàng không?
Không ai trả lời, chỉ lặng lẽ bật lưỡi lê. Lính Nhật thấy quân sĩ của Mã Đán chuẩn bị đánh giáp lá cà thì tinh thần thượng võ và khí khái của kẻ đại trượng phu nổi lên, không ngoéo cò súng nữa mà cũng bật lưỡi lê lên, cũng có tên rút kiếm, rút đao ra cầm nơi tay. Chỉ trong nháy mắt, lưỡi lê, đại đao, kiếm đồng loạt vung lên cao. Những làn ánh sáng lạnh làm lóa mắt lẫn nhau. Mặt đối mặt, đầu đối đầu, đúng nghĩa một trận cận chiến. Mã Đán hô lớn:
- Tấn… công…! Xung… phong!
Đúng là hùng tráng! Đúng là bi thảm! Phía Mã Đán bằng mọi cách phải đánh bật vòng vây, lính Nhật cũng chẳng muốn tha con mồi trong tầm tay, sát khí làm mặt ai nấy đỏ tía, tiếng hô “Giết! Giết! Chết này! Chết này!...”.. Lưỡi lê của Mã Đán đã bị đao chém đứt lìa, nhặt lấy một thanh đại đao trong đống xác chết vung vù vù rồi xông thẳng vào giữa đám lính Nhật, tả đâm hữu chém một cách điên cuồng. Cậu ta nghĩ, không còn nghi ngờ gì nữa, nhất định đây là trận chiến cuối cùng trong đời, bởi mình sẽ chết, đó là điều chắc chắn. Chết thì chết, chẳng có gì đáng sợ cả. Cậu ta đã chuẩn bị đón nhận cái chết, thậm chí còn nghĩ đến chuyện là sau khi chết, mình có thể gặp lại bố, gặp lại rất nhiều anh em đã chết trước đây… Thanh đại đao trong tay Mã Đán đã chém gục mười mấy lính Nhật, lưỡi đao sứt mẻ chẳng khác nào một lưỡi cưa, bắp đùi cậu ta cũng bị kiếm đâm một nhát xuyên thấu nhưng hình như cậu ta chẳng thấy đau đớn gì cả. Cuối cùng thì lính Nhật cũng phải tháo lui bỏ chạy, thực ra thì bọn chúng bỏ chạy vì thấy khí thế của Mã Đán và quân lính của cậu ta quá hung tợn, quá liều mạng. Lính Nhật đã bỏ chạy nhưng Mã Đán vẫn chưa thôi, còn đuổi theo truy kích vung đao chém tới tấp, vừa quát vừa chém cho đến khi bị thuộc hạ giữ lại. Khi thuộc hạ băng bó vết thương cho mình, Mã Đán mới nhận ra là bắp đùi của mình đã bị kiếm xuyên qua, may mà chẳng chạm tới xương.
- Lương thực vẫn còn đấy chứ? - Mã Đán hỏi.
- Vẫn còn, không mất một hạt gạo. - Một người lính nói.
- Thế thì ta không hề bị mất mặt với Khang Khu. - Mã Đán hồ hởi nói.
- Nhưng một vành tai của anh không thấy đâu nữa cả. - Một người lính khác nói.
Mã Đán đưa tay sờ tai. Đúng là vành tai phía bên phải của cậu ta đã biến đi đâu mất. Mã Đán lò dò định tìm vành tai của mình, nhưng xác chết chất chồng trên chiến trường, hai chiếc đầu lâu chết mà không nhắm mắt làm cho cậu ta hoảng hồn. Mã Đán đứng nghiêm trước những xác chết của đồng đội khóc ngất, đưa tay vuốt mắt cho từng người đến khi mắt họ khép lại mới thôi.
Sau khi nghe tin thắng lợi ở Đài Nhi Trang báo về, Lý Tông Nhân liền tặng cho Mã Đán một cái biệt hiệu mới - Mã To Gan. Đối với Mã Đán, đây là một kiểu tán dương cao nhất, vinh dự nhất lúc ấy, so với tất cả những huy chương huân chương mà cậu ta đã nhận được, biệt hiệu này khiến cậu ta cảm thấy đặc biệt kiêu hãnh. Lý Tông Nhân nói:
- Mã Đán à, lúc này trong cơ thể cậu, ngoài da ra thì còn lại toàn là gan… Lá gan của cậu to như thế là đủ rồi đấy, không thể to hơn được nữa, vì nếu to hơn nữa thì cậu sẽ trèo lên đầu ta mà ngồi mất.
Hình như Mã Đán chẳng quan tâm lắm đến những gì Lý Tông Nhân vừa nói, lầm bầm:
- Tôi làm gì có gan, tôi chỉ có “sợ”!
Lý Tông Nhân hiểu rất rõ tâm lý Mã Đán, nói:
- Cậu “sợ” gì chứ? Chờ đến khi chiến tranh kết thúc, gạo trong kho quân nhu còn bao nhiêu cậu cứ lấy bấy nhiêu, rồi dùng chiến mã của chúng ta chuyển tất tần tật về Thượng Tân. Ta nghĩ là đoàn ngựa sẽ kéo dài đến vô tận đấy.
Mọi người đều giật mình trước câu nói của Lý Tông Nhân và càng tỏ ra hâm mộ Mã Đán, có điều Mã Đán chỉ cười nhẹ, không hiểu cậu ta đang nghĩ gì.
Lý Tông Nhân giao cho Mã Đán một nhiệm vụ mới: Huấn luyện tân binh. Gã vỗ vai Mã Đán, nói một cách ý vị sâu xa:
- Cậu giới thiệu cho các tân binh biết cách làm thế nào để gan bé biến thành to nhé!
Tân binh rất hào hứng trông ngóng, chờ đợi Mã Đán sẽ trực tiếp truyền thụ những bí quyết cho mình, có điều, không ai biết được ý chí chiến đấu của cậu ta là có từ đâu, cho nên tất cả đều thầm chửi Lý Tông Nhân là kẻ lừa đảo, thậm chí có người còn cả gan chửi thành tiếng câu này. Từ trước đến nay thuộc hạ của Lý Tông Nhân chưa ai có gan mở miệng chửi trưởng quan của mình như vậy nên tất cả đều mắt lấm mày lét nhìn nhau, chỉ có Lý Tông Nhân là cười khơ khớ, nói:
- Không hề gì, không hề gì. Có điều các người không học được cách luyện gan của Mã Đán nên mới nói ta là kẻ lừa đảo thôi!
Sau khi vết thương đã lành hẳn, Mã Đán còn theo chân Lý Tông Nhân đánh nhau không biết bao nhiêu trận mà ngay cả cậu ta cũng không nhớ nổi nữa. Chiến tranh đã biến Mã Đán trở thành một cục thịt biết đi, chỉ biết đánh nhau mà không còn một suy nghĩ nào khác, đôi khi lại biến thành một kẻ điên cuồng trông chẳng khác nào một con dã thú. Lý Tông Nhân chỉ cần cái tinh thần không sợ chết của cậu ta. Không chỉ Mã Đán, “không sợ chết” còn là “quân hồn” của toàn bộ quân đội Quế Lâm. Ngược lại, “sợ chết” lại là điểm yếu chết người của quân đội Nhật Bản, lấy cái sở trường để đối phó với cái sở đoản của địch khiến Lý Tông Nhân mau chóng thành công, cũng là chỗ dựa cơ bản nhất để gã nhanh chóng khẳng định vị trí của mình trên diễn đàn chính trị, quân sự Trung Quốc lúc bấy giờ.
Mỗi sáng sớm sau khi ngủ dậy, thói quen của Mã Đán là hỏi người bên cạnh là mình vẫn đang còn sống hay đã chết. Nhận được lời khẳng định là mình vẫn đang còn sống, Mã Đán mới chịu ăn cơm. Mỗi khi ăn cơm cũng không bao giờ quên việc kể huyên thuyên về Khang Khu. Kết thúc những chuyện huyên thuyên ấy thường là câu này:
- Nếu hôm nay ta chết trong lúc đánh nhau, các cậu nhất định phải thay mặt ta chuyển gạo về cho chị dâu nhé.
Thuộc hạ của Mã Đán nghe mãi câu này nên cũng chẳng cần phải cảm thấy phiền lòng, họ cũng đã từng nhận lời Mã Đán làm việc này hàng nghìn vạn lần rồi. Có điều, tất cả những người đã từng nhận lời với Mã Đán đã lần lượt lần lượt từng người một ra đi vĩnh viễn. Do đó mà khi nhận thêm những lính mới, Mã Đán lại tiếp tục ủy thác cho họ làm công việc chuyển gạo về cho Khang Khu nếu chẳng may mà cậu ta không kịp quay về nữa.
Khi người Nhật tuyên bố đầu hàng, Mã Đán đã là thiếu tướng, chính Lý Tông Nhân là người tự tay đeo quân hàm cho cậu ta. Bắt đầu từ đó, cái danh “Mã thiếu tướng” trở nên vang lừng thiên hạ lúc ấy. Có điều, ngoài việc dũng cảm, không sợ chết ngoài chiến trường ra, quả thật là cậu ta không hiểu gì về chiến lược chiến thuật, cũng chẳng giỏi chỉ huy đánh nhau, thậm chí xem bản đồ quân sự mà chẳng hiểu gì cả. Khi không đánh nhau, công việc mà cậu ta thích nhất là cạo đầu cho quân lính để giết thời gian, tìm một niềm vui nho nhỏ khi nhìn thành quả của mình. Do vậy mà trong quân đội, từ quan chức cấp cao cho đến anh lính binh nhì đều không gọi Mã Đán là “Mã tướng quân” mà thường gọi là “Mã To Gan” hoặc “Tướng quân cạo đầu”.
Câu chuyện gần như là truyền kỳ về Mã Đán đã vang đến tai Tưởng Giới Thạch. Ngoài việc phong quân hàm ra, họ Tưởng không còn biết phải ban thưởng như thế nào cho xứng đáng với người của Lý Tông Nhân nữa. Có điều, Tưởng Giới Thạch cứ nghĩ mãi về chuyện này, phải làm thế nào để ban cho Mã Đán một cái vinh dự mà người khác khó lòng có được. Suy nghĩ rất lâu, cuối cùng Tưởng Giới Thạch cũng đã nghĩ ra một cách - Cho người gọi Mã Đán đến Nam Kinh để cạo đầu cho mình. Mã Đán không hiểu chuyện gì đang xảy ra, bèn thỉnh thị ý kiến của Lý Tông Nhân. Lý Tông Nhân nói:
- Đi đổ bô cho Ủy viên trưởng Tưởng Giới Thạch cũng là một vinh dự cao quý trong đời một con người rồi. Cậu không biết à, có bao nhiêu là tướng lĩnh sắp hàng chờ đến lượt được đổ bô cho ông ấy đấy. Đi đi! Cố gắng cạo đầu thật đẹp cho ông ấy.
- Đánh nhau tôi không sợ, nhưng tôi lại sợ cạo đầu cho Ủy viên trưởng lắm.
- Rừng đao mưa đạn, vào sinh ra tử đều đã trải qua thì việc cạo đầu là cái quái gì! Cậu cứ xem cái đầu của ông ấy chẳng khác gì một quả dưa là được chứ gì, năm ấy không phải là cậu đã nghĩ đầu ta là một quả dưa sao?
Mã Đán đến Nam Kinh cạo đầu cho Tưởng Giới Thạch thật.
Tưởng Giới Thạch đang chờ Mã Đán trong dinh thự của mình. Khi Mã Đán đến, ông ta đang đọc báo, tờ báo che lấp cả người, chỉ có cái đầu không to lắm nhô lên khỏi tờ báo. Tóc trên đầu rất ngắn, ngắn đến độ không nhận ra là có tóc, đã lốm đốm bạc. Khi Mã Đán đi đến gần Tưởng Giới Thạch khoảng cách độ mười mét thì bị cảnh vệ gọi lại, kiểm tra đũng quần của cậu ta. Đây là lần thứ ba Mã Đán bị quân cảnh vệ mò vào đũng quần.
Tưởng Giới Thạch đặt tờ báo xuống, nói với cảnh vệ:
- Không cần kiểm tra. Cậu ta từ một gã thợ cạo biến thành tướng quân đấy!
Mã Đán cúi chào Tưởng Giới Thạch. Ông ta gật nhẹ đầu, nói:
- Cậu đừng trách cứ quân cảnh vệ nhé. Bọn chúng đều biết năm ấy cậu giấu lựu đạn trong đũng quần để nhét vào túi Ngô Bội Phù. Ta không phải là Ngô Bội Phù, đầu của hắn to hơn đầu của ta nhiều, đáng ra hắn phải trả gấp đôi tiền công cho cậu.
Mã Đán lấy con dao cạo trong chiếc túi đeo bên hông ra. Con dao này theo Mã Đán từ khi cậu ta rời Thượng Tân cho đến bây giờ, đã từng cạo cho hàng nghìn cái đầu. Tưởng Giới Thạch đứng dậy, đi ra một gốc cây to ở ngoài sân ngồi xuống để cho Mã Đán cạo đầu.
Thoạt nhìn có thể nhầm tưởng rằng da đầu Tưởng Giới Thạch rất láng bóng và bằng phẳng, nhưng thật ra là nó lồi lõm và có nhiều sẹo mờ, nếu là một thợ cạo không có kinh nghiệm, xem nó như bao cái đầu khác cứ thế mà ra tay thì nhất định sẽ gây ra hậu quả khôn lường. Nhưng Mã Đán không hề lo lắng, bởi loại đầu như thế này cậu ta đã gặp quá nhiều, thậm chí còn có nhiều cái đầu khó cạo hơn. Mã Đán nhớ kỹ lời Lý Tông Nhân, không xem cái đầu của Tưởng Giới Thạch là cái đầu mà xem là một quả dưa, cạo theo sở thích của riêng mình, vừa cạo vừa ngâm nga một khúc dân ca Thượng Tân.
- Khi cậu cạo đầu, ta trông thấy rõ là thần thái của cậu nhẹ nhàng, tinh thần rất ổn định, không lo không lắng, không vội không chậm, đúng là khí độ của một đại tướng. - Tưởng Giới Thạch nhận xét rồi hỏi - Sao cậu luyện được trình độ này?
- Cạo đầu cũng giống như chiên trứng vậy, trứng gà hay trứng vịt cũng như nhau, chiên nhiều thì trứng không còn là trứng nữa.
Tưởng Giới Thạch chưa rõ ý tứ trong câu trả lời của Mã Đán, lại hỏi:
- Đầu của ta so với đầu của Lý Tông Nhân tiên sinh có gì khác nhau?
- Đầu của trưởng quan Lý giống trứng gà, đầu của Ủy viên trưởng Tưởng giống như trứng vịt.
- Thế ai hơn ai kém?
Mã Đán suy nghĩ một lát rồi nói:
- Không thể phân định hơn kém hay đẹp xấu được, nhưng nếu hai cái trứng đập vào nhau thì tất yếu cả hai sẽ bị vỡ. Tôi muốn hai ngài dĩ hòa vi quý.
Tưởng Giới Thạch cười ha hả nói:
- Một gã thợ cạo mà nói năng cực kỳ lý lẽ súc tích. Cả ta lẫn Lý Tông Nhân tiên sinh đều tận trung báo quốc, đoàn kết chặt chẽ. Nghe nói là mỗi lần cậu cạo đầu cho Lý tiên sinh là ông ta sẽ thắng trận, điều thần kỳ ấy có thật không?
- Làm gì có chuyện ấy! Chẳng qua là người ta đơm đặt thế thôi. Tôi không phải là pháp sư, chỉ là một gã thợ cạo thôi.
- Thợ cạo đầu của ta bị người Nhật bắn chết, từ đó đến nay ta chưa được ai cạo đầu mà cảm thấy vừa ý cả. Cậu có đồng ý lưu lại bên ta, làm thợ cạo đầu cho ta không? Ngày nào ta cũng muốn cạo đầu. Dao không mài thì không sắc, đầu không cạo thì không linh hoạt. Nếu không cạo đầu, Lý Tông Nhân tiên sinh làm sao có thể lợi hại hơn ta được?
- Tôi không muốn đánh nhau nữa. Tôi muốn về quê để cạo đầu cho bà con hàng xóm, làm một gã thợ cạo bình dân thôi.
- Ta cũng không muốn có chiến tranh. Đầu tiên là đánh nhau với Lý Tông Nhân, rồi đánh nhau với cánh quân phiệt lớn nhỏ, đánh nhau với người Nhật. - Tưởng Giới Thạch thở dài nói - Bây giờ ta chỉ muốn hưởng thái bình… Nghe đâu trước kia lá gan của cậu bé như gan chuột, đánh nhau thì són đầy quần bị người ta cười. Nhưng ta lại không thấy nó đáng cười tí nào cả. Ai lại không sợ chết chứ? Năm ấy Lý Tông Nhân tiên sinh cũng đã bị chúng ta đánh cho thất điên bát đảo, kêu cứu liên tục đấy thôi. Tưởng Giới Thạch ta cũng sợ chết, lần đầu tiên ra trận đánh nhau cũng són đầy quần, kêu cha khóc mẹ, tiếc là không đào được một cái hang mà chui tọt vào như một con chuột để mà trốn. Nói cho cậu biết, người sợ chết mới có thể sống lâu.
Mã Đán cho rằng những lời Tưởng Giới Thạch đã nói đều có lý, cũng giống như ngày xưa bố mình đã từng nói, nói cách khác là cách nhìn người, nhìn đời của Tưởng Giới Thạch với bố mình có rất nhiều điểm tương đồng.
- Cạo đầu an toàn và dễ chịu hơn nhiều so với đánh nhau, vả lại, cậu lại được cạo đầu cho Tưởng Giới Thạch ta. - Tưởng Giới Thạch nói.
- Tôi vẫn cứ muốn về nhà cạo đầu cho bà con ở quê.
Tưởng Giới Thạch có một chút thất vọng:
- Có phải là cậu cho rằng, làm công việc cạo đầu bỏ vốn thì ít mà lãi nhiều chăng?
- Không phải thế, chỉ là tôi muốn về nhà thôi. - Mã Đán nói rất cương quyết.
Nói đến hai tiếng “về nhà” không hiểu vì sao Mã Đán chợt thấy xúc động trong lòng và một cách vô thức, cổ tay đang cầm con dao cạo như bị tăng một chút sức. Tưởng Giới Thạch kêu “Á!” lên một tiếng theo bản năng vì da đầu của ông ta đã bị lưỡi dao rạch một đường, máu đang rỉ ra. Mã Đán nhận ra là mình đã thất thố với Tưởng Giới Thạch. Một cảnh vệ chạy đến nhìn Mã Đán một cách giận dữ nhưng không nói gì với cậu ta, lớn tiếng gọi bác sĩ. Tưởng Giới Thạch ngăn gã cảnh vệ lại, nói:
- Có gì mà thất kinh nên như thế, chỉ là xước da thôi mà, việc gì phải làm phiền đến bác sĩ?
Gã cảnh vệ cúi xuống quan sát vết thương, định nói gì thêm nữa nhưng nín lại. Tưởng Giới Thạch nói:
- Mã Đán à, đừng quá lo lắng như thế, tiếp tục cạo đi!
Mã Đán hít một hơi thở thật sâu, tiếp tục cạo. Rất may là nhát dao vừa rồi không quá mạnh nên da đầu Tưởng Giới Thạch chỉ bị xước một đường nhẹ, lúc này đã cầm máu.
Đầu của Tưởng Giới Thạch được Mã Đán cạo đi cạo lại, một sợi tóc cũng không bỏ qua, cạo cho đến khi nó trở nên láng bóng như có thể soi mặt được mới dừng tay. Tưởng Giới Thạch đưa tay sờ đầu, tỏ vẻ vô cùng vừa lòng. Ông ta đứng dậy, nói:
- Mã Đán này, ta có cảm giác là trong khi cạo, hình như là cậu đã dùng con dao viết chữ trên đầu ta, đúng không?
Trong lòng Mã Đán định lên tiếng phủ nhận, nhưng miệng lại nói:
- Ủy viên trưởng đúng là thần nhân!
- Thế thì cậu đã viết chữ gì trên đầu ta?
- Ba chữ “Hòa vi quý”!
Tưởng Giới Thạch vỗ vai Mã Đán, nói:
- Ta cũng cảm nhận được ba chữ này. Cạo đầu cũng thiện nghệ mà viết cũng rất hay!
Mã Đán thu dọn đồ đạc cáo từ. Tưởng Giới Thạch nói:
- Đúng là cậu phải đi sao?
- Đúng thế. Từ nay về sau thiên hạ đã thái bình, tôi vẫn còn cơ hội để cạo đầu cho Ủy viên trưởng nữa mà.
- Cậu sẽ nhanh chóng nhìn thấy Trung Quốc thái bình thôi. - Tưởng Giới Thạch nói một cách bóng gió sâu xa.
Từ Nam Kinh trở về, Mã Đán nghĩ rằng mình đã có thể trở về Thượng Tân-.
Nghĩ vậy, Mã Đán cương quyết ra đi. Lý Tông Nhân hỏi:
- Lại sợ chết rồi phải không?
- Không! Tôi chỉ không biết là chiến tranh bao giờ mới kết thúc thôi.
- Nếu muốn thiên hạ thái bình thì dựa vào người khác không bằng dựa vào chính mình. - Lý Tông Nhân nói - Những gì Tưởng Giới Thạch không làm được thì Lý Tông Nhân ta có thể làm được tất!
Lý Tông Nhân yêu cầu Mã Đán chờ đợi trong ba năm. Gã nói:
- Ba năm sau, quân đội Quế Lâm sẽ thống nhất thiên hạ, Trung Quốc sẽ thái bình, nhân dân sẽ an cư lạc nghiệp, đất nước sẽ đi theo con đường tự cường. Đến lúc ấy, cậu muốn làm gì thì làm.
- Thấm thoắt mà tôi đã đánh nhau hơn hai mươi năm rồi. - Mã Đán nói như đinh đóng cột - Tôi không muốn đánh nhau nữa.
Rõ ràng Lý Tông Nhân cũng nhận ra là Mã Đán thật sự không muốn tham gia quân đội nữa. Trên người cậu ta lúc này không còn một chút nhuệ khí hay sát khí nào nữa.
- Cậu không muốn đánh nhau nữa thì thôi, cậu cứ ở lại đây cạo đầu cho ta vậy. - Lý Tông Nhân xuống nước.
- Nếu chỉ cạo đầu mà không cầm súng đánh nhau, người ta sẽ lại gọi tôi là thằng nhu nhược. Tôi đã khó khăn lắm mới vứt được cái danh hiệu đáng sỉ nhục này, cớ gì tôi lại phải vác lấy nó?
- Chiến tranh vẫn chưa kết thúc, nếu trước khi chiến dịch mới diễn ra mà lại bỏ về quê, cậu vẫn mang tiếng là thằng nhu nhược đấy!
Thế đấy! Chỉ vì không muốn người ta gọi mình là thằng nhu nhược mà Mã Đán lại phải tiếp tục đánh nhau! Không còn cách nào khác, cậu ta lại phải đặt hành lý xuống, cầm lấy súng và tiếp tục lao vào lửa đạn.
Đánh nhau với ai thì những gì diễn ra trên chiến trường cũng tương tự như nhau thôi, cũng đao kiếm sáng lòa, cũng rừng gươm mưa đạn, không có một chút ý vị mới nào cả, cái có thật chỉ là sự sống chết, sự tồn tại hay không tồn tại nữa mà thôi. Mã Đán lại tham gia vô số trận đánh lớn nhỏ, thân thể tiếp tục nhận những vết thương mới. Chiến công cũng khá nhiều, cũng vinh dự lắm nhưng suy cho cùng thì Mã Đán cũng đã là một cựu binh với hàng trăm trận đánh đã đi qua đời cậu ta, những gì gặt hái trong chiến tranh sau này không làm cho cậu ta quá vinh dự, quá tự hào nữa. Cuối cùng thì Mã Đán cũng cố gắng đến mùa xuân năm 1949. Lúc này, Lý Tông Nhân chuẩn bị trở thành tổng thống của Trung Hoa Dân quốc. Trước khi nhậm chức, Lý Tông Nhân gọi Mã Đán đến bảo cạo đầu cho mình.
- Cạo xong cái đầu lần này, thiên hạ Trung Quốc sẽ an hưởng thái bình, vĩnh viễn không còn chiến tranh nữa. - Lý Tông Nhân nói với vẻ rất đắc chí.
- Lý trưởng quan à, lúc này ông sắp sửa là tổng thống, tôi phải về quê thôi.
- Cậu bằng lòng với việc đem quãng đời sống một chết mười trong hơn hai mươi năm qua để đổi lấy một chuyện tầm thường là về quê cạo đầu như thế hay sao?
- Tôi chỉ muốn về nhà!
- Được thôi! Ngày đầu tiên tuyên bố thiên hạ thái bình ta sẽ lập tức phê chuẩn để cho cậu về quê!
Không lâu sau đó, hai bên đảng phái lại tiếp tục thất bại trên bàn đàm phán. Cuối cùng thì lòng kiên nhẫn của Mã Đán cũng đã hết, chạy thẳng lên vùng Giang Bắc đầu hàng quân đội Cộng sản. Và cậu ta đã xin được về quê.
- - - - - - - - - -
Ngày ấy sương mù dày đặc, khó lòng phân biệt được là sáng sớm hay hoàng hôn, trời và đất cũng khó mà phân định được một cách rạch ròi, người Thượng Tân đột ngột nghe thấy một tiếng đau đớn khóc xé lòng len lỏi và tản ra trong sương mù, nghe như gần như xa, lúc đứt lúc nối. Tiếng khóc như những nhát búa nện vào tâm can người Thượng Tân khiến người ta khó lòng nén được nỗi thương cảm. Họ rời khỏi nhà, căng mắt nhìn trong sương mù, nhận ra có một đoàn ngựa xuất hiện mờ mờ tỏ tỏ từ phía bắc, dài dằng dặc. Trước tiên, người ta nhìn thấy đầu ngựa, đến mình ngựa, trên lưng mỗi con ngựa là hai chiếc túi nặng trình trịch.
Đoàn ngựa có vẻ cô độc vì chẳng thấy bất kỳ ai dẫn dắt chúng cả. Khi đoàn ngựa sắp đến trung tâm thị trấn, người ta mới phát hiện một gương mặt hình như rất xa lạ nhưng nhìn kỹ, té ra là Mã Đán.
Mã Đán lại trở về. Toàn thể mọi người trong thị trấn đều tập trung ra đường phố để đón Mã Đán và đoàn ngựa của cậu ta. Mã Đán dắt đoàn ngựa lặng lẽ đi trên phố, không chào hỏi ai, mọi người cũng không mạo muội chào hỏi cậu ta. Họ chỉ lặng lẽ đếm số lượng ngựa, thận trọng chúi đầu ghé tai thầm thì với nhau. Khang Khu là người xuất hiện trước mặt Mã Đán cuối cùng. Cô ta đã gầy đến độ chẳng còn ra hình hài gì nữa, đi đến trước mặt Mã Đán mà chẳng khác nào một thây ma đang di động. Khang Khu ôm lấy Mã Đán gào khóc:
- Tất cả mọi người ở thị trấn Thượng Tân này đều cho rằng anh đang cùng hưởng vinh hoa phú quý với Lý Tông Nhân mà không trở về nữa… Nhưng tôi không tin chuyện ấy. Anh đã trở về, cuối cùng thì tôi đã có thể yên tâm mà chết rồi.
- Em phải sống, bởi vì em là lá gan của anh. Ba cửa hàng gạo của nhà ta còn không? Chúng ta đã có thể sống những ngày kê cao gối mà nằm rồi.
Khang Khu đưa tay sờ sẫm cơ thể Mã Đán từ trên xuống dưới, không nhận ra là thiếu chân mất tay nhưng lại mất hẳn một vành tai, kêu lên kinh sợ:
- Tại sao anh lại mất đi một vành tai như thế?
- Làm gì có chuyện vành tai anh bị mất? Chẳng qua là một vành tai của anh nó mọc lặn vào trong óc thôi. Anh nghe vẫn còn rõ lắm.
Những người chung quanh đều bất giác đưa tay sờ tai của mình, có người cười nói:
- Mã Đán không có một vành tai, tôi lại thêm một vành tai mới!
Khang Khu chỉ vào đoàn ngựa hỏi:
- Trong các cái túi kia là thứ gì? Là khoai hay là bạc nén?
Mã Đán chậm rãi trả lời:
- Không phải khoai mà cũng chẳng phải bạc, là xương!
Khang Khu đưa hai tay sờ một túi, quả nhiên là từng cục từng cục cứng ngắc, hoảng sợ la lên:
- Mã Đán không mang bạc về mà là xương!
Là xương của binh đoàn Thượng Tân! Mọi người chợt hiểu, tiếng khóc ai oán mà họ nghe thấy trong sương mù phát xuất từ những chiếc túi vải này!
Gương mặt Mao Tuyết Hoa đã lộ vẻ già nua trước tuổi, tách khỏi đám đông, ngập ngừng đi đến trước mặt Mã Đán hỏi:
- A Tín có về không?
- Trên lưng con ngựa thứ ba!
Mao Tuyết Hoa đi đến chỗ con ngựa thứ ba, sờ sẫm hai chiếc túi trên lưng ngựa, áp mặt vào đó nhưng không hề khóc, hỏi Mã Đán:
- A Tín sợ mà chết à?
- A Tín không hề sợ hãi, ngược lại rất dũng cảm. Anh ấy buộc thuốc nổ đầy người rồi xông thẳng vào doanh trại lính Nhật… - Mã Đán nói lớn - Binh sĩ người Thượng Tân không ai hèn nhát, không ai sợ chết trên chiến trường cả, ai cũng gan dạ, ai cũng chết một cách anh hùng!
- A Tín chết là do tôi. Tôi bảo anh ấy đi tìm cái chết. - Mao Tuyết Hoa nói - Chắc chắn là A Tín rất oán hận tôi!
- Anh ấy không hề oán hận. Từ khi đến chỗ tôi, anh ấy rất vui vẻ. A Tín còn may cho Lý Tông Nhân một bộ quần áo nữa. Khi không đánh nhau, Lý Tông Nhân thường mặc bộ quần áo mà A Tín may cho.
Đang lúc Mã Đán nói thao thao bất tuyệt thì lão Phạm xách chiếc búa tạ trong tay xông thẳng đến chỗ cậu ta. Mọi người chưa có bất kỳ phản ứng nào thì lão đã đến trước mặt Mã Đán, giơ búa lên và chuẩn bị đập thẳng xuống đầu cậu ta. Mã Đán cũng không có ý tránh chiếc búa ấy. Khang Khu kêu lên kinh hoàng, cho rằng chiếc búa đã nện xuống sọ Mã Đán, một cách bản năng, cô ta nhắm mặt lại. Nhưng khi Khang Khu mở mắt ra thì chiếc búa trong tay lão Phạm vẫn còn đang khựng lại giữa không trung. Mã Đán không hề tỏ ra sợ hãi, bình tĩnh đến độ khó tin trước chiếc búa có thể đập vỡ sọ mình bất cứ lúc nào. Mọi người mở to mắt, ngây người nhìn Mã Đán. Cậu ta từ tốn lấy trong túi ra một chiếc huân chương rồi cũng rất từ tốn, gắn nó lên ngực lão Phạm, nói:
- Chiếc huân chương này do Lý Tông Nhân tặng cho chú!
Nói xong, Mã Đán chỉ tay về cuối đoàn ngựa, nói:
- Các con trai chú ở trên bốn con ngựa cuối đoàn, bốn đứa, rất nặng. Tôi đã mang về toàn bộ trả lại cho chú…
Lão Phạm vứt chiếc búa, chậm rãi đi về phía cuối đoàn ngựa. Sương mù dần dần che lấp thân hình lão ta.
Mã Đán đào một chiếc hố rất lớn trên sườn núi Mai Tử, đặt tất cả xương cốt vào một huyệt mộ chôn chung, dựng một tấm bia, ghi: “Binh đoàn Thượng Tân chiến tử chi mộ”. Phía sau tấm bia ghi chi chít tên tuổi của những người đã chết.
Mã Đán ném chiếc huân chương mà Lý Tông Nhân đã cấp cho mình xuống dòng sông, tất cả quân trang quân dụng cũng bị cậu ta đốt sạch, chỉ giữ lại một thanh đại đao là vật duy nhất đã theo cậu ta bao nhiêu năm nay. Mã Đán nói với người Thượng Tân:
- Từ nay về sau, Mã Đán tôi không còn một chút quan hệ nào với chiến tranh nữa. Tôi đã có thể làm một người bình dân, làm một thợ cạo đầu rồi. Chỉ cần có gạo, chúng tôi không còn thiếu gì nữa.
Mã Đán mua lại ba cửa hàng gạo. Mã Nhất, Mã Nhị, Mã Tam đã được phục hồi, lại thuê ba người làm công trông coi công việc ở ba nơi.
Ngày ấy, Mã Đán đang ngồi ngáp vặt trước của hàng Mã Nhất thì đột nhiên nghe thấy tiếng ai đó la lên:
- Mã… tướng quân!
Mã Đán nghĩ là mình đang ngủ mơ, không trả lời. Nhưng cậu ta lại tiếp tục nghe thấy “Mã tướng quân” lần thứ hai. Mã Đán ngước đầu nhìn lên, không có ai cả! Khi nghe thấy tiếng gọi lần thứ ba, Mã Đán đứng dậy, lúc này cậu ta mới nhận ra là có ai đó đang ngồi ở ngoài cửa, nhìn kỹ, té ra là Hồng Xung!
Hồng Xung đang bò lê trên đất, hai chân của lão đã liệt, đi lại bằng cách dùng hai cùi tay chống trên đất và bò lê, toàn thân đầy đất bùn. Vẻ nanh ác trước đây đã hoàn toàn biến mất trên mặt lão. Thấy Mã Đán bước đến, hình như Hồng Xung có vẻ sợ, chống tay quay người định bò đi. Mã Đán nói:
- Có phải là ông muốn đòi lại cửa hàng gạo mà đến đây?
Hồng Xung gập đầu lạy sát đất, nói:
- Không phải, không phải… Chẳng qua là lâu rồi không gặp cậu, muốn nói vài câu không phải về chuyện cũ với cậu thôi.
- Thế thì ông hãy vào trong nhà.
Vẻ mặt Hồng Xung rất thảm hại, đôi mắt đầy vẻ sợ sệt. Khi Hồng Xung bò lên thềm nhà, Mã Đán định đưa tay ra đỡ nhưng lão đã từ chối. Mã Đán hỏi:
- Sao ông lại có thể biến thành bộ dạng thế này?
- Bị bọn chúng đánh!
Mã Đán không biết “bọn chúng” mà Hồng Xung nói đến là ai, chợt nhớ lại Hồng Xung của năm xưa rồi lại nhìn Hồng Xung của hiện tại, trong lòng không ngăn được sự cảm khái.
- Cảm ơn Khang Khu của nhà cậu. Cô ấy đã cứu lão. Không có cô ấy có lẽ lão đã chết đói lâu rồi.
Một mùi thối khăm khẳm bốc lên từ thân thể Hồng Xung. Trong lúc nhất thời, Mã Đán khó lòng chấp nhận một Hồng Xung đang ở ngay trước mắt mình, đang cố gắng chịu đựng thì đột nhiên Hồng Xung cao giọng nói:
- Mã tướng quân à, lão không phải là Hán gian. Lão chưa kịp thay mặt bọn Nhật làm chuyện gì thất đức, bất nhân bất nghĩa thì đã bị Mã Hổ nhà cậu biến thành phế nhân. Cậu phải đứng ra làm sáng tỏ chuyện này cho lão.
- Không được gọi tôi là Mã tướng quân, bởi vì tôi không phải là tướng quân. - Mã Đán nói - Lúc này tôi là một người dân, một ông chủ nhỏ, một gã thợ cạo đầu, thế thôi.
- Cậu là người to gan nhất thị trấn Thượng Tân này, gan của cậu to hơn so với tất cả mọi người. Ngày ấy, cậu cố tình ngụy trang làm như gan của cậu chỉ bằng gan chuột để cho mọi người thấy. Người ta có thể không thấy nhưng lẽ nào lão đây lại không nhận ra hay sao? Lão thì bên ngoài có vẻ mạnh bạo nhưng bên trong lại rất nhu nhược, cậu hoàn toàn tương phản với lão. Lão không tin là lá gan có thể luyện lên to được, gan chuột sao lại có thể luyện thành gan hổ? - Hồng Xung rướn người dậy, thể hiện một thái độ ngưỡng mộ đối với Mã Đán - Làm nên vương hầu khanh tướng vốn là do thiên bẩm!
Mã Đán cười nhạt:
- Trên thế gian này bất kỳ vật gì, chuyện gì cũng đều có thể so sánh, nhưng lá gan thì không thể so sánh được. Ông cũng không nên so sánh nữa. Nếu ông muốn cạo đầu thì tôi có thể giúp ông, đầu của ông cũng nên cạo đi là vừa.
Hồng Xung lắc đầu lia lịa:
- Không dám làm phiền Mã tướng quân. - Lão đổi giọng đề cập đến chuyện vừa rồi - Lão đây vẫn chưa kịp làm điều gì cho bọn Nhật thì đã bị Mã Hổ nhà cậu biến thành phế nhân…
Mã Đán không nói năng gì, nhìn đôi chân dị dạng của Hồng Xung. Rõ ràng là nó bị người ta đánh cho tàn phế.
- Mã Hổ là con cậu, đó là điều rõ ràng như ban ngày, chính xác như mười đầu ngón tay. Nó giống cậu như cùng một khuôn đúc ra… Cậu không nên tin vào những lời đồn nhảm. - Hồng Xung nói những lời dễ nghe như thể muốn an ủi Mã Đán.
Nhưng Mã Đán đột nhiên lại tức giận, định lớn tiếng với lão thì Khang Khu quay về.
- Khang Khu, cô cũng phải nói mấy lời hợp với đạo lý cho tôi chứ.
Hồng Xung bò đến ôm lấy chân Khang Khu, trông lão ta thật thê thảm. Khang Khu nói:
- Tôi đã nói cho ông biết từ lâu rồi, tôi có thể cho ông ăn cơm, nhưng không thể nói cho ông bất kỳ điều gì cả.
- Tôi chưa kịp làm gì cho người Nhật thì đã bị Mã Hổ làm cho biến thành phế nhân…
Hồng Xung nói với Khang Khu. Cô ta đã nghe câu nói này không biết bao nhiêu lần, đã nhàm tai nên hầu như không có phản ứng gì. Hồng Xung tuyệt vọng đưa mắt nhìn Mã Đán. Khang Khu nói với Mã Đán:
- Bọn chúng đã đánh lão thành bộ dạng như thế này, cứ cho là một sự trừng phạt thích đáng thôi.
Hồng Xung buông đôi tay đang ôm chân Khang Khu ra, khóc rống lên:
- Sớm muộn gì bọn chúng cũng sẽ giết chết lão thôi!
- Ông còn gần một nửa cuộc đời ở phía trước, ông nên tích đức hành thiện… - Khang Khu an ủi lão, nói.
- Ngày nào lão cũng tích đức hành thiện. Ngày hôm qua lão đã dùng đất lấp kín cái hố trước cửa hàng thuốc nhà họ Chu, ngày hôm nay lão đã dọn mấy bãi phân chó trước Mã Nhị và Mã Tam. Cống nước ở phố cửa tây bị nghẽn, ngày mai lão sẽ thông cống…
Vừa nói Hồng Xung vừa đưa những ngón tay lên gập lại từng ngón một để Khang Khu có thể đếm được những việc làm “tích thiện” của lão. Khang Khu có vẻ như bị làm phiền, nói:
- Ông không việc gì phải báo cáo với tôi, tất cả người Thượng Tân đều trông thấy hết…
Không nhận được sự “chứng nhận” của Khang Khu, Hồng Xung nằm phục xuống đất, khẩn cầu:
- Năm ấy, khi cô mới đến Thượng Tân, tôi là người đã cho cô ăn, đã cứu sống cô… Ân đền oán trả, cô không nên vong ân bội nghĩa, không quan tâm gì đến chuyện sống chết của tôi lúc này.
Khang Khu thở dài, định vào nhà lấy cơm ra cho lão ta như những ngày bình thường khác, đột nhiên có ai đó khập khà khập khiễng chạy từ ngoài cổng vào, trên tay cầm một chiếc gậy trúc, đập liên tục xuống người Hồng Xung. Lão ta bị đánh đâu, kêu lên oai oái. Mã Đán nhận ra người ấy. Chính là thằng Giang!
A Giang vừa đánh vừa chửi:
- Đồ Hán gian! Đồ vô lại! Chết không cần mặt mũi! Lão nghĩ là trốn ở đây thì tao không ngửi thấy mùi của lão à? Tao đã cảnh cáo lão bao nhiêu lần rồi, không được cướp cơm của tao ở thị trấn Thượng Tân này mà lão cũng không nghe sao?
Hồng Xung run lẩy bẩy bò ra phía sau Khang Khu để trốn. Chiếc gậy trúc trên tay A Giang quất trúng vào người Khang Khu, cô ta chụp lấy chiếc gậy, nói:
- Được rồi, được rồi! Bỏ qua đi!
Thằng Giang không đuổi theo đánh Hồng Xung nữa nhưng vẫn còn hằn học cảnh cáo:
- Tao mà còn thấy lão ở Thượng Tân nữa là sẽ đánh tiếp!
Mã Đán nhận ra là thằng Giang đã già sọm, thân thể cũng còm nhom và hình như lưng nó đã còng.
Sống những ngày yên ổn bên cạnh Khang Khu, Mã Đán tỏ ra thỏa mãn vô cùng. Khang Khu cũng đã có thể ăn no, sức khỏe cũng dần dần hồi phục, có thể dọn dẹp cửa hàng. Có điều cô ta đã già đi trông thấy, nguyên nhân chính là vì nhớ thương Mã Hổ.
- Nếu Mã Hổ nhu nhược như anh thì có lẽ nó không chết sớm như vậy. - Lúc nào cô ta cũng đem Mã Đán so sánh với Mã Hổ - Sao nó lại không nghe lời tôi nhỉ?
- Mã Đán à, tôi không tin là Mã Hổ đã chết. Tối hôm qua tôi đã nằm mơ thấy nó. Nó cưỡi một con ngựa cao lớn trở về Thượng Tân…
- Anh nghĩ là Mã Hổ còn sống hay đã chết? Anh phải nói gì đi chứ! Tôi đã hỏi anh hàng nghìn lần rồi, tại sao anh lại không tự hỏi mình một tí xem sao? Tại sao anh lại nhẫn tâm để một mình tôi thương nhớ Mã Hổ hả?
Ngày nào cũng thế, Khang Khu cứ lặp đi lặp lại những câu nói về Mã Hổ khiến cho Mã Đán nghe đến phát chán, phát phiền, có điều cậu ta vẫn cố làm ra vẻ chăm chú nghe, lên tiếng an ủi Khang Khu. Chỉ khi nào Mã Đán cạo đầu cho ai đó thì Khang Khu mới không mở miệng nói về Mã Hổ mà thôi.
Đúng là khi nào cạo đầu cho ai đó, tâm trạng của Mã Đán mới trở nên bình lặng. Cậu ta tiếc là mình không thể cạo đầu liên tục cho người ta, cho nên mỗi lần trông thấy đàn ông đi ngang là cậu ta lên tiếng:
- Vào đây! Đầu của cậu cần phải cạo rồi đấy!
Mỗi khi có ai đó cần cạo đầu, Mã Đán đều đặt ghế trước cửa hàng Mã Nhất để cạo đầu cho họ. Mỗi lần cầm con dao cạo sắc bén trong tay, Mã Đán không khỏi cảm khái về một thời kỳ vào sinh ra tử, không khỏi nhớ Lý Tông Nhân. Những tin tức có liên quan đến Lý Tông Nhân không ngừng truyền đến từ bên ngoài, nhưng chủ yếu vẫn là chiến bại, vẫn là chạy trốn… Khí thế của quân Giải phóng Nhân dân như chẻ tre. Ngày nước Trung Quốc mới tuyên bố thành lập, thị trấn Thượng Tân treo đèn kết hoa, tiếng thanh la rền trời, tiếng hát tiếng hoan hô tiếng cười dậy đất. Từ trước đến nay hình như dân chúng chưa có được một ngày vui nào như vậy. Mã Đán và Khang Khu đang bận rộn trong cửa hàng thì tiếng huyên náo từ bên ngoài vọng vào. Cả Mã Đán và Khang Khu đều vội vàng chạy ra ngoài, chuẩn bị gia nhập đội ngũ diễu hành. Nhưng họ đã trông thấy một đội người ngựa từ xa đi đến, Mã Đán nhận ra ngay đó là một đội quân Cộng sản.
Mắt Mã Đán cũng đã có dấu hiệu lão hóa nên không thể nhận ra người đi đầu đội quân là ai, chỉ có cảm giác là người ấy rất to cao, rất uy nghiêm. Nhưng Khang Khu đã kịp nhận ra, có điều cô ta đã đứng chết lặng, đôi mắt trợn trừng, hầu như không có bất kỳ phản ứng nào.
- Khang Khu, em bị làm sao thế?
Khang Khu run rẩy toàn thân, chụp lấy vai Mã Đán bíu chặt như không muốn để mình phải ngã lăn ra đất. Mã Đán nghĩ trong bụng là Khang Khu ít gặp những người có thế lực, có uy quyền, lại là lần đầu tiên trông thấy Giải phóng quân nên trong lòng quá sức hồi hộp lẫn lo sợ nên mới có thái độ như thế.
Người đi đầu đội quân đã đến trước mặt Mã Đán và Khang Khu, nhảy xuống ngựa, từ từ bước đến, nhẹ nhàng nhưng trịnh trọng kêu lên hai tiếng:
- Bố! Mẹ!
Cuối cùng thì Khang Khu không nén được nữa, khóc rống lên rồi đổ sụp xuống đất. Mã Đán bước lên một bước, đứng sát với người nọ, nheo mắt nhìn kỹ từ trên xuống dưới, bán tín bán nghi:
- Cậu là Mã Hổ?
- Vâng, con là Mã Hổ đây. - Mã Hổ lấy chiếc mũ xuống.
Mã Đán không ngăn được nước mắt chảy giàn giụa trên má, hai tay cậu ta không biết phải bám vào đâu. Mã Hổ cúi xuống đỡ Khang Khu đứng dậy, nói:
- Mẹ à, con đã về rồi đây!
- Tất cả mọi người đều tận mắt thấy con ngã xuống sông và đều tin là con đã chết rồi, nhưng mẹ và bố con chưa bao giờ tin là con đã chết. - Khang Khu vừa khóc vừa nói - Ngày nào bố mẹ cũng chờ con, chờ đến lúc thời đại thay đổi, cuối cùng thì con cũng đã về!
- Con - đã về đây.
Mã Hổ đã phát hiện ra Mã Đán bị mất một vành tai, cười khà khà nói:
- Bố à, rất may là bố vẫn còn tai trái!
Mã Đán cởi áo để cho Mã Hổ thấy những vết thương ngang dọc trên người, thở dài nói:
- Con trai à, vết thương trên người con có nhiều như bố không? May thật đấy, bố con mình không gặp nhau bằng gươm súng trên chiến trường.
- Lính của con có mấy người vốn là thuộc hạ của bố năm ấy nói về bố rất nhiều. Chúng nói bố đánh nhau rất được, không hề nhu nhược. Nhưng bọn chúng cũng nói, lá gan của con hình như cũng to hơn của bố nhiều.
Mã Đán sờ soạng những tấm huy chương Mã Hổ đang đeo trên ngực, cảm khái thở dài:
- Con trai à, con lớn rồi, thành danh rồi. Bố con ta không cần phải đọ gan với nhau nữa.
Năm ấy, Mã Hổ bị bắn và rơi xuống sông nhưng không chết, có điều đã hôn mê bất tỉnh, nổi vật vờ trên mặt nước và trôi về hạ lưu và được người ta cứu lên ở chỗ cong của dòng sông cách Thượng Tân hơn một trăm cây số, vết thương vừa lành là đã gia nhập đội ngũ du kích của Đảng Cộng sản. Mấy năm sau, Mã Hổ đã trở thành đoàn trưởng trẻ măng dám đánh dám chịu chết dưới trướng của Lâm Bưu và thành công từ đó đến nay.
Cả nhà đoàn tụ như trong truyện cổ tích khiến Khang Khu cả đêm thao thức. Cô ta bảo Mã Đán nằm phía bên trái, còn Mã Hổ nằm phía bên phải của mình, tay trái sờ soạng Mã Đán, tay phải nắn chân nắn tay Mã Hổ nhưng vẫn cứ ngỡ mình đang nằm mơ.
- Từ nay về sau không cho phép hai bố con rời xa tôi nữa, đêm nào cũng ngủ chung như thế này. - Khang Khu nói.
Có điều Mã Hổ không thể lưu lại Thượng Tân được lâu. Cậu ấy chỉ nhân tiện ghé thăm nhà trên đường hành quân. Mã Hổ vẫn còn trẻ lắm, chiến trường vẫn đang vẫy gọi cậu ấy. Khang Khu tiễn chân con trai đến đầu thị trấn phía nam, nắm tay Mã Hổ nói:
- Nước Trung Quốc mới đã thành lập rồi, giang sơn đều về một mối, từ nay về sau cứ kê cao gối mà nằm thôi, nếu có đánh nhau thì cũng không nhất thiết phải liều mạng như ngày xưa nữa. Con phải học bố con, gan bé một tí cũng chẳng mang tiếng xấu gì ghê gớm. Ông nội con khi còn sống cũng thường nói, gan bé thì sống lâu... - Khang Khu vẫn cố thuyết phục Mã Hổ - Nếu con không đồng ý với mẹ, mẹ không thả tay để con đi đâu…
- Con biết rồi. - Mã Hổ gật đầu - Từ nay về sau con sẽ không thèm dũng cảm nữa, giống như bố thời còn trẻ vậy. Chờ khi nào đánh nhau xong, con sẽ về Thượng Tân giúp mẹ bán gạo.
Khang Khu bán tín bán nghi, từ từ nới lỏng bàn tay đang nắm cổ tay của Mã Hổ. Cậu ta nhảy lên ngựa, vung roi. Con ngựa tung vó phi nước đại, chẳng bao lâu đã ra ngoài tầm mắt Khang Khu.
Khang Khu rất ân hận là đã để cho Mã Hổ ra đi, nét mặt ngày nào cũng dàu dàu, nói:
- Anh nghĩ xem, Mã Hổ có thực là sẽ không thèm dũng cảm nữa như nó đã nói hay không?
Trong lòng Mã Đán vẫn nghĩ: Xem tính khí của thằng oắt con ấy thì khó lòng thay đổi, con ngựa non ấy vẫn còn háu đá lắm, chẳng sợ gì hổ dữ ăn thịt đâu. Nghĩ thì cứ nghĩ, nhưng Mã Đán không thể nói ra, lòng cũng lo lắng không nguôi. Một tháng sau, Mã Hổ nhận lệnh tiêu diệt một nhóm thổ phỉ ở núi Ngũ Chỉ, đơn thân độc mã lẻn vào trại phỉ để trinh sát địa hình, bị phát hiện, bắn hết đạn thì cầm đao xộc vào giữa đám thổ phỉ, và tất nhiên là không thể thoát được cái chết.
Ngày ấy sương mù cũng dày đặc, Khang Khu đã có dự cảm là Mã Hổ sẽ trở về nên cứ ra đứng ngoài cổng để chờ, có điều lồng ngực cô ta cứ quặn thắt, tim đập nhanh, không cách nào có thể giữ được bình tĩnh. Đến khi trời sập tối, quả nhiên có một con ngựa chạy từ phía nam đến, trên ngựa là một người lính vừa gầy vừa thấp khiến người ta khó lòng nhận ra là trên lưng ngựa lại có người. Rõ ràng, đó không phải là Mã Hổ. Gã đến trước mặt Khang Khu, nói:
- Bà là bà mẹ anh hùng Khang Khu, đúng không?
- Tôi là Khang Khu.
Người ấy lấy chiếc túi đang khoác trên vai xuống đưa cho Khang Khu, nói:
- Con trai bà, cũng là con của nhân dân, tức đồng chí Mã Hổ đã anh dũng hy sinh. Đây là di vật của đồng chí ấy. - Nói xong thì lấy một vật từ trong túi áo ngực ra nói - Đây là huân chương của đồng chí Mã Hổ!
Khang Khu chỉ nhận những di vật của Mã Hổ, còn tấm huân chương thì cô ta đưa lại cho người ấy, cậu ta nhét nó vào tay Mã Đán. Mã Đán không từ chối được, phải nhận lấy. Người ấy nói:
- Ông bà còn có gì để nhắn gửi với tổ chức không?
Mã Đán lắc đầu, chỉ muốn khóc. Khang Khu chầm chậm nói từng tiếng một:
- Cậu đem con trai tôi về quá sớm!
Mã Đán mở chiếc túi ra, đếm từng đốt xương một, phát hiện là không có xương sọ. Người ấy nói:
- Đầu của Đoàn trưởng Mã đã bị bọn thổ phỉ cắt và vứt đi đâu mất, không thể nào tìm ra.
- Thế thì tôi sẽ phải đi tìm đầu của con tôi. - Mã Đán nói.
Mã Đán cầm lấy thanh đại đao nhảy lên lưng con ngựa đã đưa hài cốt Mã Hổ về nhà, chạy thẳng về hướng nam. Nửa tháng sau, Mã Đán đơn đao độc mã thâm nhập vào sào huyệt của bọn thổ phỉ núi Ngũ Chỉ. Trong số đó Mã Đán nhận ra được một ít người quen vốn từng là lính cánh quân Quế Lâm, đã từng vào sinh ra tử với Mã Đán trong thời gian đánh bọn quỷ Nhật Bản. Mã Đán nói:
- Các người đã giết con trai ta nhưng ta không tính toán gì với các người cả, nhưng các người không thể để cho con trai ta thân một nơi đầu một nẻo. Các người đem đầu con trai ta trả lại cho ta để cho nó được toàn thây.
Bọn phỉ đi lùng khắp núi Ngũ Chỉ, cuối cùng cũng đã tìm thấy đầu Mã Hổ, đưa cho Mã Đán mang về. Mã Đán nói:
- Thiên hạ lúc này cũng về một mối, các người cũng nên đầu hàng mà về nhà thôi, không cần phải bỏ mạng ở những nơi thâm sơn cùng cốc này.
- Chúng tôi không thể về được nữa rồi.
- Sao lại không về được chứ? Buông vũ khí đầu hàng, Giải phóng quân của Đảng Cộng sản sẽ thả các người về nhà thôi. - Mã Đán nói.
- Vũ khí đã đeo bên người chúng tôi hơn hai mươi năm rồi, đã gắn liền với cơ thể chúng tôi rồi, không thể tách rời, cũng không thể buông xuống được.
Cánh tay cầm thanh đại đao rung rung, nhưng Mã Đán chỉ hít một thơi thở thật sâu rồi quay người rời khỏi núi.
Mã Hổ được chôn ở sườn núi Mai Tử, bên cạnh mộ của Mã Cạo Đầu.