- 67 -
Hai năm, ba tháng trước.
“Jess, em có điên không vậy? Em lại dám đi đến nơi đó một mình sao? Em có thể đã bị giết rồi đó.”
Isabel đang đứng cách vài bước trong khu vực chuồng chim công, còn Jessica thì đang đứng đợi ở lối vào. Trong suốt gần hai mươi năm thường xuyên ghé thăm nơi này, cô vẫn chẳng thể nào quen được với việc gần gũi những con chim khổng lồ, phải công nhận là xinh đẹp nhưng đôi khi cũng rất hung hăng này. Mà giờ chúng còn đang vây quanh Isabel, cả đám chim con đều đang kêu om sòm đòi ăn.
“Em có thể đưa ai đi cùng được khi mà chính em còn không được phép đi? Với lại chuyến đi cũng không tệ lắm đâu. Đương nhiên, ở đó có những tên tội phạm, cả những hành động bất lương nữa. Nhưng giết một phụ nữ người Anh sẽ chẳng đem lại lợi ích gì cho chúng và chúng biết rõ điều đó. Và chị còn có thể nói được nữa cơ à. Chị sắp bị cắn kìa.”
Isabel nhìn xuống. Một trong những con công cái chỉ cách bàn tay phải của cô có vài xen ti mét. Cô ném một ít thức ăn ra xa và đám chim chạy đi. “Lý do của họ là để đến được nước Anh sao?” Vừa nói cô vừa ném thêm thức ăn ra ngoài.
“Chính xác. Em đã dùng chính quốc tịch của mình để giúp công việc được thuận lợi. Tất cả bọn họ đều muốn có một người bạn người Anh.”
“Người Anh? Cô là người Anh ư?”
Bọn trẻ tiếp cận cô trước, đúng như cô mong đợi. Cô đã chuẩn bị sẵn những bịch kẹo ngọt và những hộp bút chì màu sặc sỡ để dễ dàng mua chuộc được chúng. Đám người lớn thì quan sát từ phía sau những tấm vải lều của họ hoặc từ sau những cánh cửa nhà với dáng vẻ tò mò, đầy nghi ngờ, trong tư thế sẵn sàng hành động nếu như cô có bất cứ hành động nào có thể đe dọa đến họ, hoặc nếu cô thể hiện ra bất cứ nhược điểm nào.
Khi cô xem những bộ phim tài liệu về Trại tị nạn Calais trên ti vi, những người sống ở nơi đó trông như thể họ đã bơi qua bùn đen. Và bây giờ thì cô đã hiểu tại sao họ lại ra nông nỗi ấy, khi đôi chân cô bị mắc lại và cô gần như đã đánh mất đôi giày của mình lần nữa.
Nơi này có một con đường chính, một trảng đất với những chiếc lều, lán và những ngôi nhà tạm bợ, dọc theo đó là những chiếc xe đạp mất cắp và cả những chiếc xe dẫn động bốn bánh. Từ đường chính rẽ vào những con đường nhỏ hẹp hơn, trông giống hệt những nhánh của một cái cây bị bệnh. Hai bên đường hẹp lại mọc lên những ngôi nhà. Ở phía xa, cô có thể nhìn thấy cây thánh giá đơn giản cắm cao trên nóc của một nhà thờ. Ở đây cũng có một nhà thờ Hồi giáo, những cửa hàng và cả một ngôi trường vẫn đang trong quá trình xây dựng. Nơi đây, tại cái nơi đáng sợ này, đã hình thành một dạng cơ sở hạ tầng rồi.
“Cô muốn nói chuyện với mẹ các cháu.” Cô nói, quan sát gương mặt từng đứa trẻ. “Mẹ các cháu có biết nói tiếng Anh không? Hoặc tiếng Đức cũng được. Sprechen sie Deutsch?[19] Polska?[20] Cô muốn hỏi mẹ các cháu vài thứ thôi.”
Một trong những đứa trẻ lớn hơn chọc chọc vào ba lô của cô, như đang cố gắng tìm hiểu xem bên trong đó chứa gì. Cô quay lại, đối mặt với cậu bé, lắc đầu.
“Cháu có thể nói tiếng Anh rất giỏi. Cô sống ở vùng nào của nước Anh?” Cậu bé chỉ mới khoảng mười sáu tuổi, đôi mắt đỏ hoe, một con mắt có vẻ hơi sưng, ánh nhìn giận dữ.
“Cô sống tại thành phố York, ở phía bắc.” Cô chờ xem cậu bé sẽ có phản ứng thế nào. Nhưng không có gì cả. “Cũng sống ở London nữa.”
“London, London.” Lúc này, London đã trở thành một dạng điệp khúc đang không ngừng vang lên xung quanh họ. “Chúng cháu muốn đến London.” Thêm người vây lại xung quanh họ, chủ yếu là những cô bé cậu bé đang độ tuổi thanh thiếu niên, thêm một vài chàng trai trẻ tuổi nữa. Jessica thò tay vào túi áo khoác của mình và lôi ra một vài tấm ảnh được bọc trong túi bóng. Cô xoay những tấm ảnh đó lại để cho người bạn mới này của mình có thể nhìn thấy bức ảnh trên cùng. Cậu ta bèn nheo mắt và lùi về sau một bước.
“Các cháu có biết ai làm việc này không?” Cô quan sát từ cặp mắt nâu này sang cặp mắt nâu khác, cho họ xem những tấm ảnh chụp vết sẹo xấu xí và lồi lõm của Muhamed. “Cháu thì sao?” Cô trực tiếp hỏi cậu bé vừa mới bước lùi lại. “Cháu có từng làm việc này không?”
“Cô muốn mua thận ư?” Lúc này, một giọng nói khác vang lên. Là giọng của một chàng trai trẻ tuổi.
“Không.” Cô nghĩ ngợi trong giây lát, cảm thấy việc này rất đáng để mạo hiểm, cô bèn rút thẻ cảnh sát của mình ra. “Tôi là sĩ quan cảnh sát Anh.” Cô chờ xem cảnh tượng đám đông sẽ nháo nhào bỏ chạy, như những gì mọi người vẫn từng làm mỗi khi đối diện với cảnh sát, thế nhưng chẳng có ai trong số họ nhúc nhích cả. Cô sẽ không làm gì tổn hại đến họ. Họ có thể sợ cảnh sát Pháp, nhưng cô là một công dân Anh, một người đang nắm giữ chìa khóa giúp họ có thể đến được miền đất hứa. “Có ai đó đang cố tình làm hại những người giống như các bạn. Có ai đó đang cố tình lừa gạt các bạn. Tôi muốn tìm ra đó là ai.”
Chàng trai đó vẫy tay gọi cô. Cậu ta muốn cô đi theo mình.
Họ rời khỏi con đường, đi vòng vèo qua những chiếc lều, chui bên dưới những dây phơi quần áo bẩn thỉu, bước qua đống rác, cảm nhận những ánh mắt cảnh giác dõi theo họ ở mỗi ngã rẽ. Cô đi qua những chiếc lều tối tăm đang bùng nổ những bản nhạc rock Ả Rập và cả những vũng nước bẩn thỉu đến mức khiến cho cô cũng phải cảm thấy nôn nao.
Khi nhìn lại phía sau, cô gần như không thấy được con đường chính ở đâu nữa, chỉ còn lại một dãy những chiếc lều tạm bợ, lụp xụp án ngữ cùng đám người càng lúc càng đông đang dõi mắt theo cô. Lần đầu tiên, những người để ý đến cô lúc này đã không còn chủ yếu là trẻ con nữa.
Anh chàng đang dẫn đường cho cô đột ngột dừng lại bên cạnh một ngôi nhà tạm bợ dựng bằng những tấm gỗ, phủ mái bằng những tấm bạt chống thấm và những tấm nhựa trong suốt rất lớn. Cậu ta gọi cửa bằng thứ ngôn ngữ mà cô không nhận ra là thuộc vùng nào.
Có tiếng lầm bầm gì đó phát ra từ bên trong, tiếp theo là tiếng sột soạt. Một khuôn mặt xuất hiện. Đó là một người đàn ông da đen, những lọn tóc xoăn đen được tết chặt của ông ta còn đan xen cả những sợi màu xám. Những nếp nhăn sâu hằn lên trên trán và cả hai bên thái dương của ông ta. Ông ta rất gầy, cách ăn mặc như thể lúc này đang là mùa đông chứ không phải là một ngày mưa tháng Sáu.
Hai người đó tiếp tục trò chuyện. Một người đàn ông đang chỉ vào cơ thể của người còn lại, sau đó lại chỉ chỉ vào chính mình, gần như vào vị trí có thể xuất hiện một vết sẹo do đã từng mổ lấy thận.
Jessica giơ bức ảnh mình có lên cho họ xem, cô quan sát thấy người đàn ông lớn tuổi kia khẽ nheo mắt lại.
“Cho ông ấy nữa.” Anh chàng kia nói. “Ông ấy không biết tiếng Anh. Tôi sẽ dịch giúp.”
Jessica bỏ ba lô xuống. Cô tìm được hai gói paracetamol[21] và đưa cả cho họ. Cô đã mang theo kẹo cho đám trẻ và những vật dụng y tế cần thiết thông thường cho người lớn. “Ông ấy cũng có một vết sẹo đúng không? Giống thế này?” Cô hỏi.
Người đàn ông lớn tuổi nhận hai gói paracetamol. Còn anh chàng kia thì trả lời cô. “Phải, vết sẹo giống vậy.”
“Tôi cần phải biết là ai đã làm việc đó. Ở đâu và khi nào.”
Cuộc trao đổi giữa họ diễn ra nhanh chóng chỉ trong vài phút. Sau đó, anh chàng dẫn đường kia quay lại nói với cô. “Ông ấy đến từ Eritrea. Cô biết nơi đó chứ?”
Jessica gật đầu. “Tôi biết.”
“Ông ấy đã đến đây cùng với gia đình. Vợ và ba người con. Hai anh em trai. Vợ của anh trai. Mẹ của ông ta nữa. Họ đã vượt biển sau đó di chuyển tiếp bằng đường bộ. Một chuyến đi cực kỳ tốn kém. Lên tới nhiều ngàn đô la.”
“Làm cách nào ông ta có thể chi trả cho chuyến đi đó được.”
Anh chàng kia chỉ vào bức ảnh trên tay Jessica. “Bằng cách đó.”
“Gia đình ông ta cũng vậy sao?” Cô cố gắng quan sát bên trong ngôi nhà ảm đạm của người đàn ông Eritrea. “Họ đều sống ở đây sao?”
“Không. Chỉ có mình ông ấy. Và mẹ của ông ấy nữa.”
Cậu ta chỉ vào bên trong ngôi nhà tạm bợ mà Jessica phải nheo mắt lắm mới có thể nhìn rõ được nơi tối tăm đó. Ngồi trên chiếc hộp úp ngược là một cái bóng hình người có khuôn mặt màu nâu nhăn nhúm.
“Họ đã đến Bỉ rồi. Gia đình của ông ấy đã rời đi bằng tàu thủy. Nhưng không có ông ấy. Cũng không có mẹ của ông ấy.”
“Tại sao vậy?”
“Ông ấy bị bệnh. Cuộc… cuộc…” Anh ta cố gắng tìm một từ thật đúng, rồi chỉ vào bức ảnh một lần nữa.
“Cuộc phẫu thuật?” Jessica gợi ý. “Là do cuộc phẫu thuật lấy thận của ông ấy sao?”
“Nó khiến cho ông ấy bị ốm. Sốt cao. Yếu ớt. Họ nói rằng ông ấy bệnh nặng quá rồi. Họ không thể cho ông ấy lên tàu được. Họ bỏ ông ấy lại. Và cả mẹ của ông ấy nữa. Hai người họ đã đến đây.”
Người đàn ông lớn tuổi kia ngắt lời họ bằng một tràng những từ gì đó.
“Ông ấy nói rằng tất cả những gì ông ấy muốn lúc này là đến Anh và tìm kiếm gia đình của mình.”
“Tôi sẽ tìm họ.” Jessica nói. “Nếu như ông ấy nói cho tôi biết tên của họ, nếu có thể thì cho tôi xem ảnh của họ nữa, tôi hứa sẽ tìm kiếm họ.”
“Ông ấy nói cô phải tìm ở phía bắc. Gia đình của ông ấy đã bị đưa đến phía bắc và điều này khiến ông ấy cảm thấy rất lo sợ. Bởi vì ông ấy biết rằng phía bắc là một nơi vô cùng khủng khiếp.”
“Lại là phía bắc.” Isabel nói. Lúc này cô đã bị cả bầy chim vây quanh khi đổ cả cái thùng đựng những viên thức ăn cho chim vào trong máng ăn của chúng.
“Không chỉ là phía bắc, còn là một nơi được gọi là Tòa nhà màu Vàng nữa. Người đàn ông này tin rằng gia đình của ông ấy đã bị đưa đến một nơi gọi là Tòa nhà màu Vàng ở phía bắc của nước Anh.”
“Tòa nhà màu Vàng? Đó là gì vậy?” Isabel đứng dậy, đậy cái nắp lên máng ăn.
“Em không biết. Em cho rằng nó là tên của một thị trấn hoặc một thành phố nào đó mà ông ấy đã nghe nhầm.”
“Hoặc đó cũng có thể là một ngôi nhà thực sự có màu vàng?”
Jessica xoa mặt. “Ước gì em có thể may mắn lần theo được dấu vết đó.”
Isabel rời khỏi khu chuồng chim, vẫn để mở cửa chuồng. Phía sau cô, đám chim công vẫn đang cặm cụi ăn. Thế nhưng chẳng mấy chốc chúng đã chén sạch chỗ thức ăn của mình và bắt đầu chạy tứ tung khắp khu vực khuôn viên của tu viện. “Em không thể tin được là chị chưa bao giờ làm mất một con nào đấy.” Jessica nói. “Lũ cáo không đến hỏi thăm chúng à?”
“Bọn chị đã từng làm mất chúng rồi đấy chứ. Công bản chất là loài có tập tính sống hoang dã, ngay cả khi chúng vốn được sinh ra trong hoàn cảnh bị nuôi nhốt. Và khả năng tự vệ của chúng khá tốt đấy. Chúng có thể đậu trên các cành cây và ăn bất cứ thứ gì. Bọn chị đã có lần làm mất Xúp Đậu khoảng ba tháng trời, sau đó nó đã trở lại vào một buổi chiều ngay trong nhà nguyện khi trời mưa.”
“Tại sao chị không khóa cửa chuồng của chúng lại?”
“Bọn chị đã phải tự khóa mình lại rồi. Vì sao ngay cả chúng cũng phải chịu đựng điều đó chứ?”
Jessica không nói gì. Isabel vẫn như thường lệ - khi cô lờ đi tất cả đức tin của Jessica về tu viện - sẽ không bao giờ nhìn thẳng vào em gái. Rồi cô ngẩng mặt lên, dường như đang cố nặn ra một nụ cười gượng gạo. “Và giờ thì chỉ lần này thôi, chị muốn nói với em một vài chuyện. Chị đang có vấn đề rất lớn với Hilda.”
“Xơ đang làm gì ở đây?”
Chiếc máy tính để bàn phát ra tiếng rì rì cuối cùng rồi tắt hẳn. Ánh sáng yếu ớt của nó mờ dần cho đến khi căn phòng chìm trong bóng tối.
Isabel, ngồi sau bàn làm việc của Mẹ Hildegard, đang cân nhắc để tự bào chữa cho mình. Cô có rất ít lý do để giải thích cho việc này. Hildegard vẫn đang đứng ở ngưỡng cửa. Đường thoát nhanh nhất lúc này chỉ có nước là nhảy ra khỏi cửa sổ mà thôi, chứ chẳng còn đường nào cho cô để có thể thoát khỏi căn phòng này mà không gây ra bất cứ sự xô xát nào cả. Cô bèn đi vòng ra phía trước chiếc bàn. “Tôi xin được nhận lỗi, Mẹ Hildegard. Tôi sẵn sàng chịu hình phạt dành cho mình.”
Hildegard nhướn cao mày. “Ta không nghi ngờ điều đó, nhưng xơ vẫn cần phải trả lời câu hỏi của ta.”
Isabel cố gắng thử lần nữa. “Tôi đã để cho tâm trí của mình sao nhãng trên con đường hướng về Chúa. Tôi sẽ cầu nguyện để Chúa có thể tha thứ cho sự yếu đuối của tôi.” Cô rũ mắt nhìn xuống tấm thảm và bắt đầu đếm từng sợi vải một.
“Ta sẽ không bỏ qua chuyện này đâu, xơ ạ. Xơ đang làm gì trong phòng làm việc của ta vào giữa đêm hôm thế này?”
Như để minh chứng cho thời gian, tiếng chuông nhà nguyện bắt đầu rung lên hai tiếng thật trầm, vang vọng khắp tu viện. Lúc này đang là hai giờ sáng.
“Tôi đang tìm kiếm vài thứ trên mạng.” Isabel nói.
“Ta sẵn sàng lắng nghe đây.”
Isabel mạo hiểm nhìn lên. Mẹ Hildegard đã không còn quá chú tâm đến chuyện ăn mặc nữa. Lúc này bà đang mặc chiếc áo choàng màu nâu cũ kĩ và đội một chiếc mũ vải mỏng. Thiếu đi chiếc áo choàng đen dài, những nếp nhăn và làn da sần sùi cùng dáng vẻ của một người phụ nữ lớn tuổi càng lộ ra rõ ràng hơn. Đây chính là hình ảnh của cô, Isabel nhận ra, trong ba mươi năm nữa. Già nua và sần sùi, xám xịt và nhăn nhúm.
“Tôi xin lỗi, thưa Mẹ.” Cô nói. “Tôi không muốn nói ra.”
“Xơ, ta có cần phải nhắc nhở xơ lần nữa rằng xơ đã thề rằng mình sẽ vâng lời không?”
Isabel thở dài. “Tôi tò mò về vài điều mà Jessica đang điều tra. Tôi muốn biết thêm về nó. Tôi đã tìm được một bài báo và đã in nó ra để dành đọc sau.”
Hildegard ngả người ra sau, nhẹ nhàng gật đầu. “À, Jessica. Đôi khi ta đã nghĩ rằng có lẽ chúng ta sẽ tốt hơn nếu như không có cô gái trẻ đó thường xuyên ghé thăm. Thế nhưng, chúng ta sẽ nhớ cô ấy rất nhiều.”
Isabel chờ đợi. Đôi khi, việc có một người thân được người đứng đầu tu viện này vô cùng yêu quý là cực kỳ hữu ích. Hildegard lắc đầu. “Chà, xem ra ta chẳng thể ngủ lại ngay bây giờ được nữa rồi, và ta đột nhiên cảm thấy hơi khát.” Bà nói. “Xơ, ta đề nghị chúng ta hãy cùng lặng lẽ đến nhà bếp và đun một ấm nước. Xơ cần nói cho ta biết tất cả những chuyện này.”
“Tôi muốn tìm hiểu xem đã có chuyện gì xảy ra ở các quốc gia khác.” Isabel nói với Hildegard khi họ cùng nhau ngồi bên một chiếc bàn nhỏ trong nhà bếp, trước mặt họ là hai cốc trà đang bốc hơi. “Tôi nghĩ nó có thể giúp ích ít nhiều cho Jessica. Em ấy có rất ít thời gian rảnh. Đây cũng không phải là công việc chính thức mà em ấy được tiếp nhận. Tôi nghĩ rằng mình…”
“Xơ nghĩ rằng mình, vốn có rất nhiều thời gian rảnh rỗi, có thể giúp đỡ cho người phụ nữ bận rộn đó sao? Vậy ta có cần nhắc nhở xơ không, thưa xơ, rằng thời gian ở đây của chúng ta chỉ dành cho một mục đích duy nhất? Thời gian của xơ, và của cả ta, của tất cả các xơ khác nữa, đều là để dành cho Chúa không?”
“Tôi xin lỗi.”
“Thế ra những khoảng thời gian dài đằng đẵng này đã trở thành gánh nặng cho xơ, đúng không? Ta đã thường tự hỏi rằng liệu Chúa có thực sự đủ cho xơ không?”
Isabel ngước mắt lên khỏi chiếc cốc của mình. “Tôi không thể rời khỏi đây được.”
Đôi mắt già nua nhìn chằm chằm vào cô. “Tại sao? Bởi vì xơ thuộc về nơi này, hay là vì xơ đã ở đây quá lâu đến nỗi quên mất mình thực sự thuộc về nơi nào rồi?”
Isabel không nói gì. Hildegard thở dài.
“Và thật sự có những nơi trên thế giới mà những người nghèo đã bán thận của họ để nuôi sống gia đình sao?”
“Thận và một phần của lá gan.” Isabel trả lời. “Gan có thể phát triển trở lại, nếu như Mẹ cắt một phần của nó. Và đương nhiên rồi, việc đó có thể giúp họ nuôi sống gia đình, có thể giúp họ giải quyết nợ nần, hoặc thậm chí, như Jessica nghi ngờ, có thể giúp họ chi trả cho những tên buôn lậu để được đến phương Tây nữa. Và tôi biết, điều này nghe có vẻ rất khủng khiếp, nhưng nếu như những gì tôi tìm được là đúng thì không chỉ có thận là được mang ra giao dịch. Các cơ quan nội tạng mà con người bắt buộc phải cần đến để có thể sống sót được cũng có thể được mang ra trao đổi. Như trái tim chẳng hạn.”
Hildegard phải tự mình trấn tĩnh lại.
“Ở một số quốc gia, các bác sĩ có thẩm quyền đặc biệt để được phép lấy nội tạng ra khỏi những thi thể không có thân nhân, có rất nhiều thi thể không xác định được người thân đã bị đưa đến bệnh viện nơi các bác sĩ này công tác. Ở một số nơi khác, các tù nhân chính trị sẽ bị lạm dụng để trở thành những người hiến tạng. Tôi đã tìm được nhiều mẩu chuyện kể về những người vẫn còn chút hơi thở sau khi nội tạng của họ bị lấy đi. Nhưng dù thế nào đi chăng nữa, cuối cùng họ vẫn bị đưa vào lò hỏa thiêu.”
“Xơ ạ, ta không dám chắc liệu chúng ta có thể ngủ ngon tiếp được nữa không. Nhưng xơ có tìm thấy thứ gì thực sự có thể giúp ích được cho Jessica không?”
“Tôi nghĩ là không. Tôi cho rằng mình đã hy vọng sẽ bắt được chút manh mối nào đó để lý giải bằng cách nào mà chuyện đó lại có thể xảy ra ở Vương quốc Anh này. Nhưng mọi thứ dường như đều được quy định rất chặt chẽ. Tôi không thể biết được làm thế nào mà chuyện này lại có thể xảy ra.”
“Chúng ta nên hy vọng và cầu nguyện rằng nó đã không xảy ra.” Hildegard uống cạn cốc trà của mình và đặt nó xuống. “Ta nghĩ là đã đến lúc ta cần phải chuẩn bị sẵn sàng cho những lời tán ca rồi, xơ ạ.” Bà ấy đứng dậy và quan sát xung quanh. “Ta nghĩ trong vòng vài ngày tới, những cánh cửa sổ ở đây sẽ trông hơi mờ. Có thể xơ muốn dùng khoảng thời gian rảnh rỗi của mình để giúp chúng trở nên sáng sủa hơn chút chăng.”
“Và chỉ thế thôi sao?” Jessica hỏi. “Bà ấy bắt chị phải lau sạch cửa sổ á?”
Sau khi họ cho đám chim công ăn xong thì trời bắt đầu mưa và hai người phụ nữ tìm được một chỗ trú bên trong khu nhà kính của tu viện. Được xây dựng theo lối kiến trúc thời Victoria vừa rộng, vừa dài lại được trang trí rất công phu, các khu nhà kính chiếm gần hết chiều dài phần phía sau của tu viện. Trước đây, các khu nhà này được sử dụng để làm nơi gieo trồng một số loại hoa màu; trong khi một số loại như cà chua, ớt và dưa chuột vẫn được tiếp tục trồng, thì những loại hạt giống bên ngoài cũng đã tìm được cách để thâm nhập vào đây và phát triển rất mạnh mẽ. Những thực vật to lớn ngang bướng mọc trên nền đất và những cái bồn trữ nước khổng lồ lại mang đến cảm giác như đang trong một khu rừng nhiệt đới nơi khu nhà kính vừa ấm áp lại vừa ẩm ướt này.
“Đâu chỉ có vậy.” Isabel thở dài tự giễu. “Chị đã phải công khai thú nhận lỗi lầm của mình khi chị giải thích mọi thứ mà chị đã tìm được cho các xơ trong tu viện và yêu cầu họ cùng chị cầu nguyện rằng những hành động sai trái và tàn nhẫn đó sẽ chấm dứt. Bọn chị cầu nguyện cho các nạn nhân, cầu xin sự tha thứ cho những kẻ đã lợi dụng chính những người đồng bào của mình, và cầu nguyện cho cả những con người can đảm và mạnh mẽ vẫn đang tiếp tục làm công việc của họ bảo vệ những người yếu đuối. Tất nhiên những lời cầu nguyện đặc biệt là để dành cho em rồi. Bọn chị đã phải thực hiện rất nhiều các buổi lễ cầu nguyện xoay quanh đề tài này đấy.”
“Chà, em khá ngạc nhiên là chúng ta vẫn còn vấn đề thế này đấy. Nhưng cũng thật tốt khi biết rằng bên cạnh em luôn có những nữ tu sĩ của tu viện sẵn sàng cùng em chống lại tội phạm.”
“Đừng có báng bổ Chúa.”
Jessica liếc ngang chị gái mình một cái, nhưng trông Isabel có vẻ rất nghiêm túc.
Một tiếng sột soạt vang lên từ phía sau khiến cả hai đều nhảy dựng lên. Jessica đứng dậy khỏi băng ghế để quan sát chỗ đám lá cây rậm rạp đang không ngừng đung đưa. Có một cái gì đó, hoặc một ai đó đã ở ngay đây, lắng nghe câu chuyện của họ. “Ai đấy?” Cô hỏi.
“Chị không chắc ai trong chúng ta sẽ cảm thấy kinh ngạc nhất nếu như nghe được tiếng trả lời.” Isabel nói. “Chắc là Nhân Đậu.”
Đám lá cây lại sột soạt. Dường như có thứ gì đó đang rời khỏi đó để tiến về phía họ.
“Cũng có thể là Bã Đậu.” Isabel tiếp tục. “Nhưng bọn chị thường dễ tìm thấy Nhân Đậu ở đây nhất. Đặc biệt là vào mỗi lúc trời mưa.”
Một cái đầu nhỏ nhô ra từ trong lùm lá, dưới nền đất cũng xuất hiện những dấu chân nhọn. Là một cái đầu chim, một cái đầu chim màu xanh lam hoàn hảo nhất mà ta có thể tưởng tượng ra được, với những chiếc lông vũ sặc sỡ trông như những cánh hoa mọc trên đỉnh đầu của nó. Cặp mắt nâu sẫm của con công nhìn thẳng vào Jessica trong giây lát, trước khi nó bước hẳn tới và lướt ngang qua cô xuống lối đi. Những chiếc lông đuôi màu ngọc lam của nó được tô điểm bằng hàng trăm con mắt luôn mở lớn quét theo phía sau mỗi bước chân gõ nhẹ lên lối đi lát đá.
“Là Nhân Đậu.” Isabel khẳng định.
“Đừng nói với em rằng chị có thể phân biệt được chúng đấy nhé.” Jessica nói.
“Đương nhiên rồi. Bọn chị ai cũng phân biệt được hết. Thậm chí là cả xơ Serapis, mặc dù xơ ấy gần như bị mù. Xơ ấy nói rằng chúng có tiếng kêu khác nhau.”
Con công quay đầu nhìn lại họ một lát trước khi biến mất phía sau những luống cà chua. Đuôi của nó vẫn nhô ra ngoài, một đám lông vũ màu ngọc lam lấp lánh thỉnh thoảng lắc lư qua lại.
“Mặc dù chị sẽ nói cho em biết nhé.” Isabel nói. “Nếu như Hilda biết trước rằng chuyện này lại nhận được nhiều sự quan tâm đến thế nào thì bà ấy sẽ bắt chị phải đốt ngay bản báo cáo đó và không bao giờ được nhắc đến một từ liên quan nào với bất cứ ai. Mọi người giờ không ai trò chuyện về bất cứ chủ đề nào khác. Bọn chị không xem những bộ phim hài của Mỹ nữa mà thay vào đó là tìm kiếm các tư liệu liên quan đến việc buôn bán nội tạng. Xơ Serapis muốn tìm hiểu về việc các cơ quan nội tạng khác nhau đã được buôn bán với giá cả như thế nào trên thị trường chợ đen, và xơ ấy đã có một cuộc tranh luận thực sự với chị trong suốt mười phút đồng hồ về việc một lá gan còn có giá hơn một trái tim, bởi vì gan có thể làm sạch cơ thể khỏi tất cả các dịch bệnh. Xơ Alfreda thì đề nghị bán thận của mình để có thể trả chi phí sửa chữa cho phần mái nhà nguyện của tu viện, và xơ Tabitha thì khăng khăng rằng chị cần nói cho em rằng em phải, theo như lời xơ ấy nhé, khoanh vùng khu vực Whitby vì dường như có thứ gì đó vẫn đang lẩn trốn tại Whitby kể từ khi Dracula đến đó.”
Jessica ngồi lại xuống ghế. “Em cảm thấy mình đang sống trong phần tiếp theo của bộ phim Khi bà xơ hành động[22].”
“Ôi, xơ Eugenia còn yêu cầu chị phải nói chuyện rõ ràng với em. Có vẻ như xơ ấy nghĩ rằng một phần nào đó trong hệ thống máy tính của cảnh sát quốc gia đã ghi lại tất cả những tội ác.”
Jessica thở dài. “Chắc xơ ấy muốn nhắc đến HOLMES[23]. Hệ thống công nghệ thông tin điều tra các sự cố lớn của cảnh sát Anh.”
“Xơ ấy nghĩ rằng em nên sử dụng nó để tìm kiếm. Gõ từ khóa những người da đen và việc buôn bán nội tạng, kèm theo một biểu tượng dấu cộng, xơ ấy rất rành về nó. Hình như cháu trai của xơ ấy đang học chuyên ngành máy tính ở đại học thì phải.”
“Em hiểu ý của xơ ấy. Thực sự thì ngay khi việc này xảy ra, em đã thử tìm kiếm qua rồi. Không có gì cả.”
“Nhưng có thể em vẫn nên tiếp tục thử xem. Cứ thử tìm kiếm theo tuần. Sớm hay muộn thì em cũng có thể tìm được gì đó thôi. Cứ kiên nhẫn.”
Jessica mỉm cười. “Thú vị thật, trong nhà mình thì chị vốn là người chưa bao giờ kiên nhẫn cả.”
Isabel nhìn xuyên qua tấm kính, đến những bức tường của tu viện. “Chị đã ở đây hơn hai thập kỷ rồi. Chị còn học thêm được điều gì nữa chứ?”