- 48 & 49 -
Thứ Năm, ngày Hai mươi mốt tháng Chín.
Cô tỉnh giấc trước khi mặt trời ló rạng, nhưng ngay cả vậy, thì trang trại này cũng đã buộc cô phải thức. Cô có thể nghe được những tiếng bò kêu trong các khu chuồng vắt sữa chuyên dụng, tiếng chó sủa vang, cùng những tiếng rì rì từ động cơ máy móc. Cơ thể cô đã trở nên cứng đờ sau một đêm dài. Cô vật người nằm ngửa ra, đẩy đôi chân mình ra khỏi cái ổ hình quan tài. Cô ngóc đầu dậy và nhận ra cả kho chứa cỏ lúc này đã chẳng còn ai, ngoại trừ cô.
Cô từ từ bò xuống khỏi đống cỏ khô, toàn thân vẫn còn đau âm ỉ. Cả trang trại vẫn chìm trong bóng tối, đây đó chỉ có chút ánh sáng le lói phát ra từ ngôi nhà và khu chuồng vắt sữa.
Cơn đau đầu của cô đã đỡ hơn nhiều. Nó vẫn còn, nhưng không còn dồn dập và dữ dội như trước nữa. Cô có cảm giác rằng hôm nay mình sẽ không còn phải nghe thấy những giọng nói nữa và nó khiến cô cảm thấy ổn hơn. Ngày hôm qua, đã có những lúc cô như đồng hành cùng những linh hồn đã chết, nhưng lúc này, cô nghĩ rằng mình có thể bỏ họ lại phía sau rồi.
Cô có thể ngửi thấy mùi sữa khi lách từ bóng râm này đến chỗ bóng râm khác, cả ngày hôm qua cô chưa có gì vào bụng ngoại trừ một gói bánh bơ đậu phộng hiệu Reese và một vài món đồ ngọt mà hai người phụ nữ trong đoàn hành hương kia đã mời cô ăn. Tuy nhiên, cô biết có một ngôi làng nhỏ ở ngã rẽ ngắn của con đường mòn dẫn đến phía bắc của đảo Thánh. Trong ba lô của cô có tiền. Cô có thể mua đồ ăn. Ngày hôm nay, cô vẫn có thể sống sót lần nữa.
Ngày hôm nay, cô có thể dành cả ngày để ở bên những người cô yêu thương, bắt đầu chính thức được tưởng nhớ họ.
Ngày hôm nay sẽ mang cô về nhà.
49Đêm đến, trời thu chuyển lạnh. Gió lạnh thổi đến từ phía tây và bầu trời chuyển sang một thứ màu nhờ nhợ của giấy dán tường; những đám mây tầng trông sần sùi, trĩu nặng, như thể đang phải gồng mình vác theo một thứ gì đó vậy.
Khi ánh sáng mặt trời biến mất, cả khu vực công viên quốc gia như chẳng còn chút sắc màu nào nữa. Ở khắp mọi nơi, Ajax chỉ còn nhìn thấy một thứ màu nâu xỉn, màu của bùn đất, của một thế giới đang chết dần. Không khí ẩm ướt thấm qua bộ cảnh phục của anh, cho đến khi anh cảm thấy chúng như đang ăn mòn vào tận xương cốt của mình.
Anh đang đứng dưới gốc của một cây sồi lớn, cách nơi chiếc khinh khí cầu kia rơi khoảng chừng ba mươi mét. Vài phút trước, một sĩ quan cảnh sát đã trèo lên cây và biến mất trong những tầng lá rậm. Bên cạnh thân cây, một thành viên khác của đội đặc nhiệm chuyên phụ trách các công việc liên quan đến leo trèo khi cần thiết đã sắp xếp dây buộc an toàn cho người đồng đội của anh ta. Cách đó vài trăm mét, một đội khác mặc bộ đồ chống thấm đang tìm kiếm xung quanh khu vực đầm lầy.
“Mỗi lần có ai đó nhảy hoặc bị ngã ra ngoài, chiếc khinh khí cầu đó sẽ lại vọt lên cao.” Một sĩ quan trong đội đặc nhiệm nói. “Người đàn ông tên Richard đó đã giải thích cho tôi biết vào ngày hôm qua. Những người còn lại hẳn đã cảm thấy nó như sẽ không bao giờ dừng lại.”
Đã quá bảy giờ sáng từ rất lâu rồi nhưng mọi nỗ lực trong công việc tìm kiếm nghiệt ngã này của họ đã hoàn toàn thất bại. Lúc này đám đông đã bắt đầu vây quanh khu vực tìm kiếm. Họ chủ yếu là giới truyền thông; cũng có cả những người dân tò mò đến quan sát; lác đác vài người tới xem, những kiểu người với bản tính tò mò sẽ chạy chậm lại trên các tuyến đường cao tốc mỗi khi có tai nạn giao thông nghiêm trọng xảy ra.
Ajax biết một số người đàn ông và phụ nữ trong đám đông đó. Một nhà báo đến từ đài tin tức địa phương BBC, một phóng viên đến từ tạp chí Newcastle Times. Anh còn phát hiện ra Richard Allan của công ty khinh khí cầu, và cả một vài người đi bộ trong trang phục sặc sỡ nữa. Ngoài ra, còn có một người đàn ông với mái tóc tối màu đội một chiếc mũ phớt.
“Tôi nghĩ mình đã phát hiện ra gì đó.” Một giọng nói vang lên qua bộ đàm và Ajax bước lại gần hơn, trao đổi ánh mắt với người đàn ông đang đứng trên mặt đất.
“Đó là gì vậy, Paul?” Viên sĩ quan của đội đặc nhiệm hỏi.
“Chờ chút đã.” Câu trả lời cụt lủn chẳng mang lại cho họ chút tin tức nào.
Ajax đi vòng quanh thân cây, cố gắng tìm một vị trí để quan sát tốt hơn. “Có ai đó trên ấy sao?” Cứ ngẩng đầu lên như vậy khiến cổ của anh đã bắt đầu đau. Viên sĩ quan ở bên dưới giơ ngón tay ra hiệu cho anh im lặng.
Chiếc bộ đàm lại phát ra những tiếng lè rè. “Tôi đã phát hiện thi thể của một cô gái tuổi vị thành niên.”
“A.J.!” Một giọng nói mềm mại vang lên phía sau anh. Ajax xoa mặt. Hậu quả của một đêm dài thức trắng đã khiến cho hàm lượng adrenaline[10] tiết ra trong cơ thể anh xuống đến mức thấp đáng báo động.
“A.J.!” Mojo gọi lần nữa. “Ông bà của cô bé đó đang ở đây.”
Ajax quay đầu nhìn về phía đám đông đang chầu chực bên ngoài. Anh không thể phát hiện ra họ ngay được bởi đây là lần đầu anh gặp họ. Có một cặp vợ chồng già khoảng độ tuổi bảy mươi trông trầm lặng và khiêm tốn, nhưng chỉ trong vòng hai mươi bốn giờ qua đã mất đi gần như tất cả mọi thứ và hoàn toàn tình nguyện để bị kéo ra khỏi chiếc giường êm ái của mình vào giữa đêm mà không có lấy một lời kêu ca oán thán, sẵn sàng vượt qua một quãng đường gần sáu mươi lăm ki lô mét để đồng ý cho người ta “cắt rời” thi thể của con gái họ. Lúc này, họ lại sắp phải nghe được tin rằng “gần như tất cả mọi thứ” giờ đã chẳng còn chút hy vọng nào nữa. Có khác gì cú giáng cuối cùng xuống đầu họ.
Sau khi báo cho đội đặc nhiệm tạm thời chậm lại khoảng vài phút, để có thể chuẩn bị mọi thứ sẵn sàng, đồng thời cũng là để trì hoãn việc đưa thi thể xuống mặt đất trong chốc lát, Ajax liền tiến về phía đám đông đang đợi bên ngoài. Cặp vợ chồng già ấy đang đứng gần người đàn ông với mái tóc tối màu đội chiếc mũ phớt.
“Eileen, Tom, mời hai bác đi theo tôi.” Ajax gọi cặp vợ chồng già tách ra khỏi đám đông. “Chúng tôi sẽ tìm nơi nào đó để hai bác có thể ngồi nghỉ một chút.”
Họ sẵn lòng đi cùng anh, Eileen lảo đảo bước đi trên bãi cỏ trong đôi giày không mấy dễ chịu, nhưng bà lại chẳng có cách nào giữ được bình tĩnh nữa khi họ đã rời khỏi khu vực nghe ngóng của giới truyền thông. “Có tin tức gì không? Họ có tìm thấy Poppy không?” Ngay lập tức, những câu hỏi của bà đã thu hút hàng loạt các ánh nhìn ập đến.
“Các vị có phải là ông bà của Poppy Carlton không ạ? Hai người vẫn hy vọng rằng cô bé vẫn còn sống sót chứ?”
“Ajax, có thật là vẫn còn người sống sót phải không? Tức là anh đã cử người đi tìm kiếm con bé chứ?”
Vòng một cánh tay giữ chặt lấy vai của Eileen, Ajax quay người lại. “Các bạn, chúng tôi sẽ tổ chức một cuộc họp báo vào lúc mười giờ.”
“Là chỗ này phải không?” Tom, ông của Poppy Carlton, hỏi. “Đây có phải là nơi mà chiếc khinh khí cầu đó rơi xuống? Sao tôi chẳng nhìn thấy gì cả.”
“Nó rơi xuống ở cách đây khoảng ba mươi mét về phía đó.” Ajax chỉ. “Chiếc khinh khí cầu đã mắc lại gần những ngọn cây trông như một món đồ vừa mới giặt bị gió thổi bay. Nó đã được thu lại vào chiều tối hôm qua và mang đi cùng với giỏ hành khách để điều tra. “Chúng tôi đã tìm thấy Helen và Harry ở đó. Cả Nathan nữa.”
Stacey đã trông thấy Ajax vẫy tay gọi mình và cô nhanh chóng chạy đến.
“Bây giờ tôi sẽ nhờ cảnh sát McElvoy tạm thời chăm sóc cho hai bác.” Anh nói. “Tôi cần phải quay lại Newcastle để tham dự cuộc họp báo. Stacey sẽ đưa hai bác đến chỗ xe hơi để hai bác có thể ngồi nghỉ ngơi một chút.” Anh khẽ liếc mắt về phía đội đặc nhiệm ở chỗ cái cây đã phớt lờ lời yêu cầu của anh. Họ đang mang thêm nhiều dây thừng đến, cùng với một chiếc cáng, loại cáng chuyên dụng để mang thi thể của các nạn nhân.
Anh xoay người đứng chắn giữa cặp vợ chồng lớn tuổi và cảnh tượng đang diễn ra chỗ cái cây kia. “Chỉ đến khi chúng tôi có thêm tin tức mới.” Anh nói.