Phần II - 56 -
Hai năm tám tháng trước.
Đến gần khu vực mép nước ở cảng Tilbury, Jessica lái xe băng qua dải đất rộng của con đường rải nhựa và đỗ ngay bên cạnh chiếc xe thùng của cảnh sát. Cô ngáp dài một cái khi mở cửa xe bước ra, không khí lạnh của đêm tháng Giêng ngay lập tức ùa đến khiến cô rùng mình và tỉnh táo hẳn. Ngay cả vào giờ này, khu vực bến cảng vẫn vô cùng nhộn nhịp với đầy người và xe cộ tấp nập tới lui giữa những dãy hàng và các ngóc ngách dài vô tận. Những con tàu khổng lồ dường như đang ở gần một cách bất thường, làn nước sóng sánh ánh lên thứ màu đen bóng nhờn trong đêm tối và những con sếu vỗ cánh bay lên trời trông như những con thú săn mồi.
Cửa sau chiếc xe thùng của cảnh sát mở ra, ánh sáng đột ngột ập tới. Một vài sĩ quan cảnh sát mặc quân phục, và cả thường phục, đứng quây thành vòng tròn. Ánh đèn xanh nhấp nháy xuất hiện từ hàng loạt những chiếc ô tô đang vây xung quanh. Jessica giơ thẻ cảnh sát của mình ra trước mặt viên hạ sĩ quan đang làm nhiệm vụ.
Có mười bốn người ở trong thùng xe, một số người nhìn chằm chằm vào cô, một số khác thì cúi gằm xuống đất. Không rõ gốc gác của họ ở đâu. Không ai trong số họ, cho đến thời điểm này, có chút dấu hiệu nào cho thấy họ có thể hiểu được tiếng Anh. Họ bị phát hiện khoảng một giờ đồng hồ trước trong một tàu chở hàng. Hiện chủ tàu vẫn tuyên bố rằng mình không hề biết gì về sự xuất hiện của họ trên con tàu đó.
“Braucht jemand ärztliche Hilfe? Có ai cần chăm sóc y tế không?” Cô nhìn từ người này sang người khác. Họ là những người dân đen nghèo khổ, nhìn như thể đã bị bỏ đói từ lâu lắm rồi. Không có trẻ con ở đây, ơn Chúa.
“Es besteht keine Notwendigkeit, Angst zu haben. Wir können helfen.[13] Không cần phải sợ. Chúng tôi có thể giúp đỡ.”
Lại một lần nữa, không có ai trả lời.
Cô bèn đổi sang ngôn ngữ khác. “Skond wy pochodzicie? Czy ktos potrzebuje lekarza?[14]”
Vẫn không có phản hồi.
“Chà, xem ra tôi xong việc rồi.” Cô lẩm bẩm và chuẩn bị nhảy xuống khỏi thùng xe. “Tôi đã thử nói tiếng Đức và tiếng Ba Lan với họ.” Cô nói với viên hạ sĩ quan. “Tôi đã hỏi xem họ từ đâu đến, có ai trong số họ cần sự giúp đỡ của bác sĩ không. Tôi cũng nói họ không cần phải sợ hãi.”
Khi anh ta đưa tay ra chuẩn bị đỡ cô xuống, cô nghe thấy một tiếng rên nhẹ ở phía sau. Cô quay lại, và bắt được ánh mắt của một trong số những người trẻ nhất. Là một cậu con trai. Không hẳn là trẻ con nhưng cũng chưa phải là người lớn. Có thể chỉ khoảng mười lăm tuổi? Trông cậu ta có vẻ nhợt nhạt hơn những người khác, trên gương mặt lúc này đã lấm tấm mồ hôi.
Jessica bước lùi trở lại vào trong thùng xe tải và tiến về phía cậu bé. Cô giơ một bàn tay lên, khi thấy cậu ta không phản đối, cô áp mu bàn tay của mình lên trán cậu.
“Hạ sĩ, người này trông rất ốm yếu.” Cô quay lại nhìn viên sĩ quan cảnh sát. “Cậu ta đang sốt rất cao.” Cô bỏ tay mình xuống, vẫy tay ra hiệu cho cậu bé tiến lên phía trước. Cậu ta còn chưa thể di chuyển được nhiều về phía cô thì ngay lập tức, người phụ nữ bên phía tay phải của cậu ta đã kéo cậu ta lại.
“Bà có phải là mẹ cậu ấy không?” Jessica hỏi. “Sind Sie seine Mutter? Nếu bà là mẹ của cậu ấy, bà có thể đi cùng cậu ta, nhưng chúng tôi cần phải đưa cậu ta đến bệnh viện.”
“Ja.[15]” Người đàn bà trả lời. “Ich bin seine Mutter.[16]”
Jessica và mẹ của cậu bé kia ngồi cạnh nhau ở khu vực tiếp đón trong khoa cấp cứu và tai nạn của bệnh viện Basildon. Trong vòng bốn mươi phút kể từ khi lên xe cứu thương và cậu bé bị ốm được đưa vào bệnh viện, cô đã tìm cách thu thập thêm một số tin tức về nhóm người nhập cư này.
Cô bắt đầu bằng việc hỏi tên cậu bé và đã có câu trả lời, bởi vì các bà mẹ luôn có phản xạ ngay mỗi khi trả lời tên con cái của mình. Tên của cậu trai này, Muhamed, đã gợi ý cho cô một giả thuyết: Những người nhập cư này có thể là người Hồi giáo.
Cô nhớ lại những người mình nhìn thấy trên chiếc xe tải đó, họ mang đặc điểm ngoại hình của người Trung Đông với làn da, mái tóc và đôi mắt đều mang màu đen. Nhưng có rất ít người đến từ vùng Trung Đông hoặc Ả Rập nói tiếng Đức, vì vậy cô đoán rằng họ đến từ vùng Bosnia và nhận ra người mẹ hơi giật mình khi nghe giả thiết ấy, rồi sau đó thì bà ta gật đầu thừa nhận.
“Muhamed đã bị bệnh bao lâu rồi?” Cô hỏi.
Người mẹ giơ mười ngón tay ra. “Mười ngày rồi.”
Có tiếng bước chân tiến về phía họ. Jessica ngước nhìn lên thì thấy một người đàn ông trong bộ áo phẫu thuật màu xanh lá đang đến gần.
“Cảnh sát điều tra Lane?”
“Tôi đây.” Jessica đứng dậy. “Đây là Dula, mẹ của Muhamed.”
“Mời đi lối này.”
Họ đi theo anh ta dọc hành lang và tiến vào một phòng điều trị nhỏ. Muhamed đang nằm nghiêng một bên trên chiếc giường kim loại hẹp, đôi mắt nhắm nghiền.
“Cô có thể nói với bà ấy rằng con trai bà ấy đã ổn và chúng tôi đang chờ khi nào có thêm một chiếc giường trống. Bà ấy có thể ở lại đây với cậu bé đêm nay nếu bà ấy muốn.”
Jessica chỉ dịch lại câu đầu. Cô không dám. chắc Dula có được phép ở lại bệnh viện hay không. Những người nhập cư khác đã được đưa đến đồn cảnh sát Basildon, và từ đó, có thể họ sẽ bị đưa đến trung tâm quản chế ở Middlesex.
“Cậu ta bị làm sao vậy?” Jessica hỏi bác sĩ. “Hình như cậu ta bị sốt cao.”
“Nhiễm trùng nặng.” Khuôn mặt vị bác sĩ trở nên nghiêm túc. “Chúng tôi đã cho cậu bé dùng thuốc kháng sinh, hy vọng là chúng ta có thể ngăn chặn kịp thời. Cậu bé cũng sẽ phải dùng rất nhiều thuốc giảm đau cho nên trong vài giờ tới, cậu ấy sẽ mê man. Chúng tôi có thể lau người cho cậu ấy khi chuyển cậu ấy lên khu điều trị riêng.”
“Nhưng cậu bé sẽ ổn chứ?” Jessica đã nhận ra Dula đang nhìn mình chằm chằm.
Để trả lời câu hỏi của cô, vị bác sĩ bước tới bên chiếc giường và nhẹ nhàng vén tấm chăn đắp trên người Muhamed lên. Tại một vùng nhỏ trên lưng của cậu, phía bên phải xương sống là một vết thương do phẫu thuật còn mới. Vùng da xung quanh còn ửng đỏ và có dấu hiệu bị sưng viêm.
“Chuyện gì đã xảy ra với cậu bé vậy?” Jessica hỏi.
“Chúng tôi chưa có cơ hội để chụp X quang cũng như kiểm tra cụ thể, nhưng tôi dám cá là gần đây cậu ấy đã phẫu thuật lấy thận.”
Dula vẫn nắm chặt bàn tay con trai mình. Đầu bà ta gục về phía trước.
“Dula?” Jessica hỏi.
Đáp lại, bà mẹ bèn đứng dậy. Trước tiên, bà ta trút bỏ chiếc áo khoác đang mặc bên ngoài, rồi đến chiếc áo len rộng thùng thình mà bà ta đang mặc trên người. Bà ta vén chiếc áo mỏng mặc bên trong lên, để lộ ra vết băng phẫu thuật vẫn dính dớp trên vùng lưng của mình.
“Những người này đã bán thận.” Vị bác sĩ nói. “Cô có thể tìm được những vết thương tương tự trên người của tất cả những ai đã bán thận của họ.”
Cuối buổi chiều đông, những cây nguyệt quế phủ một lớp sương bạc lấp lánh và những chiếc lá khô chưa được quét dọn trải dài trông như một tấm thảm dọc lối đi. Ánh sáng mặt trời đã ngả sang màu vàng xĩn. Những cái cây mọc quanh bức tường trong khuôn viên tu viện Wynding in bóng giữa nền trời xám xịt và tạo thành những cái bóng đen xơ xác tại những nơi mà ánh sáng mặt trời không thể chiếu tới. Hai chị em gái đi qua cánh cổng bằng sắt đã bong tróc sơn không ngừng phát ra những tiếng kêu cọt kẹt, để rời khỏi khuôn viên của tu viện.
“Họ đã bán thận của mình để lấy tiền đến Vương quốc Anh ư?” Mỗi khi quá sốc vì một chuyện gì đó, gương mặt của Isabel sẽ trở nên trắng bệch như vậy.
“Thật sự không thể chịu đựng nổi khi nghĩ về chuyện đó.” Jessica đồng tình. “Cậu bé ấy mới chỉ mười bốn tuổi thôi.”
Dù bây giờ mới vào đầu tháng Hai, nhưng tiếng gió xung quanh họ đang không ngừng rít gào, hất tung những con mòng biển lên trời cao và quăng cát thẳng vào mặt chúng. Khi hai chị em họ rời khỏi bức tường đang chắn gió, chiếc áo choàng của Isabel bắt đầu bị gió thổi tung, bay phần phật quanh người cô. Cô cố gắng giữ chặt các mép của chiếc áo choàng, kéo nó sát vào cơ thể mình.
Họ đi đến chỗ những cồn cát và bắt đầu trèo lên, cứ mỗi bước đi, bàn chân họ lại lún sâu vào cát. Họ không thể nào bước nhanh hơn được và khi gần lên đến đỉnh, cả hai người phụ nữ đều đã phải thở dốc. Gió quật vào họ thậm chí còn mạnh hơn ban nãy.
“Cậu ta ổn chứ?” Isabel hỏi.
“Cậu ta vẫn ổn. Cả cha mẹ và hai người anh trai của cậu ta đều ổn cả. Mặc dù mỗi người họ chỉ còn có một quả thận, nhưng tin tốt là họ đã được phép ở lại đây.”
“Để có được đặc quyền này, họ đã phải trả một cái giá quá đắt.”
Trước mắt họ, những đám mây càng lúc càng xuống thấp dần và trông đầy nguy hiểm, những con sóng biển tạo thành các khối nước khổng lồ màu xám trắng. Thật sự rất khó để có thể xác định được một cách chính xác, đâu là nơi biển trời giao thoa. Ngay cả hòn đảo Thánh này, nơi phía xa kia, cả tòa lâu đài nằm trên đỉnh núi cũng trở nên mờ ảo, lúc ẩn lúc hiện. Bình thường, khi hai chị em đi dạo dọc theo bãi biển, họ có thể nhìn thấy những chiếc du thuyền, những chiếc thuyền câu, hoặc cả những chiếc phà chở khách. Thế nhưng hôm nay, chỉ có duy nhất một con tàu chở hàng màu xám đang di chuyển trên mặt nước mà thôi.
Isabel bắt đầu bước xuống, cố gắng giẫm vào chỗ những búi cỏ dày để bước chân không bị trượt đi. Cô phải quay đầu lại, hét lên thật lớn để Jessica đang đi phía sau có thể nghe được lời cô nói. “Vậy em có thể làm được gì không?”
“Rất ít.” Jessica cũng hét lên đáp lại. “Bọn em có thể tuần tra các bến tàu, nhưng khi là cả một đất nước chứ không chỉ một hòn đảo thì nơi đó lại có quá nhiều các bến cảng nhỏ phải để mắt tới. Bọn em có thể cố gắng tìm ra băng đảng này là những kẻ nào, bọn chúng đã liên hệ với ai trong đất nước này, nhưng những người mà bọn em giải cứu, những tên buôn lậu mà bọn em tóm được thì lại thường biết rất ít về những kẻ cầm đầu. Ví dụ như với nhóm người này chẳng hạn. Những kẻ làm nhiệm vụ đưa đón họ đã thay đổi vài lần trong suốt lộ trình. Những kẻ đón họ ban đầu là người Bosnia, chỗ họ qua Croatia, nhưng sau đó, kẻ đưa họ đi qua nước Ý lại nói tiếng Pháp pha chút âm giọng Bắc Phi. Sau đó, lại có những kẻ khác đưa họ qua Tây Ban Nha, và một nhóm người Tây Ban Nha lại đưa họ đến Tilbury.”
Isabel dừng lại giữa chừng để lắc thứ gì đó ra khỏi đôi giày của cô. “Nghe có vẻ là một chuỗi những mắt xích dài và chẳng mấy tốt đẹp nhỉ.”
“Đương nhiên rồi. Bọn em đã bắt được thủy thủ đoàn của con tàu kia và sẽ thông báo cho Interpol[17] những gì mà họ đã khai với bọn em, nhưng đây thực sự là một vấn đề rất lớn. Trên thế giới có quá nhiều người tuyệt vọng muốn tìm đến những quốc gia giàu có, và họ sẽ làm tất cả những gì có thể để đến được đây. Đồng thời, cũng có rất nhiều những kẻ vô lương tâm, sẵn sàng lấy đi bất cứ thứ gì mà những người đó trao cho chúng.”
Khi đã đến bãi biển, hai người phụ nữ băng qua bãi cát mềm để đến một dải cỏ dày và ẩm ướt. Khi họ xoay sang đi dọc theo mép sóng, Isabel đã phải giữ cho chiếc mạng che mặt của mình không dính sát vào mặt.
“Và người ta có thể sống được chỉ với một quả thận sao?” Cô hỏi.
“Vâng. Việc hiến tạng giữa các thành viên trong cùng một gia đình cũng không phổ biến lắm, ngay cả ở đây. Nếu như chị bị bệnh, em chắc sẽ phải tìm một ai đó sẵn sàng hiến tạng.”
Gương mặt Isabel căng ra. “Em có ý tốt, nhưng chị vẫn không thể ngừng suy nghĩ rằng các cơ quan nội tạng sẽ hơi lãng phí nếu thay cho chị.”
Jessica dừng bước. “Chị nói thế là có ý gì?”
“Không có gì.” Isabel nói. “Chị nói vu vơ thôi. Thôi nào, chúng ta đi tiếp.”
Khoảng một phút sau đó họ bước đi trong yên lặng.
“Em không hiểu tại sao chị lại thích đi bơi ở đây.” Jessica nói. “Ý em là, vào mùa hè. Chứ không phải bây giờ.”
“Có một vài điều ở tu viện Wynding hấp dẫn chị.” Isabel nói. “Chị hiếm khi phản đối những ai muốn thể hiện cá tính riêng của mình.”
Jessica nhìn chị gái mình, khuôn mặt luôn bình thản và rất xinh đẹp của chị đang được bao quanh bởi một tấm mạng che mặt màu trắng. Sau đó, cô quay đi, hướng về phía đại dương đang gợn sóng ngoài kia. “Thật thế sao?” Cô hỏi.
“Mặt biển có thể trông sẽ rất hấp dẫn vào những đêm trăng sáng.” Isabel nói. “Và bọn chị chỉ được phép đi tắm biển mỗi tuần một lần thôi. Á!”
Một cơn gió bất chợt thổi mạnh vào hai người phụ nữ, cuốn bay chiếc khăn trùm trên đầu Isabel, thổi bay cả chiếc mũ mà cô đội ở bên dưới. Đã nhiều năm rồi Jessica không được ngắm nhìn mái tóc của chị gái mình. Mái tóc điểm những sợi tóc màu xám, nhưng nó không còn ngắn như trong trí nhớ của cô. Những lọn tóc vẫn xoăn như cũ. Trong làn gió, chúng như đang nhảy múa xung quanh đầu chị ấy, cứ thế lọt vào tầm mắt của cô.
Jessica định đuổi theo chộp lấy tấm khăn trùm, nhưng Isabel đã nhanh hơn. Cô vượt qua em gái mình, mặc cho chiếc áo choàng bên ngoài và chiếc váy xòe bó ống bên trong đang níu lấy bước chân, cô vẫn nhanh nhẹn chạy lên trước. Chiếc khăn trùm rơi xuống một bãi cát ẩm ướt, gần nơi những con sóng vỗ vào bờ. Isabel nhặt lấy nó và nhanh chóng chạy lại bãi biển.
“Thành Vatican có tham gia vào thế vận hội Olympic không?” Jessica hỏi.
Isabel hiếm khi phải thở dốc như vậy. Cô nhét tấm mạng che vào trong ống tay áo của mình. “Chị lúc nào cũng có thể thắng được em trong một lần thi chạy nước rút.” Cô nói. “Vậy thì việc này đã vượt ra khỏi tầm kiểm soát của em rồi à? Em có thể quay lại truy tìm những chiếc xe bị đánh cắp chứ?”
“Vâng. Họ đã tìm được một người khác, một phiên dịch viên giỏi hơn. Họ chẳng cần đến em nữa. Tuy nhiên, có một chuyện khiến em cảm thấy khá khó hiểu. Có liên quan đến một vài chuyện Dula nói với em khi em trở lại trung tâm quản chế để thăm họ khoảng một tuần sau đó.”
“Là gì vậy?”
“Bà ấy nói rằng chẳng có ai muốn đến khu vực cảng phía bắc đâu.”
“Không ai muốn đến khu vực cảng phía bắc ư?” Khuôn mặt của Isabel khẽ nhăn lại, một phần là do gió, phần khác có thể là do chính những gì mà cô vừa nghe được.
“Họ đã bị giam giữ ở một nơi tại khu vực phía bắc Tây Ban Nha trong khoảng vài ngày.” Jessica nói. “Ở đó còn có rất nhiều người khác đang đợi sẵn, rõ ràng là có rất nhiều những tuyến đường khác nhau có thể dẫn tới Vương quốc Anh. Nó là một dạng… Chị hiểu ý em nói chứ?”
“Chị là một nữ tu, chứ không phải kẻ ngốc.”
“Ồ, em xin lỗi. Trong khi chờ đợi để được lên đường, họ đã trò chuyện với những người khác. Một trong những người phụ nữ theo đạo Hồi rất xinh đẹp. Em cảm thấy sợ khi nghĩ đến những gì cô ấy phải trả cho những kẻ đó để được lên đường, nhưng dù vậy thì một trong những tên buôn lậu đã bảo với cô ấy rằng dù có xảy ra bất cứ chuyện gì, cô ấy cũng đừng bao giờ đến khu vực cảng phía bắc. Có thể đến London, Kent, Essex, thậm chí là cả East Anglia, nhưng đừng bao giờ đi lên phía bắc. Phía bắc là một nơi rất đáng sợ.”
“Điều đó có nghĩa gì?” Isabel hỏi.
“Bọn em không biết. Họ cũng không biết. Chỉ là chẳng có ai muốn đến phía bắc của nước Anh cả.”
“Chúng ta nên về thôi.” Isabel nói. “Mẹ Hildegard không có nhiều sự kiên nhẫn lắm đâu, kể cả là với em đấy, nếu như em dám để những người khác phải đợi giờ trà.”
Hai người phụ nữ bắt đầu quay lại dọc theo bờ biển.
“Em cùng chị tham gia buổi lễ cuối ngày nhé.” Jessica nói. “Có được không?”
“Đương nhiên rồi, nhưng sau đó thì chị không thể chào tạm biệt em được đâu.”
“Em biết.”
Sau những hoạt động cuối cùng của một ngày, các nữ tu sẽ nghỉ ngơi khi đêm xuống, trở về phòng riêng của họ, giữ im lặng cho đến khi bắt đầu các hoạt động của ngày hôm sau.
Bên dưới những đụn cát là một con đường cát trải dài dẫn thẳng đến cổng của tu viện.
“Chờ một chút.” Bàn tay Jessica dừng lại trên cánh cửa có khung bằng sắt nặng nề. “Cánh cổng này sẽ bị đóng chặt vào lúc hoàng hôn. Sao chị vẫn có thể ra ngoài tắm tiên dưới trăng được?”
Isabel đi vào trong và cẩn thận đóng cổng lại. “Chị không hề nói gì liên quan đến việc tắm tiên, hay tắm táp gì ở đây cả. Em lại lần nữa thả cho trí tưởng tượng của mình bay quá xa rồi đấy.” Cô dừng lại, xoay mặt vào tường. “Nhưng nhìn chung, nếu có ai đó cần phải rời khỏi tu viện vào ban đêm, thì vữa trát những bức tường ở nơi này cũng đã khá đổ nát rồi. Và có một số chỗ, thấy chỗ đó không, và đó nữa, thì một cú đẩy chân nhẹ cũng tạo ra được một lỗ hổng rồi.”
Jessica quan sát bức tường được xây dựng từ những khối đá lớn. Có lẽ nó cũng đã lâu đời y như cái tu viện này rồi. Nơi này chẳng còn kinh phí để có thể tu tạo lại nó trở về cái dáng vẻ hoàn hảo ban đầu. Trong đầu cô lúc này đột nhiên lại hiện ra hình ảnh của hai người họ khi còn bé, đang trèo lên trên bức tường để sang vườn nhà hàng xóm. Isabel luôn là người đi trước, di chuyển với tốc độ và sức mạnh mà Jessica, nhỏ hơn, không bao giờ dám mơ tới được. Và khi đã lên đến đỉnh bức tường, lúc nào cô cũng nhìn thấy chị gái của mình đã ở phía bên kia bức tường rồi, hai tay chị ấy đang dang rộng, sẵn sàng đón lấy cô.
“Vậy chị làm thế nào để có thể ra khỏi khu nhà đó được? Em không tin là nó không bị khóa đâu.”
Tiếng bước chân của Isabel vang lên lạo xạo trên con đường dẫn đến tòa nhà tu viện. “Nhìn thẳng về phía trước đi. Có thấy cái mái bằng nằm sau khu bếp không? Nơi đó bọn chị gọi là trần ngoài thấp.”
Jessica nhìn theo hướng chị gái chỉ. “Ừm.”
“Giờ thì em có nhìn thấy gờ tường hẹp bao quanh khu vực tầng một của tòa nhà không? Ừ thì nhìn từ đây nó hẹp thế thôi chứ thực tế cũng rộng hơn đấy. Chỗ đó khá chắc chắn. Nó dẫn đến cánh cửa sổ của một phòng tắm có cái ổ khóa rất dễ động chạm. Tất cả những gì chị vừa nói cũng vẫn là giả thuyết thôi đấy, em hiểu chứ.”
Jessica bước lên phía trước, quay người lại và chặn ngang lối đi của chị mình. “Bella, tại sao chị không rời khỏi đây chứ? Nơi này hoàn thành được mục đích của nó từ nhiều năm trước rồi. Bây giờ chị hãy đi cùng em đi.”
Đôi mắt màu nâu của Bella cứ thế nhìn thẳng vào cô, như thể chị ấy chẳng thể nào hiểu được em gái mình đang nói gì vậy.
“Chị có thể sống cùng em mà. Em có thể giúp chị ổn định cuộc sống. Không có gì là quá muộn cả. Sẽ không bao giờ là quá muộn.”
Isabel hơi cụp mắt xuống khi cô trả lời em gái mình, giọng nói rắn như băng. “Đừng ngốc thế. Ở đây chị cảm thấy rất hạnh phúc.”
“Cuộc sống của chị không có mục tiêu gì cả.”
Isabel ngước nhìn lên, ánh mắt mang vẻ lên án. “Là em, trong tất cả mọi người, mới cần phải nói như vậy. Em lúc nào cũng đầy đức tin cả.”
Jessica biết rõ cô sẽ không thể nào thuyết phục được chị gái mình. Không phải bây giờ.
Và có thể là không bao giờ.
Cô bước sang bên, tránh đường cho chị gái, và hai người phụ nữ lại tiến về phía cái bóng đổ dài của tu viện. Theo mỗi bước đi, Jessica cảm nhận rất rõ sự trầm lặng đã len lỏi và bao phủ lên chị gái mình một lần nữa. Nếu như có thể, cô sẽ phá vỡ nó mọi lúc. “Lần tới đến đây, chị có muốn em mang cho chị thứ gì không?”
Isabel nở nụ cười khoan khoái. “Đôi giày thể thao của chị đi cũng đã có chút khó chịu rồi, nhưng cứ để dành đến lúc sinh nhật cũng được.”
“Sinh nhật chị là tận sáu tháng nữa.”
“Mẹ Hildegard không cho nhận những món quà tặng đâu. Mỗi năm em chỉ có thể làm việc đó một lần thôi.”
Họ bước về phía cửa sau của tu viện.
“Em định làm gì?”
Isabel không nói về những món quà sinh nhật. “Không gì cả.” Jessica nói. “Em đang đóng chốt tại London. Khi bọn em bắt được nhiều người nhập cư bất hợp pháp hơn, bọn em có thể điều tra họ về vấn đề đã khiến cho khu vực phía bắc trở thành một nơi đáng sợ như vậy. Em đã gửi công văn cho các đơn vị cảnh sát phối hợp ở khu vực phía bắc. Nhưng chị biết đấy, khu vực phía bắc có thể là bất cứ nơi nào từ Whitby cho đến Aberdeen, vậy nên, trừ khi có xuất hiện điều gì đó khác thường, bằng không bọn em thực sự chẳng thể làm được gì cả.”
Tiếng chuông trong nhà nguyện đã bắt đầu rung lên. Thời gian nghỉ ngơi đã kết thúc. Isabel đội lại chiếc mũ trùm, ghém gọn những lọn tóc quăn của cô vào bên trong. Khi họ bước đến gần nhà nguyện hơn, cô cúi đầu xuống, đôi bàn tay rụt vào trong ống tay áo rộng thùng thình. Khi đã ra khỏi tầm ảnh hưởng của gió, chiếc áo choàng của cô tự động rủ xuống quanh người. Bước chân cô chậm lại và cảm giác mất mát quen thuộc lại ùa về trong Jessica. Lúc này, chị gái của cô đã trở lại thành một nữ tu.