← Quay lại trang sách

BA

Nạn nhân có mái tóc dài màu xám. Trên người đương khoác một chiếc áo ngủ vải flannel may rất cầu kỳ. Bà ta nằm nghiêng một bên. Bàn chân ở gần cửa thư phòng. Tay chân xoãi ra như đang chạy vậy. Bên dưới tử thi ló ra nửa thân cây súng săn. Một phần sọ của bà ta bị lõm vào trong. Trên tóc vẫn còn nhoe nhoét máu và não. Máu loang rộng trên sàn nhà lát gỗ sồi. Trông sậm màu và nhớp nháp.

Tôi bước vào hành lang và dừng lại cách bà ta khoảng một cánh tay. Tôi ngồi xuống với lấy cổ tay tử thi. Da đã lạnh ngắt. Không còn nhịp tim.

Tôi ngồi yên. Lắng nghe. Không một tiếng động. Tôi nghiêng người nhìn đầu bà ta. Đương sự đã trúng một đòn cực mạnh bằng vật gì đó rất cứng. Chỉ một đòn thôi, nhưng trí mạng, vết thương khoét thành hình một cái rãnh. Rộng gần một inch, có thể dài bốn inch. Đòn đánh từ bên trái, từ trên xuống. Tử thi xoay ra sau nhà. Hướng mặt về nhà bếp. Tôi nhìn quanh rồi buông cổ tay bà ta ra, đoạn đứng dậy bước vào thư phòng. Một chiếc thảm Ba Tư phủ gần kín sàn phòng. Tôi đặt chân lên nó và tưởng tượng mình nghe thấy tiếng bước chân rón rén từ phía hành lang, tiến tới nơi mình đứng. Tưởng tượng chính tôi đang cầm cây xà beng dùng phá khóa khi nãy. Tưởng tượng mình vung nó vào con mồi vừa chớm bước vào tầm đánh, khi vừa đặt chân tới ngưỡng cửa.

Tôi nhìn xuống. Trên thảm hãy còn vệt máu xen lẫn tóc. Hẳn thủ phạm đã chùi hung khí lên ấy.

Ngoài chiếc thảm ra thì đồ vật trong phòng không có dấu hiệu xáo trộn nào. Căn phòng không có ấn tượng gì. Như thể người ta xây nó vì nghĩ nhà ai cũng nên có một thư phòng. Chứ không phải vì họ thực sự cần một không gian như thế. Chiếc bàn trông như không được dùng để làm việc. Bởi trên mặt bàn để đầy những khung ảnh bằng bạc. Nhưng đối với một cặp vợ chồng lâu năm thì vẫn ít hơn tôi tưởng. Có một bức ảnh chụp hình người đàn ông xấu số ở quán trọ đứng bên cạnh người đàn bà nằm chết trên sàn hành lang trước ngọn núi Rushmore nổi tiếng. Một chuyến đi chơi của thiếu tướng Kramer và phu nhân. Gã cao hơn bà ta. Trông mạnh mẽ và tràn đầy sinh lực. Bà nhà bé nhỏ hơn nhiều.

Còn một khung ảnh nữa có hình Kramer trong bộ quân phục. Có vẻ chụp đã lâu rồi. Gã đang đứng trên thang, sắp trèo vào chiếc máy bay chuyên chở C-130. Một bức ảnh màu. Quân phục gã màu xanh, còn vỏ máy bay màu nâu. Gã đang vẫy tay cười. Chắc đang lên đường nhận sao đầu tiên, tôi đoán vậy. Bên cạnh là một bức ảnh khác, khung cảnh gần giống vậy, nhưng mới hơn. Vẫn Kramer, đứng trên bậc thang lên máy bay, người quay lại, vẫy tay cười. Chắc lên đường nhận sao thứ hai đây mà. Trong cả hai bức hình gã đều vẫy tay phải. Trong cả hai bức hình tay trái gã đều cầm một chiếc túi bằng vải bố mà tôi đã thấy trong tủ quần áo của quán trọ. Và nhích lên trên, trong cả hai bức hình, kẹp dưới nách gã, chính là chiếc cặp táp vải đồng bộ.

Tôi lại bước ra ngoài hành lang. Lắng nghe thật chăm chú. Nhưng tuyệt nhiên không một tiếng động. Tôi có thể rà soát căn nhà, nhưng không cần phải làm thế. Tôi đoán chắc không còn ai đang náu trong nhà và chẳng còn thứ gì tôi cần tìm nữa. Tôi nhìn bà góa Kramer lần cuối. Tôi có thể thấy lòng bàn chân của bà ta. Chưa làm bà góa được bao lâu. Chắc chừng một, hay ba tiếng mà thôi. Tôi đoán vệt máu trên sàn nhà đã ở đó khoảng mười hai tiếng. Nhưng chẳng cách nào canh chính xác được. Việc đó phải đợi khám nghiệm.

Tôi trở ra ngoài từ phòng bếp và vòng tới trước gặp Summer. Tôi bảo cô vào bên trong xem xét. Vậy đỡ phải giải thích lằng nhằng. Chỉ vài phút sau cô đã trở ra, vẻ mặt thản nhiên và bình tĩnh vô cùng. Một điểm cho cô Summer nhé, tôi nghĩ thầm.

“Sếp thích những chuyện trùng hợp thế này không?” cô hỏi.

Tôi không trả lời.

“Ta phải đi Thủ đô một chuyến thôi sếp,” cô nói tiếp. “Tới Viện Walter Reed. Ta phải yêu cầu họ kiểm tra lại bản khám nghiệm của Kramer.”

Tôi không nói gì.

“Vụ này tự động biến cái chết của ông ta thành ra đáng ngờ. Sếp coi, xác suất xảy ra việc này là thế nào chứ? Biết là một trong tổng số bốn mươi hay năm mươi ngàn quân nhân có thể chết vào một ngày bất kỳ, nhưng còn bà vợ người đó cũng chết trong cùng ngày á? Lại còn chết cùng ngày và do bị giết nữa?”

“Đâu có cùng ngày,” tôi lên tiếng. “Thậm chí còn không cùng năm.”

Cô gật đầu. “Thôi được, người chết đêm Giao thừa, người chết sáng mồng một. Nhưng nếu thế thì suy đoán của tôi lại càng đúng. Viện Walter Reed đêm qua chắc gì đã có sẵn chuyên viên nào đi trực. Hẳn họ đã phải lôi đầu một tay nào vào đúng không. Và lôi từ đâu nào? Từ một buổi tiệc chứ đâu.”

Tôi thoáng cười. “Vậy cô muốn ta tới đấy hỏi, nè, thằng cha khám nghiệm của mấy ông tối qua có tỉnh táo không vậy? Có đủ tỉnh để phân biệt được trụy tim với án mạng không đấy?”

“Ta vẫn phải kiểm tra,” cô nói. “Tôi không ưa chuyện trùng hợp ngẫu nhiên.”

“Vậy cô đoán chuyện gì đã xảy ra?”

“Có kẻ đột nhập,” cô đáp. “Bà Kramer nghe tiếng phá cửa thì tỉnh ngủ, dậy khỏi giường, cắp theo khẩu súng săn trong tầm với, xuống nhà, tiến vào bếp. Công nhận là gan.”

Tôi gật đầu. Vợ tướng mà, gan lì vô cùng.

“Nhưng bà nhà lại phản ứng chậm,” Summer tiếp lời. “Kẻ đột nhập đã phục sẵn trong thư phòng rồi nên mới tấn công từ bên hông được. Bằng thanh xà beng hắn dùng phá cửa. Ngay khi bà ta đi qua. Hắn phải cao hơn bà nhà, có lẽ khoảng ba mươi phân, và hẳn là thuận tay phải.”

Tôi không nói gì.

“Vậy ta có tới Viện Walter Reed không sếp?”

“Tôi nghĩ là có,” tôi đáp. “Ta sẽ khởi hành sau khi xong chuyện ở đây.

Chúng tôi điện báo cho cảnh sát khu vực Green Valley bằng chiếc điện thoại gắn trên tường nhà bếp. Rồi điện báo tin cho sếp Garber. Ông ta dặn sẽ gặp chúng tôi tại bệnh viện kia. Rồi hai chúng tôi đợi. Summer canh chừng trước nhà, tôi lo phía sau. Thảy đều yên ắng. Cảnh sát khu vực tới nơi trong vòng bảy phút. Họ đi thành một đoàn xe nhỏ, gồm hai xe tuần tra, một xe thám tử và một xe cấp cứu. Họ bật đèn lẫn tít còi ầm ĩ. Cách đó cả dặm đã nghe thấy rồi. Đoàn họ phóng tới trước cửa nhà mới tắt máy. Summer và tôi giữ im lặng và nép sang một bên khi họ ùa qua chúng tôi. Bọn tôi không có việc gì ở đây. Vợ tướng là dân thường, và căn nhà nằm trong vùng quản lý của cảnh sát dân sự khu này. Bình thường tôi sẽ không để cái giới hạn vớ vẩn ấy cản chân mình, nhưng tôi đã có hết thông tin cần biết ở hiện trường rồi. Nên tôi sẵn lòng lùi lại nhường đường theo đúng lệ để lấy lòng người ta. Được lòng người có khi nào thừa đâu.

Một viên cảnh sát canh chừng chúng tôi khoảng hai chục phút khi đồng nghiệp của anh ta lục soát trong nhà. Rồi một viên thanh tra diện com lê tiến lại lấy lời khai của chúng tôi. Bọn tôi kể về vụ gã Kramer bị trụy tim, chuyến đi báo tin cho bà góa này, và cánh cửa sập liên hồi. Tên tay thanh tra là Clark và anh ta chẳng nghi ngờ gì lời khai của bọn tôi. Nghi vấn của anh ta giống của Summer. Ông và bà Kramer cùng chết trong một đêm tại hai điểm cách nhau cả trăm dặm, một sự trùng hợp ngẫu nhiên, và anh ta cũng chẳng ưa gì sự trùng hợp ngẫu nhiên như Summer. Tôi chợt thấy tội cho Rick Stockton, ông phó đội trưởng tôi gặp dưới Bắc Carolina. Quyết định cho tôi đem xác gã Kramer đi rồi sẽ không đem lại kết cục tốt đẹp, với tình huống phát sinh này. Quyết định đó trao cho quân đội phân nửa vấn đề. Rồi sau này sẽ có xung đột đây.

Chúng tôi cho thanh tra Clark số điện thoại ở trại Bird để tiện liên lạc, rồi hai chúng tôi lên xe. Tôi đoán Thủ đô cách đây chừng hơn bảy mươi dặm nữa. Đi mất một tiếng mười phút nữa. Nếu Summer lái như ban nãy thì chắc sẽ đến sớm hơn chút. Cô lái xe trở ra cao tốc và nhấn ga đến khi chiếc Chevy gầm lên vọt đi.

“Tôi thấy chiếc cặp táp trong mấy bức hình rồi,” cô nói.

“Sếp có thấy không?”

“Có,” tôi đáp.

“Nhìn thấy người chết, sếp có khó chịu không?”

“Không,” tôi đáp.

“Sao lại không?”

“Tôi không biết. Cô thì sao?”

“Có khó chịu đôi chút.”

Tôi không nói gì.

“Sếp có nghĩ chuyện này chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên không?” cô hỏi.

“Không,” tôi đáp. “Tôi không tin vào sự trùng hợp ngẫu nhiên.”

“Vậy sếp nghĩ bên khám nghiệm bỏ sót điều gì sao?”

“Không,” tôi đáp lần nữa. “Tôi nghĩ kết quả khám nghiệm có lẽ chính xác rồi.”

“Vậy ta còn đi đến Thủ đô làm gì nữa?”

“Vì tôi cần phải xin lỗi tay khám nghiệm. Tôi đẩy anh ta vào một mớ rắc rối to khi nhờ xem xét xác Kramer. Kiểu gì cũng có cả đám dân sự bám riết anh ta cả tháng tới cho xem. Anh ta không nổi điên mới lạ.”

Thế nhưng chuyên viên khám nghiệm không phải là một anh, mà là một cô, và cô ta có thái độ vui vẻ đến độ tôi nghĩ khó có điều gì có thể làm cô giận lâu được. Chúng tôi gặp cô ta tại khu lễ tân của Viện Quân y Walter Reed, khoảng bốn giờ chiều, mồng một Tết. Trông nơi đây chẳng khác gì với khu lễ tân những bệnh viện khác. Đồ trang trí lễ tết treo khắp trần nhà. Chưa gì trông đã có vẻ cũ rồi. Đại tá Garber đã có mặt trước chúng tôi. Ông ta ngồi trên một chiếc ghế nhựa. Ông ta nhỏ người và ngồi trông cũng thoải mái lắm. Nhưng ông ta lặng thinh. Ông ta không chào hỏi trung úy Summer. Cô đứng ngay cạnh ông ta. Tôi đứng dựa vào tường. Chuyên viên khám nghiệm tiếp chuyện chúng tôi với xấp giấy tờ trên tay, như thể đang giảng bài cho một nhóm sinh viên thực tập đang chăm chú lắng nghe. Bảng tên ghi Sam McGowan, cô ta là một cô gái trẻ với làn da ngăm, nhanh nhẹn và cởi mở.

“Tướng Kramer chết do nguyên nhân tự nhiên,” cô ta nói. “Bị trụy tim, tối qua, sau mười một giờ, trước nửa đêm. Không còn nghi ngờ gì nữa. Tôi sẵn lòng để quý vị khám nghiệm lại, nhưng thực tình mà nói thì chỉ tốn thời gian mà thôi. Hoàn toàn không có chất độc. Dấu hiệu của rung thất thì chắc chắn, ông ấy bị xơ vữa động mạch nghiêm trọng. Nên về mặt pháp y, giả thuyết duy nhất của các vị là có ai đó vô tình đi chích điện nhằm giả cơn trụy tim với một người mà cầm chắc sẽ chết vì trụy tim trong vòng vài phút, hoặc giờ, hoặc ngày, hoặc tuần, nữa mà thôi.”

“Muốn giả cơn trụy tim thì phải làm thế nào?” Trung úy Summer hỏi.

McGowan nhún vai. “Muốn làm thế thì da phải ướt trên diện rộng, về cơ bản thì nạn nhân phải bị nhúng trong bồn nước. Rồi, nếu dẫn điện sinh hoạt vào bồn nước ấy, ta có thể giả được một con rung thất mà không để lại vết bỏng. Nhưng tướng Kramer đâu có chết trong bồn tắm, và cũng không có dấu hiệu nào như vậy trước đó.”

“Còn ví như da không ướt thì sao?”

“Thì tôi sẽ thấy vết bỏng. Nhưng tôi lại không thấy, và tôi đã soi xác ông ấy từng phân một bằng kính lúp. Không có vết bỏng, không có vết chích dưới da, không có gì cả.”

“Vậy còn nếu bị sốc, bất ngờ, hay hoảng sợ thì sao?”

Chuyên viên khám nghiệm lại nhún vai. “Có thể lắm, nhưng ta biết ông ấy đương làm gì ở đó mà, phải không? Những cơn kích động bất chợt trong lúc hứng tình là một nguyên nhân kinh điển mà.”

Không ai nói gì.

“Nguyên nhân tự nhiên thôi, quý vị ơi,” McGowan nói. “Một cơn trụy tim bạo liệt thôi mà. Chuyên viên khám nghiệm nào trên đời này nhìn qua ông ấy thôi cũng sẽ đồng tình một trăm phần trăm. Tôi quả quyết đấy.”

“OK,” Garber nói. “Cảm ơn bác sĩ.”

“Cho tôi xin lỗi trước,” tôi lên tiếng. “Trong mấy tuần tới cô sẽ phải lặp đi lặp lại những điều vừa rồi cho hơn hai chục viên cảnh sát dân sự mỗi ngày đó.”

Cô ta mỉm cười. “Tôi sẽ in một bản báo cáo chính thức.”

Rồi cô ta nhìn mỗi người chúng tôi như chờ xem còn thắc mắc nào không. Không ai lên tiếng, nên cô ta mỉm cười lần nữa rồi rời đi qua một cánh cửa. Cửa sập lại và mớ trang trí trên trần nhà rung lên tí chút, rồi khu lễ tân yên ắng trở lại.

Chúng tôi không ai nói gì một hồi.

“OK,” Garber mở miệng. “Vậy là hết. Vụ Kramer không gì đáng ngờ, còn vụ vợ gã để bên dân sự lo. Ta không liên quan gì nữa.”

“Sếp có quen Kramer không?” tôi hỏi ông ta.

Garber lắc đầu. “Chỉ nghe danh thôi.”

“Như thế nào sếp?”

“Ngạo mạn. Thuộc Thiết giáp. Xe tăng Abrams là đồ chơi xịn nhất quân đội. Nên bên đó tha hồ hô mưa gọi gió, và bọn họ biết rõ điều đó.”

“Vậy sếp biết vợ gã không?”

Mặt ông ta nhăn lại. “Bà ta ru rú trong nhà ở bang Virginia, tôi nghe vậy. Giàu nứt đố đổ vách, gốc thế phiệt Virginia xưa. Ý tôi là, bà ta cũng làm tròn nghĩa vụ của mình rồi. Cũng có thời gian trực tại Đức, nhưng mà nếu đếm lại toàn bộ lượng thời gian ấy thì cũng chẳng nhiều nhặn gì đâu. Thí dụ như bây giờ, Quân đoàn XII bảo tôi là bà ta về nhà nghỉ lễ, thực ra cũng bình thường, nhưng thực tế thì bà ta đã về từ đợt lễ Tạ ơn và phải vào xuân mới tới hạn quay trở lại. Nên hai ông bà nhà Kramer cũng chẳng gần gũi gì với nhau lắm, xét về mọi mặt. Không con cái, không sở thích chung.”

“Vậy nên mới xuất hiện gái bán hoa,” tôi nói. “Nếu hai người kia thân ai nấy lo như vậy.”

“Chắc vậy,” Garber nói. “Cậu biết đấy, tôi có cảm giác cuộc hôn nhân này chỉ là để cho có thôi.”

“Tên bà nhà là gì ạ?” Summer hỏi.

Garber quay sang nhìn cô.

“Bà Kramer,” ông ta đáp. “Ta chỉ cần biết vậy thôi.”

Summer nhìn đi nơi khác.

“Kramer tới trại Irwin với ai vậy sếp?” tôi hỏi.

“Hai người của gã,” Garber đáp. “Một tướng một sao và một đại tá, Vassell và Coomer. Ba anh ngự lâm pháo thủ. Kramer, Vassell và Coomer. Gương mặt ăn tiền của Thiết giáp.”

Ông ta đứng dậy vươn vai.

“Bắt đầu từ nửa đêm qua,” tôi nói với ông ta. “Sếp kể lại giúp tôi sếp đã làm gì.”

“Vì sao?”

“Vì tôi không ưa sự ngẫu nhiên. Và sếp cũng vậy.”

“Tôi có làm gì đâu.”

“Ai cũng làm gì đó” tôi nói. “Trừ gã Kramer.”

Garber trừng mắt nhìn tôi.

“Tôi xem người ta thả cầu năm mới,” ông ta đáp. “Rồi uống thêm ly rượu. Rồi hôn con gái. Giờ nhớ lại, tôi hôn nhiều người lắm. Rồi tôi hát bài ‘Auld Lang Syne’.”

“Sau đó thì sao?”

“Văn phòng điện cho tôi. Báo rằng mới phát hiện ra qua nhiều ngả vòng vèo là ta có một tướng hai sao chết ở Bắc Carolina. Họ báo rằng sĩ quan Quân cảnh trại Bird không muốn điều tra. Nên tôi mới gọi tới, lại gặp phải cậu.”

“Rồi sao nữa?”

“Cậu lên đường làm việc nên tôi gọi cho cảnh sát thị trấn và biết người chết tên Kramer. Điều tra thêm thì biết gã thuộc Quân đoàn XII. Nên tôi gọi qua Đức báo tin tử, nhưng giấu chi tiết. Tôi kể cho cậu rồi còn gì nữa.”

“Rồi sao nữa?”

“Rồi không gì nữa chứ sao. Tôi đợi cậu báo cáo thôi.”

“OK,” tôi đáp.

“OK cái gì?”

“OK, thưa sếp?”

“Bố khỉ,” ông ta nói. “Cậu đang nghĩ gì vậy?”

“Chiếc cặp táp,” tôi đáp. “Tôi vẫn muốn tìm nó.”

“Vậy thì tìm đi,” ông ta nói. “Cho đến khi tôi liên lạc được với Vassell và Coomer. Họ có thể cho ta biết có gì cần lo lắng không.”

“Sếp chưa tìm được họ à?”

Ông ta lắc đầu.

“Chưa,” ông ta nói. “Họ trả phòng, nhưng không bay tới California. Chẳng ai biết hai người đó đang ở chỗ quái nào cả.”

Garber tự lái xe về thị trấn còn Summer và tôi lên xe hướng về Nam. Trời đang lạnh và trở tối. Tôi đề nghị cầm lái, nhưng Summer không chịu. Hình như cô thích lái xe.

“Đại tá Garber có vẻ căng thẳng,” cô nói. Giọng cô không giấu nỗi thất vọng, như một nữ diễn viên hỏng buổi thử vai.

“Ông ta đang mặc cảm thôi,” tôi đáp.

“Vì sao ạ?”

“Vì ông ta giết bà Kramer chứ sao.”

Cô nhìn tôi trân trân. Dù xe chạy gần chín mươi dặm một giờ, cô vẫn quay ngang nhìn tôi.

“Hiểu theo nghĩa nào đó thì là vậy,” tôi nói.

“Là sao sếp?”

“Việc này còn lâu mới là trùng hợp ngẫu nhiên.”

“Viên khám nghiệm nói khác mà.”

“Gã Kramer chết vì nguyên nhân tự nhiên. Viên khám nghiệm đúng là đã nói vậy. Nhưng trong sự việc đấy có điều gì đó trực tiếp dẫn đến vụ sát hại bà Kramer. Và chính Garber đã khởi động toàn bộ quy trình. Bằng cách báo tin cho Quân đoàn XII. Ông ta báo xong, hai tiếng sau bà góa lăn ra chết luôn.”

“Vậy chuyện gì đang xảy ra thế sếp?”

“Tôi cũng chịu,” tôi nói.

“Thế Vassell và Coomer liên quan gì đến vụ này?” cô hỏi. “Bộ ba làm nên non ấy. Kramer chết, vợ cũng chết, còn hai người kia biến mất tăm.”

“Cô nghe sếp lớn nói rồi đấy. Ta không liên can gì nữa.”

“Sếp định khoanh tay đứng nhìn sao?”

“Tôi định tìm một cô nàng bán hoa.”

Chúng tôi chọn đường ngắn nhất, thẳng đến nơi quán trọ và quán bar kia. Cũng chẳng có gì để lựa chọn. Đầu tiên đi đường Beltway, rồi rẽ vào cao tốc I-95. Đường khá thưa xe. Dù gì vẫn là mồng một mà. Thế giới bên ngoài cửa xe trông tối tăm và lặng lẽ, lạnh lẽo và im lìm. Khắp nơi bắt đầu lên đèn. Summer lái xe cẩn thận, nhưng vẫn nhanh. Con đường gã Kramer đi mất sáu tiếng thì bọn tôi có thể sẽ không mất đến năm. Bọn tôi dừng lại đổ xăng sớm và mua cái bánh mì kẹp khô khan làm từ năm ngoái theo lịch. Chúng tôi ăn vội trên đường xuống phía Nam. Rồi tôi ngắm Summer trong hai mươi phút. Tay cô thon thả. Đặt nhẹ nhàng lên vô lăng. Cô không chớp mắt nhiều. Môi cô hơi hé và thỉnh thoảng cô lại lấy lưỡi quét răng.

“Nói chuyện với tôi đi,” tôi lên tiếng.

“Chuyện gì thưa sếp?”

“Chuyện gì cũng được,” tôi đáp. “Kể tôi nghe chuyện đời cô đi.”

“Để làm gì sếp?”

“Vì tôi mệt,” tôi nói. “Kể chuyện cho tôi đỡ buồn ngủ.”

“Đời tôi nhạt lắm.”

“Cứ thử đi,” tôi nói.

Cô nhún vai rồi kể từ đầu, từ khu ngoại ô thành phố Birmingham, bang Alabama, giữa thập niên sáu mươi. Lời cô toàn những điều tốt, nhưng lẫn trong giọng kể là cảm giác cô nhận thức rõ ngay từ bé rằng tuổi thơ của một cô gái da màu nhà nghèo sống ở Alabama trong những năm ấy không phải lý tưởng. Cô có anh chị em. Cô từ bé đã nhỏ nhắn, nhưng nhanh nhẹn, và tận dụng năng khiếu trong các môn thể dục, khiêu vũ và nhảy dây để trở nên nổi bật tại trường. Cô học cũng giỏi nữa, thu về cho bản thân không ít những học bổng nhỏ và rồi chuyển đến bang Georgia học đại học. Cô đã tham gia Quân đoàn Huấn luyện Sĩ quan Dự bị và vào năm ba thì dùng hết số học bổng của mình, quân đội tài trợ tiếp cho cô và đổi lại sau đó cô sẽ nhập ngũ năm năm. Đến nay đã hơn hai năm rưỡi rồi. Cô đạt điểm cao tại trường Quân cảnh. Nghe giọng cô rất thoải mái. Quân đội đã hòa hợp các thành phần xã hội được bốn mươi năm và cô thấy đó là nơi ranh giới màu da và sắc tộc nhạt nhòa nhất. Nhưng cô không hài lòng với tiến triển của bản thân. Tôi có cảm giác đơn thuyên chuyển sang Đội Đặc nhiệm 110 là nỗ lực đi hay ở của cô. Nếu đơn được duyệt, cô sẽ ở lại luôn, như tôi. Còn nếu không, cô sẽ giải ngũ khi năm năm kết thúc.

“Giờ đến lượt sếp kể chuyện đời mình cho tôi đấy,” cô nói.

“Đời tôi à?” tôi đáp. Đời tôi khác hẳn cô trên mọi phương diện. Sắc da, giới tính, địa lý, hoàn cảnh gia đình. “Tôi sinh ra ở Berlin. Thời ấy, đứa bé nào mới ra đời cũng phải lưu lại bệnh viện bảy ngày, và khi một tuần tuổi tôi được đưa vào doanh trại. Tuổi thơ tôi gắn liền với tất cả doanh trại quân đội mà ta có. Tôi học ở West Point. Tôi vẫn tại ngũ. Đến cuối đời. Thực sự chỉ có vậy thôi.”

“Gia đình sếp thì sao?”

Tôi nhớ lại lời viên trung úy: Anh trai sếp gọi. Không để lại lời nhắn.

“Có mẹ và anh trai,” tôi nói.

“Sếp lập gia đình chưa?”

“Chưa. Cô thì sao?”

“Chưa,” cô đáp. “Sếp có đang quen ai không?”

“Bây giờ thì chưa.”

“Tôi cũng vậy.”

Chúng tôi cứ thế đi tiếp, một dặm, rồi một dặm nữa.

“Sếp tưởng tượng nổi cuộc sống ngoài quân ngũ không?”

“Có kiểu sống ấy nữa à?”

“Tôi lớn lên ngoài quân ngũ mà sếp. Có thể tôi sẽ trở lại cuộc sống ấy.”

“Dân thường mấy người là một bí ẩn với tôi,” tôi đáp.

Summer dừng xe ngoài phòng trọ Kramer từng thuê, sau gần năm giờ lái xe từ Viện Walter Reed, nếu nói chính xác. Trông cô thỏa mãn với tốc độ trung bình của mình lắm. Cô tắt máy và mỉm cười.

“Để tôi lo quán bar cho,” tôi nói. “Cô gặp thằng nhóc trong phòng tiếp tân đi. Cô diễn vai cớm hiền nhé. Bảo nó cớm dữ đang tới đấy.”

Chúng tôi bước ra màn đêm lạnh lẽo. Sương mù đã trở lại. Ánh đèn đường chiếu rọi qua lớp sương mờ. Tôi vươn vai ngáp một hơi rồi kéo áo khoác cho thẳng thớm, đoạn nhìn Summer bước qua chiếc máy bán nước ngọt tự động. Làn da cô rực đỏ trong ánh đèn của cái máy. Tôi băng sang đường tới quán bar.

Bãi xe vẫn đông như đêm hôm trước. Chật kín những xe du lịch và xe tải đỗ quanh tòa nhà. Máy thông gió của quán hoạt động hết công suất. Tôi còn nhìn thấy cả khói lẫn ngửi được mùi bia trong không khí. Tôi nghe thấy nhạc bên trong đang xập xình. Đèn nê ông rực sáng.

Tôi mở cửa tiến vào mớ âm thanh ấy. Bên trong vẫn đông kín người. vẫn từng ấy ánh đèn rọi. Trên sân khấu là một cô gái thoát y khác, vẫn cái gã ngực vạm vỡ như thùng phi ẩn nửa mình trong tối đằng sau quầy thu ngân. Tôi không nhìn thấy mặt hắn, nhưng tôi biết hắn đang nhìn ve áo của tôi. Ve áo Kramer có hình hai thanh kiếm kỵ binh chéo nhau dưới một chiếc xe tăng đang xông tới của Thiết giáp, còn tôi có hình hai khẩu súng lục chéo nhau, vàng lấp lánh của Quân cảnh. Thật không phải thứ y phục được một nơi như thế này chào đón.

“Phí vào cổng,” gã đứng sau quầy thu ngân nói.

Rất khó nghe được tiếng hắn. Nhạc to quá.

“Bao nhiêu?” tôi hỏi.

“Một trăm đô,” hắn đáp.

“Làm gì tới.”

“OK, hai trăm đô.”

“Khôi hài quá,” tôi bảo.

“Tôi không thích cớm đến đây.”

“Khó hiểu ghê,” tôi nói.

“Nhìn tôi này.”

Tôi nhìn hắn. Chẳng có gì đáng nhìn. Ánh đèn quét lên một cái bụng khổng lồ cùng bộ ngực vạm vỡ và hai cẳng tay ngắn, rắn chắc, đầy hình xăm. Hai bàn tay hắn to cỡ một con gà ướp đông, ngón nào cũng đeo đầy những cái nhẫn bạc to sụ. Nhưng vai và mặt hắn vẫn ẩn trong bóng tối phía trên. Như thể đang trốn sau một tấm màn vậy. Tôi đang nói chuyện với một kẻ tôi còn không thấy.

“Quán này không tiếp anh đâu,” hắn nói.

“Để tôi nói cho vuông. Tôi không phải người yếu bóng vía đâu.”

“Anh không nghe à,” hắn nói. “Quán này tôi quản và tôi muốn anh biến giùm cho.”

“Tôi sẽ nhanh thôi.”

“Cút ngay.”

“Không.”

“Nhìn tao này.”

Hắn nghiêng người vào trong vùng ánh sáng. Từ tốn. Ánh đèn từ ngực hắn trườn lên. Lên cổ. Rồi đến mặt. Một khuôn mặt dị thường. Ban đầu tưởng xấu thường nhưng dần dà trở thành kinh tởm. Mặt hắn đầy những vết sẹo bị dao lam rạch. Chúng chằng chịt hệt như hàng rào mắt cáo. Vết rạch vừa sâu vừa to và đã lành từ lâu. Mũi hắn đã từng bị nện gãy rồi được chỉnh lại một cách cẩu thả, rồi lại bị nện gãy lần nữa và lại được chỉnh lại cẩu thả, không biết bao nhiêu lần. Hai hàng chân mày rậm rì của hắn cũng đầy sẹo. Ngay dưới là hai con mắt nhỏ đang chòng chọc nhìn tôi. Hắn khoảng bốn mươi tuổi. Cao chừng mét bảy tám, nặng chắc khoảng một tạ tư. Trông hệt như một võ sĩ giác đấu còn sống sót sau hai mươi năm ở dưới hầm mộ nào đó.

Tôi mỉm cười. “Anh định hù tôi bằng trò nhìn mặt à? Dưới thứ đèn hoa hòe này sao?”

“Thấy mặt tao rồi thì mày nên liệu hồn đi.”

“Thấy mặt anh rồi tôi mới biết anh đánh nhau toàn thua. Anh muốn thua thêm trận nữa thì tôi chiều.”

Hắn im lặng.

“Hoặc tôi sẽ nghiêm cấm tất cả quân nhân trại Bird ghé quán này. Tôi thừa biết thu nhập quán anh sẽ ra sao nếu tôi làm thế.”

Hắn im lặng.

“Nhưng tôi nào muốn làm vậy,” tôi nói tiếp. “Lẽ nào tôi lại phạt lính mình chỉ vì anh là một thằng khốn nạn chứ.”

Hắn im lặng.

“Vậy tôi đành mặc kệ anh thôi.”

Hắn ngả người lại ra sau. Bóng tối trườn về chỗ cũ, như một tấm màn.

“Rồi tao sẽ hỏi thăm mày sau,” hắn nói, vọng ra từ bóng tối. “Ở một nơi nào đó, ở một lúc nào đó. Tao cam đoan. Tao hứa đó. Mày đợi mà xem.”

“Sợ quá đi mất,” tôi đáp. Tôi tiến tới sấn vào đám đông. Tôi chen qua hành lang hẹp chật như nêm rồi vào sảnh chính của tòa nhà. Bên trong còn rộng hơn từ ngoài nhìn vào. Một khoảng phòng vuông thấp rộng lớn, đầy người và âm thanh. Có cả chục khu riêng biệt. Loa gắn khắp nơi. Nhạc đánh to. Đèn nhấp nháy. Đầy dân thường đến chơi. Cũng không ít quân nhân. Tôi nhận ra họ qua kiểu tóc, và quần áo. Quân nhân được nghỉ cứ nhìn cách ăn mặc là biết ngay. Họ cố giống người thường, nhưng luôn thất bại. Lúc nào trông họ cũng chỉn chu và hơi lỗi thời. Họ đưa mắt nhìn khi tôi đi ngang qua. Trông họ không vui gì khi thấy tôi. Tôi đang tìm một tay trung sĩ. Tay nào đó lớn tuổi chút. Tôi trông thấy bốn người tiềm năng, ngồi cách mép sân khấu lớn sáu feet. Ba trong số đó nhác thấy tồi đã quay mặt đi. Người thứ tư nhìn tôi và ngập ngừng một giây, rồi quay người hẳn sang hướng tôi. Như thể anh ta biết mình đã được chọn vậy. Anh ta người chắc nịch, lớn hơn tôi chừng năm tuổi. Lực lượng Đặc nhiệm, chắc vậy. Ở trại Bird cũng nhiều người trong đó, và nhìn anh ta giống bọn họ. Trông anh ta đương vui vẻ lắm. Rõ ràng là thế. Trên mặt anh ta còn rõ nụ cười và một chai bia trong tay. Bia lạnh, ngoài chai còn lấm tấm nước. Anh ta giơ nó lên, như muốn cụng ly, như một lời mời tiếp cận. Vậy nên tôi tiến lại và nói vào tai anh ta.

“Nhờ anh truyền lời cho anh em,” tôi bảo. “Rằng đây không phải công vụ đâu. Không liên quan gì đến người của ta. Việc này hoàn toàn khác.”

“Khác như nào?” anh ta hỏi.

“Đồ thất lạc thôi,” tôi đáp. “Không có gì nghiêm trọng.

Mọi thứ ổn cả.”

Anh ta im lặng.

“Anh là lính Đặc nhiệm?” tôi hỏi.

Anh ta gật đầu. “Mất đồ sao?”

“Không có gì đâu,” tôi đáp. “Chỉ là có thứ bên kia đường bị thất lạc thôi.”

Anh ta suy ngẫm một hồi rồi giơ chai bia lên vờ như cụng vào chai của tôi, nếu tôi có mua một chai. Một thái độ chấp nhận rõ ràng. Như diễn kịch câm, giữa mớ âm thanh hỗn loạn. Nhưng dù vậy một hàng ngắn người chợt đứng dậy, lặng lẽ tiến ra cửa. Chừng hai chục tay lính bỏ về chỉ trong hai phút đầu khi tôi vào phòng. Quân cảnh luôn tỏa ra cái uy đấy. Thảo nào gã hộ pháp kia không muốn tôi vào đây.

Một nữ phục vụ tiến tới chỗ tôi. Cô ta mặc chiếc áo thun màu đen với cổ áo khoét xuống tận chục phân cùng chiếc quần đen cắt ngắn cũn chỉ chừa lại chục phân và đi đôi giày đen có gót cao nghêu. Chỉ vậy thôi. Cô ta cứ đứng yên vậy chờ đến khi tôi gọi đồ uống. Tôi gọi một chai bia Bud, và trả một khoản cao gấp tám lần giá trị thực của nó. Tôi nhấm nháp mấy hơi, rồi đi một vòng tìm gái bán hoa.

Nhưng họ tìm ra tôi trước. Tôi đoán họ muốn tôi đi mau cho khuất mắt trước khi tôi khiến cả quán phải bỏ về. Trước khi tôi giảm lượng khách của họ xuống còn con số không. Hai cô tiến thẳng tới tôi. Một cô tóc bạch kim. Cô kia tóc nâu. Cả hai đều mặc thứ váy ôm sát người lấp lánh đủ loại sợi tổng hợp. Cô tóc bạch kim nhanh chân tới trước cô tóc nâu và đẩy cô nàng kia ra chỗ khác. Cô ta õng ẹo tiến tới, hơi non bước với đôi giày cao gót bằng nhựa trong kỳ dị. Cô tóc nâu xoay qua tay trung sĩ ở Lực lượng Đặc nhiệm tôi vừa nói chuyện ban nãy. Anh ta phẩy tay đuổi cô ta đi với vẻ khó chịu thật sự. Cô tóc bạch kim vẫn tiếp tục tiến tới bên cạnh rồi ngả vào tay tôi. Cô ta rướn người lên sát tới mức tôi nghe được hơi thở phả vào tai mình.

“Chúc anh cán bộ năm mới vui vẻ,” cô ta nói.

“Em cũng vậy,” tôi đáp.

“Em chưa thấy anh đến đây lần nào,” cô ta nói tiếp, giọng điệu như thể tôi là mảnh ghép duy nhất còn thiếu trong cuộc đời này vậy. Giọng của cô ta cũng không có chất địa phương. Không phải dân Bắc lẫn Nam Carolina. Cũng không phải California. Chắc gốc Georgia hay Alabama gì đó.

“Anh cán bộ mới chuyển đến đây à?” cô ta hỏi, khá to, bởi tiếng nhạc xập xình.

Tôi mỉm cười. Tôi đã từng đến không biết bao nhiêu nhà thổ rồi. Viên Quân cảnh nào chả vậy. Nơi nào cũng giống nhau, nhưng nơi nào cũng khác nhau. Mỗi nơi một quy cách. Nhưng câu Anh mới chuyển đến đây à? là cách mở bài tiêu chuẩn ở mọi nơi. Nó mời tôi bắt đầu cuộc thương lượng. Nó giúp cô ta chài khách một cách đỡ thô thiển.

“Ở đây giá cả ra làm sao em?” tôi hỏi cô ta.

Cô ta cười e lệ, như thể chưa ai từng hỏi mình câu ấy bao giờ. Rồi cô ta bảo tôi có thể ngắm cô ta múa trên sân khấu với một đô tiền quà, hoặc mười đô để có một show riêng trong phòng phía sau. Cô ta bảo nếu là show riêng thì tôi được quyền động chạm, và như để đảm bảo tôi vẫn tập trung lắng nghe, cô ta vuốt nhẹ mé trong đùi tôi.

Tôi có thể thấy khó có gã trai nào kềm lòng nổi. Cô ta khá xinh xắn. Trông mới chừng hai mươi cái xuân xanh. Ngoại trừ đôi mắt. Đôi mắt trông giống hệt của một người đã năm chục tuổi rồi.

“Nếu anh muốn hơn thế nữa thì sao?” tôi hỏi. “Có nơi nào mình đi cùng nhau được không em?”

“Mình vào phòng riêng rồi cùng bàn anh nhé.”

Cô ta nắm lấy tay tôi rồi dẫn tôi băng ngang phòng thay đồ, bước qua một tấm màn nhung vào một căn phòng mờ tối sau lưng sân khấu. Phòng không hề nhỏ. Cũng phải ba mươi nhân hai mươi feet. Sát các vách tường đặt những băng ghế không tay vịn. Cũng chẳng riêng gì cho cam. Trong đó đã có sáu gã trai ngồi sẵn, mỗi người ôm một cô gái trần truồng trên đùi. Cô tóc bạch kim dẫn tôi tới một băng ghế và đặt tôi ngồi đó. Cô ta đợi đến khi tôi rút ví nôn ra tờ mười đô. Rồi cô ta chồm người lên tôi và ôm dính chặt. Cách ngồi khiến tôi khó mà không đặt tay lên đùi cô ta. Da cô ta ấm và mịn.

“Rồi ta đi đâu tiếp được hả em?” tôi hỏi.

“Sao anh vội thế,” cô ta đáp. Cô ta cựa người rồi vén chân váy lên quá đùi mình. Bên trong không mặc thêm gì hết.

“Em quê ở đâu?” tôi hỏi.

“Atlanta ạ,” cô ta đáp.

“Em tên gì?”

“Sin ạ,” cô ta nói. “Đánh vần là S, i, n.”

Tôi khá chắc đó chỉ là tên nghề mà thôi.

“Thế còn tên anh?” cô ta hỏi.

“Anh tên Reacher,” tôi đáp. Bịa ra tên giả có ích gì. Tôi mới về từ chỗ bà góa, trên người vẫn bộ quân phục nghi lễ, bảng tên to đùng nằm lồ lộ trên túi áo phải.

“Tên anh dễ thương đấy,” cô ta nói, một cách máy móc. Tôi cam đoan với ai cô ta cũng buông câu đó. Dù có là Quasimodo, Hitler, Stalin, Pol Pot chăng nữa cũng là tên anh dễ thương đấy. Cô ta di chuyển tay. Bắt đầu cởi nút áo khoác trên cùng của tôi xuống tới nút cuối. Ngón tay cô ta trườn vào trong ngực tôi, dưới cà vạt, trên áo sơ mi.

“Bên kia đường có quán trọ kìa,” tôi nói.

Cô ta gật đầu trên vai tôi.

“Em biết mà,” cô ta đáp.

“Anh cần tìm cô nào đã qua đêm với một quân nhân tại quán trọ đó vào hôm qua.”

“Anh đùa à?”

“Không em.”

Cô ta đẩy tôi ra. “Anh vào đây để chơi, hay hỏi?”

“Hỏi,” tôi đáp.

Cô ta ngồi yên. Không nói gì.

“Anh cần tìm cô nào đã qua đêm với một quân nhân tại quán trọ đó vào hôm qua.”

“Tỉnh táo chút đi anh,” cô ta đáp. “Bọn em ai chả qua đêm với quân nhân tại quán trọ kia. Đi đến mòn cả vỉa hè cơ. Anh nhìn kỹ, khắc thấy cái vết ấy.”

“Anh muốn tìm cô nào về sớm hơn thông thường, chẳng hạn vậy.”

Cô ta im lặng.

“Có thể cô ấy hơi hoảng loạn.”

Cô ta im lặng.

“Có thể cô ấy gặp người khách đó ở đây,” tôi nói tiếp.

“Có thể cô ấy nhận một cuộc gọi từ sớm chẳng hạn.”

Cô ta nhấc mông lên khỏi đùi tôi và kéo váy xuống hết cỡ, tuy cũng không che được bao nhiêu. Rồi cô ta mân mê phù hiệu trên ve áo của tôi.

“Bọn em không trả lời câu hỏi đâu,” cô ta nói.

“Vì sao không?”

Tôi nhác thấy cô ta liếc về tấm màn nhung. Như thể đang nhìn thấu nó, xuyên qua cả căn phòng lớn tới quầy thu ngân ngay cửa.

“Gã hộ pháp à?” tôi hỏi. “Anh sẽ đảm bảo nó không gây sự với em.”

“Hắn không thích bọn em trò chuyện với cớm.”

“Việc này quan trọng,” tôi nói. “Cô gái kia đã qua đêm với một quân nhân cấp cao đấy.”

“Các anh có ai nghĩ mình tầm thường đâu.”

“Ở đây có cô nào đến từ California không?”

“Có năm hay sáu người gì đó.”

“Có ai trong số đó từng làm việc tại trại Irwin không?”

“Em không biết.”

“Bây giờ thế này,” tôi nói. “Anh sẽ trở lại quầy bar. Anh sẽ gọi thêm chai bia nữa. Anh sẽ dành mười phút nhâm nhi nó. Em dắt cái cô có vấn đề tối qua ấy đến cho anh. Hoặc em chỉ anh đi đâu để tìm cô ấy. Em nhắn cô ấy rằng không có việc gì nghiêm trọng đâu. Sẽ không có ai gặp rắc rối nào hết. Anh chắc cô ấy sẽ hiểu thôi.”

“Nếu không thì sao?”

“Nếu không anh sẽ đuổi hết khách ra khỏi đây và đốt cái quán này ra tro. Rồi mấy em đi mà tìm việc nơi khác.”

Cô ta liếc về tấm màn nhung lần nữa.

“Em khỏi lo thằng hộ pháp kia,” tôi nói. “Nó dám hó hé câu nào, anh cho mũi nó gãy lần nữa.”

Cô ta chỉ ngồi yên. Không nhúc nhích một li.

“Việc này quan trọng,” tôi nhắc lại. “Ta lo sớm thì không ai bị gì. Còn không, sẽ có người gặp rắc rối lớn đấy.”

“Em không biết,” cô ta nói.

“Đi bảo mọi người đi,” tôi bảo. “Em có mười phút đấy.”

Tôi hẩy cô ta khỏi đùi mình và nhìn cô ta biến mất qua tấm màn. Tôi bước ra theo sau một phút đợi và chen người tới quầy bar. Tôi để phanh áo khoác. Tôi muốn mình trông như đang nghỉ. Tôi đâu muốn phá cuộc vui của ai.

Tôi dành mười hai phút nhấm nháp một chai bia nội địa đắt quá mức thực tế khác. Tôi nhìn những nữ phục vụ và gái bán hoa tất tả trong quán. Tôi thấy tay hộ pháp mặt sẹo len qua đám đông, nhìn đây, nhìn đó, kiểm tra này kia. Tôi vẫn đợi. Cô bạn gái tóc bạch kim mới quen vẫn chưa quay lại. Tôi không thấy cô ta đâu cả. Nhạc vẫn xập xình. Ánh đèn nhập nhoạng khiến không gian hỗn loạn. Quạt và máy lạnh chạy hết công suất nhưng không khí vẫn nóng bức và hôi hám. Tôi trở mệt và bắt đầu đau đầu. Tôi trườn khỏi ghế rồi đảo một vòng. Không tìm thấy cô nàng tóc bạch kim đâu cả. Tôi đi một vòng nữa. Vẫn không thấy đâu. Tay trung sĩ Đặc nhiệm tôi nói chuyện cùng ban nãy chặn tôi lại khi tôi toan đi thêm vòng thứ ba.

“Anh tìm bạn gái hả?” anh ta hỏi.

Tôi gật đầu. Anh ta chỉ tay về phía cửa phòng thay đồ.

“Hình như anh vừa gây rắc rối cho cô nàng đấy,” anh ta nói.

“Rắc rối thế nào?”

Anh ta không nói gì. Chỉ giơ lòng bàn tay trái của mình lên rồi nắm tay phải lại thụi vào đó.

“Vậy mà anh cũng để yên sao?”

Anh ta nhún vai.

“Anh mới là Quân cảnh,” anh ta đáp. “Đâu phải tôi.”

Cửa phòng thay đồ làm bằng thứ gỗ ép thường sơn tuyền màu đen. Tôi không bận gõ cửa. Tôi cho rằng cánh đàn bà trong phòng này không phải dạng e lệ gì. Tôi mở tung cửa bước vào. Bên trong thắp đèn điện thông thường, với đống quần áo trên sàn và mùi nước hoa nồng nặc. Bàn trang điểm được gắn gương lớn như ở sân khấu. Có một băng ghế sofa đã cũ, bọc nhung đỏ. Cô gái tóc bạch kim tên Sin đang ngồi trên ấy, bưng mặt khóc. Trên má trái cô hiện lên rõ đường viền màu đỏ của một bàn tay. Mắt phải cô sưng húp. Tôi đoán hẳn là hai cú tát liên tiếp, bằng lòng bàn tay trước, rồi bồi thêm một cú mu bàn tay. Hai đòn rất mạnh. Cô ta run lẩy bẩy. Chân trái rơi mất chiếc giày. Tôi thấy vết kim tiêm giữa các ngón chân. Các con nghiện kiếm sống nhờ thân xác thường chọn chỗ đó để chích. Bởi nó kín đáo. Người mẫu, gái bán hoa, diễn viên đều vậy.

Tôi không hỏi cô ta có ổn không. Bởi hỏi thế là thừa. Cô ta không bị nguy đến tính mạng, nhưng chắc phải nghỉ làm cả tuần. Phải đến khi cái mắt sưng húp kia chuyển thâm tím rồi ngả vàng vừa đủ để lớp trang điểm có thể che đi. Tôi cứ đứng đấy cho đến khi cô ta thấy tôi, bằng con mắt nguyên vẹn bên kia.

“Cút ngay,” cô ta lên tiếng.

Cô quay đi nơi khác.

“Đồ khốn,” cô nói tiếp.

“Cô tìm thấy cô gái kia chưa?” tôi hỏi.

Cô ta nhìn thẳng vào tôi.

“Làm gì có cô gái nào như vậy,” cô ta đáp. “Tôi đi hỏi khắp nơi. Tôi hỏi tất cả mọi người. Và tôi chỉ nghe được vậy. Không có ai gặp vấn đề gì tối qua. Không hề.”

Tôi khựng lại. “Có ai đáng lẽ phải đi làm nhưng vắng không?”

“Ai cũng đi làm. Không thì tiền đâu mà trả nợ đợt Giáng sinh.”

Tôi không nói gì.

“Anh làm tôi tự nhiên bị ăn đòn,” cô ta nói tiếp.

“Tôi xin lỗi,” tôi bảo. “Vì đã khiến cô gặp rắc rối.”

“Cút ra,” cô ta nhắc lại, không buồn nhìn tôi.

“OK,” tôi đáp.

“Đồ khốn,” cô ta nói.

Tôi để cô ta ngồi đó rồi len lỏi qua đám đông quanh sân khấu. Qua đám đông quanh quầy bar. Qua hành lang hẹp, ra đến cửa. Gã hộ pháp mặt sẹo vẫn ở yên trong bóng tối, phía sau quầy thu ngân. Tôi đoán vị trí đầu hắn trong tối rồi vung tay tát ngay tai hắn, đủ mạnh để hắn phải nghiêng ngả.

“Mày,” tôi nói. “Ra đây.”

Tôi không buồn đợi hắn. Cứ thế sấn bước ra màn đêm. Ngoài bãi xe đã đầy người. Toàn quân nhân. Đám vừa nhác thấy tôi đã chuồn đi ban nãy. Họ đứng ngoài trời lạnh, dựa vào xe, uống bia trong mấy cái chai cổ dài đem từ trong quán ra. Tôi không lo bọn họ. Phải say nát nước rồi mới dám nghĩ đến chuyện gây sự với một sĩ quan Quân cảnh. Nhưng họ cũng sẽ chẳng hỗ trợ cho tôi. Vì tôi không thuộc đám bọn họ. Tôi đơn thương độc mã.

Cánh cửa mở tung sau lưng tôi. Gã hộ pháp lừng lững bước ra. Sau lưng là hai gã dân địa phương. Nom cả hai như nông dân. Bọn tôi bước vào luồng ánh sáng vàng rọi xuống từ một cột đèn. Hai bên đối mặt nhau. Hơi thở phả ra thành khói. Không ai nói lời nào. Khỏi cần rào trước đón sau làm chi. Tôi đoán bãi xe này đã từng là võ đài của nhiều cuộc ẩu đả. Tôi đoán trận này sẽ không khác những trận trước. Nó sẽ kết thúc y hệt, với một người thắng và một kẻ thua.

Tôi cởi áo khoác và treo nó lên gương của một chiếc xe gần nhất. Một chiếc Plymouth mười năm tuổi, sơn còn đẹp, khung còn mới. Chắc là của một tay biết chơi xe. Tôi nhác thấy tay trung sĩ Đặc nhiệm ban nãy cũng bước ra bãi. Anh ta nhìn tôi vài giây rồi lui vào bóng tối đứng cùng với đồng đội bên mấy chiếc xe. Tôi tháo đồng hồ ra và cất vào túi áo khoác. Rồi tôi quay lại. Quan sát đối thủ của mình. Tôi muốn nện hắn một trận ra trò. Tôi muốn Sin biết tôi đã chiến đấu vì cô ta. Nhưng tôi chẳng thể làm gì gương mặt hắn. Bởi nó vốn đã nát bét rồi. Tôi không thể khiến nó tởm hơn được nữa. Và tôi muốn cho hắn khỏi làm ăn gì nữa một thời gian. Tôi không muốn thấy hắn quay lại mà giận cá chém thớt lên các cô gái, chỉ vì không làm gì được tôi.

Hắn thừa cân và ngực thì như cái thùng phuy, nên tôi nghĩ mình sẽ chẳng cần động tay nhiều. Trừ phi hai gã nông dân kia nhảy vào tiếp ứng. Tôi mong sẽ không như vậy. Không cần phải xé to chuyện này. Nhưng dù sao, đó cũng là quyết định của bọn họ. Ai cũng có quyền lựa chọn trong đời. Họ có thể chọn cách lùi lại không can thiệp, hoặc họ có thể tham gia.

Tôi cao hơn gã mặt sẹo chừng hai mươi phân, nhưng lại nhẹ hơn tới ba chục cân. Và chắc trẻ hơn mười tuổi. Tôi trông hắn tính toán. Trông hắn kết luận bản thân sẽ chiến đấu ngon lành. Tôi đoán hắn nghĩ mình là một tay đầu gấu dữ dằn. Và nghĩ tôi chỉ là một tấm bìa gắn mác quân đội mà thôi. Có lẽ bộ quân phục nghi lễ tôi mặc khiến hắn tưởng tôi sẽ hành xử như một sĩ quan và quý ông đúng nghĩa. Lịch thiệp, và kiềm chế.

Hắn nhầm to.

Hắn lao đến tôi, tay vung nắm đấm. Ngực to, tay ngắn, tầm với không xa. Tôi né cú đấm và để hắn chúi người một chút. Hắn vòng trở lại. Tôi gạt tay hắn ra và thoi cùi chỏ vào mặt hắn. Nhẹ thôi. Tôi muốn ngắt đà lao đến của hắn và để hắn dừng lại trước mặt mình, dù chỉ một chốc.

Hắn dồn hết trọng lượng vào chân sau và định tung một cú nhắm thẳng vào mặt tôi. Một đòn mạnh hết sức. Sẽ vô cùng đau nếu tôi lãnh cú đó. Nhưng trước khi hắn kịp vung tay tôi đã sấn tới và giơ gót chân phải lên đạp xuống xương bánh chè phải của hắn. Đầu gối là một khớp yếu. Cứ hỏi bất cứ vận động viên nào thì biết. Đầu gối gã hộ pháp này đã phải cõng cái thân gần một tạ tư nặng nề của hắn và giờ phải hứng thêm một đòn tương đương một tạ nữa. Xương bánh chè của hắn nát vụn ngay tức khắc rồi gập hẳn về sau. Hệt như khớp gối bình thường, nhưng ngược lại. Hắn ngã chúi ra trước và mũi giày hắn bốc lên chạm vào đùi trên. Hắn thét lên, thất thanh. Tôi lùi lại và mỉm cười. Sút, và vào.

Tôi tiến tới lần nữa và nhìn đầu gối hắn, thật kỹ lưỡng. Trông thê thảm lắm, nhưng thế mới tốt. Xương gãy, dây chằng đứt tung, sụn vỡ vụn. Tôi định bồi thêm một cước, nhưng thực sự là không cần nữa. Hắn chắc chắn sẽ phải mua nạng thôi, sau khi được ra khỏi khu chấn thương chỉnh hình. Hắn rồi sẽ phải chọn một cây nạng chất lượng tốt để theo mình cả đời. Bằng gỗ hay bằng nhôm, ngắn dài ra sao, tha hồ chọn.

“Tao sẽ trở lại bẻ nốt chân kia,” tôi lên tiếng. “Nếu mày còn làm chuyện gì tao ngứa mắt.”

Tôi không nghĩ hắn nghe thấy tôi nói gì. Hắn đang lăn lộn vật vã trên một lớp dầu loang dưới đất, vừa thở hộn hển vừa rên rỉ, cố xoay chân sao để bớt đau đớn. Làm gì còn cách nào. Chấn thương kiểu này chỉ có chờ phẫu thuật.

Hai gã nông dân kia vẫn còn mải lựa chọn. Trông chúng khá đần. Nhưng có một gã còn đần hơn gã kia. Chậm chạp hơn nữa. Gã đang duỗi cặp tay lớn đỏ ửng của mình. Tôi tiến tới và húc đầu thật mạnh vào mặt gã, để giúp gã biết đường lựa chọn cho nhanh. Gã ngã xuống, nằm ngược với tên hộ pháp kia, và gã còn lại nhanh chân tháo chạy ra sau chiếc xe hàng gần đó. Tôi với tay lấy áo khoác vắt trên gương chiếc Plymouth rồi mặc vào người. Lấy đồng hồ ra khỏi túi. Đeo vào tay. Đám quân nhân đằng xa nhấp bia và nhìn tôi chằm chằm, gương mặt không lộ thái độ nào. Chẳng hài lòng cũng chẳng thất vọng. Họ không mong chờ gì ở kết quả trận đấu. Dù người đo ván là tôi hay gã hộ pháp kia thì với họ đều như nhau cả.

Tôi thấy trung úy Summer đứng ngoài rìa đám đông. Tôi len giữa hàng xe và đám người tới chỗ cô. Trông cô căng thẳng lắm. Cô thở nặng nhọc. Tôi đoán cô cũng đã xem trận đấu. Tôi đoán cô đã chuẩn bị nhảy vào ứng cứu cho tôi.

“Chuyện gì vậy sếp?” cô hỏi.

“Thằng mập kia đánh một cô gái giúp tôi hỏi han vài thứ. Còn thằng bạn hắn chạy không kịp.”

Cô nhìn chúng rồi nhìn trở lại tôi. “Cô gái kia nói sao?”

“Nói rằng chẳng có ai gặp vấn đề gì tối qua cả.”

“Thằng nhóc tiếp tân ở quán trọ chối biến rằng không có gái bán hoa nào đi cùng Kramer. Nó quả quyết lắm.”

Tôi còn nghe giọng Sin vang lên: Anh làm tôi tự nhiên bị ăn đòn. Đồ khốn.

“Vậy sao nó vào kiểm tra phòng gã Kramer?”

Summer nhăn mặt. “Tôi cũng hỏi vậy, đương nhiên rồi sếp.”

“Rồi nó có trả lời không?”

“Ban đầu thì không. Nhưng sau mới nói rằng vì nó nghe thấy tiếng xe nổ máy vội vàng bỏ đi.”

“Xe nào cơ?”

“Nó nói là một xe động cơ lớn, rồ ga, phóng đi, như thể trong tình huống hoảng loạn lắm.”

“Nó có thấy cái xe đó không?”

Summer chỉ lắc đầu.

“Chẳng có lý nào,” tôi nói. “Có xe cho thấy là có gái bao, mà tôi không tin ở đây có nhiều gái bao đâu. Mà việc gì gã Kramer phải cần đến gái bao, trong khi ở quán này có biết bao nhiêu là gái điếm?”

Summer vẫn lắc đầu. “Thằng nhóc nói chiếc xe ấy có tiếng động cơ đặc trưng lắm. Tiếng rất to. Và chạy dầu diesel, chứ không phải xăng. Nó nói một lúc sau đó lại nghe đúng cái tiếng ấy.”

“Bao giờ?”

“Khi sếp lái chiếc Humvee đi.”

“Sao?”

Summer nhìn thẳng vào tôi. “Nó nói nó vào kiểm tra phòng Kramer vì nghe thấy tiếng một chiếc xe của quân đội hoảng hốt tháo chạy ra khỏi bãi.”