← Quay lại trang sách

Lời nói đầu

Người qua đường yên lặng ngã xuống, mọi tiếng động bị màn sương mù hấp thụ trước khi thân thể chạm đất. Chiếc cặp da của anh ta đập cái “tõm” xuống vỉa hè.

Ngài Smith thở dài. Hắn nhủ thầm: “Thật dễ quá! Dễ hơn cả lần đầu tiên!”

Thật vậy, thậm chí hắn còn không cảm thấy mồ hôi ướt tay và cơn đau quặn dạ dày đã làm chùn bước chân tử thần của hắn vào hôm kia.

Các ngọn đèn đường đã bật từ sáng sớm, đánh dấu từng đoạn phố như những chiếc kén rực rỡ, và một vài chiếc xe hiếm hoi di chuyển chầm chậm. Chỉ thấy đôi găng và chiếc mũ bảo hiểm trắng của những nhân viên điều tiết giao thông, bên trên khuôn mặt nhợt nhạt của họ. “Thời tiết tuyệt vời cho kẻ giết người!” Đây cũng lời ngài Smith nói với bà Hobson khi ra khỏi nhà.

Hắn dùng chân lật xác lên, quỳ xuống, nắm cổ tay nạn nhân. Cuối cùng, đôi tay bọc găng cao su đen của hắn di chuyển trên thân xác nạn nhân như những con bọ cánh cứng ăn xác nhanh nhẹn.

Mười phút sau, trước ngôi nhà số 15 phố Rackham, bốn người đàn ông vây quanh một khối đen nằm trên vỉa hè.

Người đầu tiên là bác sĩ Graves, từ bệnh viện Princess Louise gần đó. Người thứ hai bận đồng phục cảnh sát. Người thứ ba là thanh tra Fuller của Scotland Yard [1] . Người thứ tư, người cuối cùng, rõ ràng là đang phải chịu áp lực lớn, là một nhân viên phục vụ cũng đến từ bệnh viện Princess Louise. Chính cậu ta là người đã vấp phải thi thể và báo cảnh sát.

“Vỡ sọ.” Bác sĩ đứng dậy và nói. “Chết đột ngột, ít nhất trong khoảng mười lăm phút.”

Ông ta nói thêm, không biểu lộ chút cảm xúc nào.

“Đây là người thứ hai trong vòng ba ngày, nếu tôi không nhầm?”

Đến lượt viên thanh tra khám xét nạn nhân. Dứt khoát như một người chắc chắn về việc mình đang làm, anh ta sử dụng cả hai tay lục soát. Tay trái mò vào túi trong áo khoác và không tìm thấy gì. Tay phải lần xuống dưới thi thể nạn nhân và rút ra một tấm danh thiếp có tên viết tay.

“Tôi tự hỏi.” Ông cảnh sát nói.

"Ừ." Fuller trả lời.

Chánh thanh tra Strickland được coi là người đàn ông điềm tĩnh nhất cả Scotland Yard. Ngay cả bà Strickland cũng từ bỏ việc làm ông mất bình tĩnh khi tặng ông cặp kính lần thứ ba.

“Rồi sao?” Ông ta nói khi thanh tra Fuller báo cáo về vụ án xảy ra trên đường Rackham.

Dù nghe bất cứ câu chuyện nào, cho dù là câu chuyện về một tên tội phạm tự cắt cổ sau khi sát hại toàn bộ gia đình của mình, chánh thanh tra Strickland cũng luôn chỉ nói: “Rồi sao?” Chẳng kết cục nào làm ông ta hài lòng.

“Porter đã thú nhận, thưa ông. Gã đã đút ngọc trai cho bầy cá vàng của gã.”

“Rồi sao?”

“Người phụ nữ đã bị bắt, thưa ông. Thủ phạm là cô phục vụ ở quán Lyon’s.”

“Rồi sao?”

Thậm chí một nửa cảnh sát London luôn mơ được quát vào mặt ông ta. “Và rồi, con sói ngoạm hắn luôn!”

Fuller, người đàn ông Fuller to béo và ưa hình thức, chính anh ta cũng muốn làm điều đó vào đêm hôm ấy. Nhưng anh ta biết không thể lộ ra chút cảm xúc nào.

“Và rồi, người đàn ông ở phố Rackham đã bị đánh bằng một túi cát, giống ông Burmann ở đường Tavistock hôm kia. Anh ta bị sát hại để cướp tài sản giống ông Burmann. Cuối cùng, tên sát nhân để lại cho chúng ta một tấm danh thiếp lần nữa.”

Khi nói điều này, thanh tra Fuller đặt tấm danh thiếp lên bàn của sếp mình, tờ giấy mà anh ấy đã tìm thấy dưới thân thi thể khoảng hai mươi phút trước đó.

“Ngài Smith!” Ông chánh thanh tra đọc to. “Người đàn ông của chúng ta cần gì phải để lại chữ ký vào tội ác của mình như thế này?”

“Tôi cũng tự hỏi điều đó.” Fuller nói. “Sẽ dễ hiểu hơn nếu đó là một kẻ điên. Nhưng ngài Smith không phải một tên điên. Hắn chỉ tuân theo động cơ tầm thường nhất: lợi ích.”

Strickland gật đầu: “Ai biết được? Có thể việc cướp tài sản chỉ nhằm đánh lạc hướng điều tra thôi. Vẫn chưa xác định được danh tính nạn nhân hả?”

“Chưa a, thưa ông. Nhưng tôi đã cử sáu người điều tra cư dân sống gần hiện trường vụ án.”

Fuller cảm thấy cần phải tự bào chữa: “Dù sao thì cũng đã có tiền lệ... Nạn nhân thứ hai cũng có thể bị tấn công ở khu của mình.”

Strickland hiểu ý và chỉ gật đầu. Ông nghĩ về kẻ tự xưng Smith. Đó có phải tên thật của hắn? Hẳn không phải. Phải chăng hắn đang ẩn náu sau một biệt danh? Ở cả hai trường hợp, mục đích của hành vi phô bày bệnh hoạn này là gì?

Strickland lại nghĩ đến buổi tối bị phá hỏng, về món chân giò hầm kiểu Ý mà bà Strickland sẽ phải ăn một mình, và cơn giận tối tăm của Đại tá Hempthorne khi nghe tin vụ án mạng thứ hai này. Ông sẽ phải thức cho đến khi xác định hết hy vọng cuộc điều tra tiến triển thêm gì vào hôm đó.

“Nghe rõ này, Fuller!” Cuối cùng, ông lên tiếng. “Nếu danh tính của nạn nhân không được xác định vào đêm nay, hãy đăng một thông báo trên các báo sáng. Yêu cầu bác sĩ Hancock trình bày kết luận của ông ấy trong vòng mười hai giờ. Tăng cường tuần tra, cẩn thận xung quanh trường St. Charles và trạm Westbourne Park. Ra lệnh thẩm vấn và lục soát tất cả những đối tượng khả nghi... Tôi muốn báo cáo mỗi giờ.”

“Mỗi giờ!” Fuller ngầm nhận ra ông chánh thanh tra vừa thể hiện dấu hiệu cảm xúc duy nhất mà ông ấy có. Anh nói: “Vâng, thưa ông.” Và đi ra khỏi cửa.

Lúc sắp ra khỏi phòng, anh ta quay lại. Strickland cầm tờ bìa cứng bằng ngón trỏ và ngón cái, thứ mà kẻ vô danh đã viết in hoa lên cái tên Smith, trầm ngâm nhìn nó.

Ánh mắt hai người đàn ông chạm nhau, và Fuller bỗng bạo dạn hơn.

“Tình hình xấu cho những người tên Smith, thưa ông.” Anh nói. “Nếu ông cho phép tôi đưa ra ý kiến.”

Thật vậy, vụ án mạng phố Rackham diễn ra chỉ trong bốn mươi tám tiếng sau vụ tương tự đã làm dấy lên những hiện tượng xã hội kỳ lạ, ngoại trừ những hậu quả khác.

Những người trước đây được tôn trọng, những người chỉ có lỗi duy nhất là mang tên Smith, bất chợt bị mọi người nghi ngờ và thù ghét. Ai nấy tránh xa họ khi họ đến gần, và họ bị người khác chỉ trỏ. Một thậm chí bị các nhà cung cấp dịch vụ từ chối. Có những người bị đuổi ra khỏi các hội đồng mà mới ngày hôm qua đây thôi, họ còn được tiếp đón một cách thân thiện nhất. “Tẩy chay những tên Smith!” Đó là tiếng nói của dân chúng. Ở khu phố East End [2] , cảnh sát đã phải bảo vệ một số cửa hàng trước đám đông bắt đầu cướp phá. Ngài Chipini, giữ chức vụ giám đốc của nhà hàng Savarin, không bao giờ quên cuộc chiến kịch liệt đã xảy ra một chiều thứ Bảy, khi người phục vụ có ý tưởng tồi tệ đi qua sảnh khách sạn (nơi có ít nhất ba “con cừu đen”) mang theo một bảng hiệu với dòng chữ: Chúng tôi muốn ngài Smith nghe điện thoại. Nếu không có ai chết, thì cũng không ai phải chịu trách nhiệm.

Một tờ tuần báo nổi tiếng hài hước còn thất bại khi đùa rằng đề nghị đổi tên cho khoảng năm ngàn (?) Smith ở London thành Jones. Những ký ức về Jack Đồ tể vẫn còn sống động, nên dân chúng chẳng còn chút khiếu hài hước nào trong cả lời nói lẫn hành động. Tất nhiên là ngài Smith chẳng để lại những vết thương tàn bạo trên thi thể nạn nhân như kẻ tiền nhiệm của hắn. Mặt khác, hắn cũng không có dấu hiệu tâm thần nào. Tội ác của hắn bắt nguồn từ lòng tham. Sau rốt, tất cả chỉ khiến nỗi khủng hoảng trầm trọng hơn.

Ông Burmann đã bị sát hại ở đường Tavistock vào mười một giờ tối, ngày 10 tháng Mười một, và ông Soar - người đàn ông đã chết ở đường Rackham là một tay buôn đồ cổ tên là Benjamin Soar - bị giết vào năm giờ chiều ngày 12 tháng Mười một.

Vào ngày 19 của cùng tháng (ngài Smith vừa thực hiện vụ án thứ ba, nhắm vào một luật sư nổi tiếng, có tên Derwent), một người tên Jeroboah Smith đã nhảy xuống sông Thames từ cầu Tự sát [3] . Người ta đã cứu anh ta, nhưng dòng nước lạnh đã khiến anh ta bị viêm phổi và qua đời sau hai mươi tư giờ. Trong những ngày tiếp theo, không còn đếm được bao nhiêu Smith thất nghiệp và những người đã chuyển nhà với hy vọng tìm thấy hàng xóm thân thiện hơn, nhưng vẫn không thể tìm được nơi ở. Nói tên Smith tương đương việc bị sa thải với một người hầu; bị tống cổ ngay lập tức với một người tiếp thị; và bị cướp chỗ trú ngụ dưới chân cầu Tháp London với một kẻ vô gia cư...

Một số người tích cực đã cố gắng chứng minh trong những cuộc thảo luận sôi nổi rằng không lẽ nào cái tên Smith mà kẻ sát nhân tự xưng đó lại là tên thật được. Họ bị đáp trả bằng những lời bất lịch sự và tự bản thân họ cũng bị nghi ngờ.

Thành phố London, dần chìm trong sợ hãy, và cười nhạo những giọng nói lý trí! Họ chỉ muốn tìm kẻ chịu trách nhiệm.

Tuy nhiên, Scotland Yard vẫn làm việc.

Mỗi ngày, những người lãnh đạo, mà dư luận thường gọi là Bộ Tứ, đều ra những biện pháp mới và tốt hơn.

Ví dụ, sau án mạng của ông Derwent tại phố Maple, họ đã khoanh vùng hoạt động của ngài Smith trên bản đồ, thành một khoảng chữ nhật rộng kéo dài từ bảo tàng Anh quốc đến Wormwood Scrubs và bao gồm phần tốt nhất của khu Paddington, Bayswater, Notting Hill,...

Do đó, một số quyết định được đưa ra:

1. Tất cả các cảnh sát và thanh tra thường phục tuần tra ở khu vực này của London sẽ được trang bị súng vào ban ngày và ban đêm;

2. Nếu có dấu hiệu sương mù, nhân lực sẽ tăng gấp đôi;

3. Họ sẽ phải đặt câu bỏi và, nếu cần, khám xét tất cả những người đi bộ độc bành;

4. Đội bay và đoàn xe máy giám sát trong khu vực này sẽ tăng (vẫn trong điều kiện thời tiết sương mù) năm mươi phần trăm;

5. Các chủ khách sạn, nhà trọ,... sẽ được yêu cầu hỗ trợ cảnh sát bằng cách cung cấp thông tin về bất kì người nào có hành vi đáng ngờ;

Những biện pháp này, kèm theo hai mươi biện pháp khác (thử nghiệm các hệ thống chiếu sáng mới trong trời sương mù, điều tra trong các khu ổ chuột,...) đã tạo hiệu ứng. Trước nhất là dựng xây lòng tin mới trong nhân dân và thứ hai, cản được hoạt động phạm tội của ngài Smith. Hắn ta đã thất nghiệp, nếu ai đó dám nói vậy, trong ba mươi tư ngày, một con số chính xác.

Mọi người đều biết tại London, ngày lễ Giáng sinh được tổ chức với niềm vui và cả tinh thần đoàn viên. Người dân ở đó có quyền hy vọng từ sâu trong tâm hồn riêng tư rằng ngài Smith, nếu hắn là người Anh, sẽ nghỉ lễ.

Tuy nhiên, có lẽ ngài Smith không phải là người Anh, hoặc làn sương mù đậm đặc lưu huỳnh trên đường từ trưa ngày 24 tháng Mười hai, đã thành công khiến hắn quên đi...

Dù sao đi nữa, khi bước vào đường Foxglove từ Western Circus vào buổi chiều, cảnh sát Alfred Burt nghe thấy tiếng vật gì rơi rất gần. Chỉ kịp dành thời gian bật đèn pin, sau đó anh ta lập tức chạy lại. Than ôi! Đó là một sai lầm! Anh ta nhận ra điều này khi thấy một người đàn ông cúi gập người chạy vụt đi, trong khi một bóng đen bất động đang nằm trên lề đường. Tuy nhiên, cảnh tượng này chỉ kích thích Burt. Hoàn cảnh cung cấp cho anh ta cơ hội độc đáo để tỏa sáng: Anh ta sẽ tận dụng cơ hội này!

Sải dài bước chân hết cỡ, anh ta đưa còi lên miệng, cuống cuồng lấy hơi...

Nhưng số phận đã định sẵn rằng Alfred Burt sẽ không bao giờ trở thành trung sĩ. Tại nơi phố Foxglove gập góc để nối với đường Hilary, anh ta đã đâm ngay phải định mệnh, dưới hình dạng một người qua đường vô hại đang cúi đầu. Khi anh đứng dậy, kẻ tẩu thoát đã biến mất trong làn sương mù.

Hai mươi phút sau, cảnh sát Withers cũng phát hiện một thi thể còn ấm ở bên lề công viên Wormholt: Một cụ bà đội tóc giả màu hung. Căn cứ vào đôi tay co quắp, bà đã chết khi cố nắm lấy cái túi lưới trong tuyệt vọng. Nhưng giờ cái túi đã biến mất.

Có thể vì muốn trả thù nỗi sợ trong thời gian qua, hoặc vì vụ trước đó không được “trả công”, ngài Smith đã thực hiện một vụ án kép.

Đương nhiên, sau hành động xúc phạm đến vậy của hắn, Scotland Yard đã tổ chức một cuộc họp mới. Cuộc họp quy tụ không dưới mười vị tai to mặt lớn. Ngay sau đó, bốn trong số họ đã phải đến gặp thủ tướng, ngài Leward Hughes, họ hấp tấp vì bị kết tội.

Thật vậy, ngài Smith đã trở thành mối nguy hại quốc gia. Nếu không nhanh chóng khắc phục, hắn có thể sẽ khiến cả London rơi vào tình trạng hoảng loạn và nghiêm trọng hơn là khiến người ta nghi ngờ về năng lực của cảnh sát Anh.

Ngài Leward hỏi khi nào và bằng cách nào Scotland Yard dự định chấm dứt những chiến công của ông Smith. Ngài Christopher Hunt, Ủy viên Cảnh sát trưởng, đã trình bày ngắn gọn các biện pháp và ngài Leward cho rằng, không phải không có lý do, rằng điều đó là không đủ vì ngài Smith vẫn tiếp tục công việc đồ tể của mình.

Ngài Leward hỏi xem Scotland Yard đã tiến hành cuộc bắt giữ nào chưa. Đại tá Hempthorne trả lời rằng họ đã bắt mười hai người, nhưng không ai bị câu lưu cả. Ngài Leward lại hỏi Scotland Yard có nhận đề nghị thú vị nào từ người dân không. Phó ủy viên Prior trả lời rằng họ đã nhận được một ngàn một trăm mười bảy đề nghị, tất cả đều đã được xem xét rất cẩn thận và có ba đề nghị được lưu ý. Ngài Leward lại hỏi ngài Christopher rằng liệu ông ta có nghĩ rằng Bộ đang thất thế không. Ngài Christopher đáp trả bằng việc xin từ chức. Ngài Leward nguyền rủa rằng ông ta không quan tâm tới điều đó.

Cuối cùng, tất cả thống nhất sẽ đăng lệnh truy nã với phần thưởng từ năm mươi đến hai ngàn bảng cho bất kì thông tin nào có thể giúp lần ra danh tính hoặc bắt giữ tên tội phạm. Ngoài ra, ngài Leward cũng sẽ bàn với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về việc có nên điều động quân đội để tăng lực lượng cảnh sát.

Sau buổi họp, đại tá Hempthorne lại gần ông Cecil Blain và nắm lấy cánh tay ông.

“Có chuyện quỷ gì thế, thưa quý ngài thân mến?” Ông ta hỏi, cộc cằn như mọi khi. “Suốt buổi chiều không thấy ông thốt ra câu nào.”

Ông Cecil cáu kỉnh nhìn ông đại tá.

“Tôi đang muốn gặp ông đây!” Rốt cuộc ông ta cũng lên tiếng. “Ngày mai, con gái tôi sẽ cưới chồng, ở Saint-Pancras, với một thằng Smith!”

Ở chỗ khác, Sturgess, thư ký riêng của thủ tướng, đang cố gắng giúp lãnh đạo của anh tự tin vào tương lai:

“Thưa ông, tôi tin là ngài Smith đang quá mạnh. Tính cách táo tợn này sẽ khiến hắn thất bại.”

Nhưng “ông lớn” lại nghĩ khác: “Ngược lại, Sturgess ạ! Tính cách đó sẽ khiến hắn trở nên tuyệt vời. Hắn đã ngây ngất rồi. Từ giờ, không gì có thể cản hắn lại nữa!”

Các sự kiện đã chứng minh đầy bi thảm rằng ông thủ tướng đã đúng.

Vào thời khắc câu chuyện này bắt đầu, ngài Smith vừa sát hại nạn nhân thứ bảy của hắn, vẫn trong thời tiết mây mù và u ám, trong bối cảnh bất biến của một thành phố ma.