← Quay lại trang sách

Chương 17 “NGÀI VALÉRIE THÂN MẾN!”

“Nhưng... Hung khí ở đâu?” Robin rống lên khi Strickland chuẩn bị ra ngoài. “Ít nhất thì ông đã phải tìm thấy hung khí chứ!”

“Đúng... Miễn là nó còn ở nhà trọ.”

“Ý ông là sao?”

“Kể từ khi nhà số 21 quảng trường Russel nằm trong tầm giám sát của chúng ta, ngài Smith đã gây ra ba vụ án mới, trong đó có hai vụ tại các nơi công cộng. Hãy thử giả sử - mặc dù khó tin - rằng ông ta đã tìm ra một nơi giấu đồ ngay trong nhà bà Hobson mà chúng ta không thể tìm thấy. Liệu ông ta có thể mang theo túi cát vào ngày thứ Ba tuần trước và tối qua khi rời khỏi nhà? Ông ta có dám không? Tất nhiên là không! Nếu lúc đó chúng tôi kiểm tra thì ông ta đã thất bại!”

“Vậy ông giải thích tại sao tất cả các nạn nhân - ngoại trừ ông Julie - đều bị tấn công bằng cùng một hung khí?”

“Rất đơn giản. Trước khi sát hại ông giáo sư, khi vẫn được đi lại tự do, ngài Smith đã phải tìm kiếm một nơi giấu đồ bên ngoài, vì hắn đoán được nhà trọ sẽ bị theo dõi chặt chẽ sau vụ án. Vậy nên hắn có thể ra vào mà không mang theo gì.”

“Các con đường ở London không có nhiều nơi chứa đồ kiểu vậy.”

“Các con đường thì không, nhưng các công viên và quảng trường thì có. Có thể hung khí đang nằm dưới bụi cây hoặc trong đất mềm.”

“Người đi dạo, trẻ em có thể tình cờ phát hiện ra.”

“Và thế thì sao? Vải không giữ được dấu vân tay.”

“Đúng. Nhưng nếu bị phát hiện thì ngài Smith mất vũ khí.”

“Tạm thời thôi. Và bị mất vũ khí còn tốt hơn bị treo cổ!”

Robin đã nhấn chìm cô gái nhỏ màu xanh ông vẽ trên tấm trải bàn dưới làn nước biển cuộn sóng.

“Vĩnh biệt các bằng chứng xác thực! Chúng ta lục soát một căn nhà. Không ai lục soát cả một thành phố!”

“Đặt mục tiêu trong một phường đã. Tốc độ ngài Smith trở lại nhà trọ sau khi phạm tội giúp ta hạn chế phạm vi tìm kiếm trong khu vực lân cận quảng trường Russell. Sau khi Collins bị bắt, người có vẻ như đặt dấu chấm hết cho vụ án này, các thanh tra giám sát nhà số 21 chỉ cần ghi lại thời gian khách trọ nam đi đi về về tùy ý. Vụ án mạng của bà Dunscombe đã khiến họ phải tiếp tục theo dõi. Có vẻ họ đã bỏ qua việc này?”

“Tôi sẽ biết sớm thôi.”

Khi trở về văn phòng của mình, Strickland gọi các thanh tra Silver, Fusby và Hapgood đến.

“Xác của ông Lawson, ký giả tạp chí Night and Day , được tìm thấy vào bình minh, nằm ở góc quảng trường Lincoln’s Inn Fields. Theo bác sĩ Hancock, vụ án do ngài Smith gây ra xảy đến vào khoảng mười một giờ tối. Các cậu đã được giao nhiệm vụ theo dõi ông Crabtree, giáo sư Lalla-Poor và ông Andreyew... Trong ba người, ai đã bị mất dấu người mình theo dõi?”

Ba thanh tra này ngượng ngùng liếc nhau.

“Thiếu tá Fairchild đã ra ngoài vào khoảng chín giờ.” Hapgood nói. “Ông ta đã đi bốn vòng quanh quảng trường với tốc độ nhanh, va chạm với khoảng sáu người trên đường. Sau đó, ông ấy quay về và không ra ngoài nữa.”

“Tôi không quan tâm đến thiếu tá Fairchild! Hãy nói cho tôi về ba người còn lại.”

“Gã đàn ông người Ấn Độ ra ngoài lúc tám giờ hai mươi tám phút. Ông ấy đã đi quanh quảng trường Woburn, đi qua quảng trường Gordon, đến công viên Gordon Square, và ở đó...”

“Ông ta hô biến hả?”

Mặt Hapgood đỏ bừng như một bông hoa dâm bụt: “Tôi đã nói rằng sương mù thực sự đã nuốt chửng ông ấy.”

“Sau đó?”

“Tôi tiếp tục giám sát trước nhà số 21. Thầy tu đã trở về lúc mười một giờ bốn mươi lăm phút.”

“Đến lượt anh, Silver! Andreyew đã làm gì? Tôi đoán ông ta cũng ra ngoài?”

“Đúng vậy, thưa ông. Lúc tám giờ mười. Ông ta có vẻ không hài lòng khi thấy tôi và đã quay lại nhìn tôi nhiều lần. Tôi mất dấu ông ta tại đường Theobalds.”

Silver cảm thấy cần phải tự bào chữa. Nhưng anh ta thiếu trí tưởng tượng. Anh ta kết luận: “Tôi nói rằng sương mù thực sự đã nuốt chửng ông ấy.”

“Tốt lắm! Ông ta trở về lúc nào?”

“Mười hai giờ bốn mươi hai phút.”

“Còn ông Crabtree...”

“Ông ấy ra ngoài lúc tám giờ rưỡi.” Fusby nói nhanh, giờ anh ta hối hận vì đã lên tiếng cuối cùng. “Ông ấy trở về lúc mười một giờ năm mươi. Ông ấy ban đầu có vẻ hối hả. Sau đó, ông ấy đã dừng lại trước các cửa hàng, rạp hát, rạp chiếu phim. Tôi đã theo dõi ông ấy đến Haymarket...”

“Nơi mà, để tôi đoán, sương mù thực sự đã nuốt chửng ông ấy?”

“Phần nào, thưa ông.”

Fusby dũng cảm hơn: “Tôi không bao giờ bỏ lỡ người mình theo dõi... Tôi vẫn thấy ông ta!”

Từ cửa sổ của mình, ông Andreyew thấy chiếc xe cảnh sát đậu trước nhà trọ và người luôn bình tĩnh như ông cũng cảm thấy bất an trong một phút. Vận mệnh đã được quyết định! Cảnh sát đang đến để bắt con mồi của chúng!

Ông tiến lại gần ống khói và tự nhìn vào gương, trong khi diễn vẻ mặt của tên tội phạm bị truy nã, sau đó là của người phiêu lưu vô tư lự.

Khi ông nhẹ nhàng cười, có tiếng gõ cửa và giọng nói của một người phụ nữ gọi tên ông.

Ông đi mở cửa. Bà Hobson bước vào với tiếng váy lụa sột soạt. Bà ấy trông có vẻ hoảng hốt.

“Tôi đã muốn thông báo cho ông!” Bà ấy vừa nói vừa thở hổn hển. “Bác sĩ Hyde vô tội... Tên quái vật Smith đã gây ra một vụ án mới!”

“Khi nào?”

“Tối hôm qua. Cảnh sát đang lùng sục trong nhà. Họ muốn hỏi ông, ông Crabtree và thầy Lalla-Poor.”

Ông Andreyew tiếp tục diễn vở kịch mà ông đóng vai chính mình: “Boje moi...! [26] Tôi thua mất!”

Ông ta trộm quan sát bà Hobson. Ông thấy bà run rẩy, liền tận dụng cơ hội: “Tôi không được phép tiết lộ cho họ tôi đã làm gì trong buổi tối! Và tôi đã từ chối khai báo cho họ những gì tôi đã làm, trong lúc bà Dunscombe bị giết!”

“Tại sao?”

“Vì tôi đang ở nhà một người phụ nữ.”

“Còn tối hôm qua?”

“Tối hôm qua cũng vậy!”

“Vẫn người phụ nữ đó sao?”

“Không, một người khác.”

Bà Hobson đe dọa ông bằng ngón tay: “Đồ tồi! Tôi nên ngừng quan tâm ông... nhưng tôi không thể!”

“Valérie thân mến!” Người đàn ông Nga nói và nắm lấy tay bà.

Ông ta nói thêm với vẻ khéo léo hiếm có: “Gọi tôi là Boris.”

Bà Hobson tái đi. Dường như bà đang đấu tranh mạnh mẽ với chính mình.

“Nghe này... Họ không được bắt ông! Tôi sẽ nói rằng chúng ta đã ở bên nhau cả tối...”

“Ở đâu?”

“Trong phòng làm việc nhỏ của tôi.”

“Có thể có nhiều khách trọ chứng thực ngược lại.”

“Trong phòng ngủ của tôi thì sao!”

“Họ sẽ hỏi tôi đang làm gì ở đó.”

“Nói với họ... Ông biết phải nói gì mà!” Ông Andreyew bắt chước một cảm xúc chân thành mà ông sắp cảm nhận được.

“Một sự hy sinh như vậy...” Ông bắt đầu.

Bà Hobson cắt lời: “Hoạn nạn mới thấy chân tình.” Bà nói một cách đơn giản.

Bà ta khép hờ mắt, ngẩng đầu. Andreyew ôm vai bà và họ trải qua khoảnh khắc dài, yên lặng. Họ không hôn nhau. Tuy nhiên, sau này, Valérie Hobson không bao giờ gợi lại cảnh đấy mà không cảm nhận được hơi thở của Boris trên môi mình.

“Không.” Người đàn ông Nga nói. “Hobson thân yêu, tôi cảm ơn bà từ sâu thẳm con tim. Nhưng tôi sẽ tự kéo mình lên hoặc chết chìm một mình trong nước biển. Điều gì...?”

Tấm ván sàn ngoài hành lang kêu rắc. Ông ta mở tung cửa và bắt lấy ông Crabtree đang tiến thẳng lên cầu thang.

“Ông đã nghe hả?” Ông ta tức giận hỏi.

“Không, không!” Ông Crabtree trả lời. “Tôi... Tôi đang đi xuống thôi.”

Strickland thẩm vấn giáo sư Lalla-Poor đầu tiên, người cho biết đã đi xem phim tối hôm qua và không nhận thấy mình bị theo dõi.

Sau đó, ông gọi ông Crabtree và kinh ngạc khi thấy ông ta bước vào một mình.

“Vợ tôi đi thăm bệnh.” Ông Crabtree giải thích. “Tôi đã tận dụng cơ hội để gặp bạn bè của tôi hôm qua.”

“Ông hẹn bạn ở đâu?”

“Ở một nhà trọ chỗ công viên Finsbury Circus.”

“Lúc mấy giờ?”

“Chín giờ.”

“Kỳ quái! Khi đó, ông đang lang thang ở Haymarket, bị một trong những người của tôi theo dõi!”

Ông Crabtree khẽ rên: “Đừng tiết lộ bí mật của tôi! Tôi... vợ tôi tin rằng tôi thường xuyên gặp gỡ những người bạn cũ. Nhưng thành thật mà nói, tôi thích dành những giờ tự do hiếm có của mình, có khi ở rạp hát, có khi ở rạp chiếu phim. Đôi khi tôi cũng dạo chơi mà không có đích đến cụ thể, đi lang thang mạo hiểm, nếu tôi dám nói thế...”

Người đàn ông thấp bé có vẻ thành thật. Tuy nhiên, khi Strickland định thảo luận tiếp với ông ta thì Storey vào và mang theo một bức thư không dán tem đề tên ông ta in hoa.

“Tôi vừa tìm thấy nó gài ở gương treo áo... Năm phút trước, nó còn chưa có ở đấy.”

Strickland mở bức thư và lấy ra một tờ giấy giản dị, với các con chữ được cắt từ nhiều tờ báo khác nhau ghép lại thành dòng chữ dưới đây:

Nếu Collins cà lăm (bégaye) và Hyde cà nhắc (boite), Andreyeu thêu thùa (brode). Hãy xem kĩ áo khoác của ông ta và hỏi ông ta làm gì vào chiều hôm qua, ở quán rượu Savoy, cùng với ông Lauson.

“Cái thằng Silver chẳng bảo gì với mình cả!” Strickland thầm nghĩ. “Thằng ngu này!”

Ông quay mặt về phía Storey và đưa bức thư cho anh ta: “Chúng ta có một đồng minh tự nguyện! Đi tới quầy bar Savoy. Hỏi ông chủ và nhân viên ở đấy. Nếu cần, tìm kiếm những khách hàng có mặt ở đó chiều hôm qua. Sau khi được xác nhận, gọi cho tôi! Bảo Fuller kiểm tra kĩ tất cả những chiếc áo treo trên gương treo áo; bảo Head triệu tập Silver ngay lập tức; kêu Mordaunt đến gặp tôi... Và đưa Andreyew vào!”