BỐN
Bọn tôi băng qua đường tới quán trọ và yêu cầu thằng nhóc tiếp tân kể lại câu chuyện. Dù mặt mũi sưng sỉa suốt và không phải dạng ưa nói nhiều, nhưng cậu ta là một nhân chứng tốt. Những người bàng quan thường vậy. Họ không cố gắng làm vừa lòng ta. Họ cũng chẳng cố gây ấn tượng với ta. Họ không thêm mắm dặm muối sự việc, để biến nó thành một câu chuyện mà anh muốn nghe.
Cậu ta kể rằng lúc đó đang ngồi trong văn phòng, một mình, chả làm gì hết, rồi vào khoảng mười một giờ hai mươi lăm phút khuya thì chợt nghe tiếng cửa xe đóng sập và tiếng động cơ diesel tăng áp cỡ lớn gầm lên sau đó. Cậu ta tả thứ âm thanh đó phải là tiếng sang số lùi và hộp truyền động bốn bánh bán thời gian gài cầu. Rồi tiếng bánh xe rít lên và tiếng động cơ với tiếng sỏi tung tóe, cuối cùng là thứ gì đó to lớn và nặng nề phóng đi vội vã. Đến đó cậu ta tụt xuống ghế rồi ra ngoài kiểm tra. Nhưng không kịp thấy chiếc xe.
“Vậy sao cậu lại kiểm tra phòng người ta?” tôi hỏi.
Cậu ta nhún vai. “Tôi tưởng phòng cháy.”
“Cháy á?”
“Có mấy người thích làm vậy đó, ở những nơi như vầy. Tự dưng đốt phòng. Rồi chạy biến đi. Cho vui thôi. Hay vì sao đó. Tôi chịu. Dù gì cũng ít gặp.”
“Sao cậu biết phòng nào mà kiểm tra?”
Lúc đó cậu ta im bặt. Summer gặng hỏi. Rồi đến lượt tôi.
Cả hai cùng diễn trò cớm hiền, cớm dữ. Cuối cùng cậu ta mới thú nhận vì chỉ có một phòng kia được thuê qua đêm mà thôi. Những phòng khác thuê theo giờ, và khách trọ tới bằng cách đi bộ từ bên kia đường qua, chứ không đi xe. Cậu ta nói vì vậy mới dám chắc rằng phòng gã Kramer không có gái bán hoa. Nhiệm vụ của cậu ta là nhận và trả phòng. Lấy tiền và giao chìa khóa. Để ý khách đến khách đi. Nên cậu ta biết rõ ai ở phòng nào. Đó là một phần công việc. Và cậu ta lẽ ra phải giữ kín miệng chuyện ấy.
“Giờ chắc tôi mất việc quá,” cậu ta nói.
Cậu ta lo tới mức rơm rớm nước mắt khiến Summer phải dỗ dành. Rồi cậu ta kể mình phát hiện xác gã Kramer nên điện báo cảnh sát và ngay lập tức đuổi hết những người thuê theo giờ để chắc ăn. Rồi mười lăm phút sau phó đội trưởng Stockton tới hiện trường. Rồi đến lượt tôi, và sau khi tôi rời đi thì thằng nhóc nhận ra tiếng xe giống âm thanh đã nghe trước đó. Vẫn tiếng động cơ đó, vẫn tiếng hệ thống truyền lực đó, vẫn tiếng rít bánh xe đó. Cậu ta khá thuyết phục. Vì đã thú nhận rằng quán trọ này vẫn thường xuyên chứa gái bán hoa, nên cậu ta đâu còn lý do nào để nói dối nữa. Và xe Humvee mới được đưa vào sử dụng cách đây không lâu. vẫn còn khá hiếm. Nên tiếng động cơ của nó rất đặc trưng. Nên tôi tin cậu ta. Chúng tôi để cậu ta ngồi lại trên ghế rồi bước ra ánh đèn đỏ lạnh lẽo của máy bán nước ngọt tự động.
“Không phải gái bán hoa,” Summer lên tiếng. “Mà là một phụ nữ từ doanh trại.”
“Một nữ sĩ quan,” tôi đáp. “Có lẽ cấp cao. Một người có quyền sử dụng xe Humvee cá nhân. Không ai lấy xe từ bãi ra để đi hẹn hò kiểu đó. Và cô ta đang cầm chiếc cặp của gã. Chắc chắn là vậy.”
“Thế thì dễ tìm thôi. Kiểu gì cô ta chả để lại chữ ký trong danh sách ra vào ở cổng, giờ vào, giờ ra.”
“Có khi tôi còn đi ngang cô ta trên đường mà không biết.
Nếu cô ta rời quán trọ lúc mười một giờ hai mươi lăm phút thì không thể về đến trại Bird trước mười hai giờ mười lăm. Tôi thì rời đi vào khoảng đó.”
“Nếu cô ta chạy thẳng về trại.”
“Phải,” tôi đáp. “Nếu.”
“Sếp có thấy chiếc Humvee nào khác trên đường không?” “Hình như là không,” tôi nói.
“Sếp nghĩ cô ta là ai?”
Tôi nhún vai. “Như cô ả bán hoa không tồn tại kia thôi. Một người mà gã đã gặp ở đâu đó. Ở trại Irwin, chắc vậy, nhưng cũng có thể là ở bất cứ nơi nào khác.”
Tôi nhìn trạm xăng bên kia đường. Trông xe cộ qua lại trên đường.
“Hai người Vassell và Coomer có thể biết cô ta,” Summer nói. “Sếp thấy đấy, nếu đúng là Kramer và cô ta đã qua lại từ lâu.”
“Phải, có thể họ biết.”
“Sếp nghĩ họ đang ở đâu?”
“Tôi không biết,” tôi nói. “Nhưng nếu cần thì tôi tin mình sẽ tìm ra họ thôi.”
Tôi không tìm ra bọn họ. Mà bọn họ tìm ra tôi. Họ đã chờ sẵn tại văn phòng khi chúng tôi trở về trại. Summer thả tôi xuống cửa chính rồi vòng ra bãi cất xe. Tôi bước qua chiếc bàn ở phòng ngoài. Cô trung sĩ trực đêm đã có mặt. Người sơn nữ có thằng con trai và nỗi lo thu nhập. Cô ra hiệu vào phòng trong ý nói có người đang đợi. Một người nào đó cấp cao hơn cả hai chúng tôi.
“Còn cà phê không?” tôi hỏi.
“Máy pha còn bật đó sếp,” cô đáp.
Tôi rót một ít cà phê cầm theo vào trong. Áo khoác của tôi vẫn mở phanh. Tóc tai bù xù. Nhìn y như một kẻ vừa ẩu đả trong bãi xe. Tôi bước thẳng tới bàn làm việc. Đặt ly cà phê xuống. Trong phòng có hai người đang ngồi thẳng lưng trên ghế khách đặt sát tường, đối mặt với tôi. Cả hai đều mặc đồ dã chiến rừng cây. Một người đính sao của chuẩn tướng trên cổ áo còn người kia có con đại bàng của đại tá. Ông tướng đeo bảng tên ghi Vassell còn ông tá ghi Coomer. Vassell hói đầu còn Coomer đeo kính, và cả hai ông vừa khệnh khạng vừa già vừa lùn vừa nhão vừa hồng hào đủ để khiến họ trông khá lố bịch trong bộ đồ dã chiến. Nhìn họ giống như hai hội viên tổ chức từ thiện Rotary đang trên đường đi dự một buổi tiệc trang trọng hơn. Ấn tượng đầu tiên là tôi không ưa họ lắm.
Tôi ngồi xuống ghế và thấy hai mẩu giấy nhét ngay giữa xấp giấy nhớ. Tờ đầu tiên ghi: Anh anh lại gọi. Gấp. Lần này có thêm một dòng số điện thoại đi kèm nữa. Mã vùng 202. Thủ đô Washington.
“Cậu không biết chào cấp trên à?” Vassell lên tiếng, từ chỗ ngồi.
Mẩu giấy thứ hai ghi: Đt Garber gọi. Sở ds Green Valley nhắm bà K chết tầm 2h. Tôi gấp hai mẩu giấy riêng ra rồi nhét chúng cạnh nhau dưới điện thoại bàn. Tôi xoay chúng sao để mình nhìn thấy mỗi tờ đúng một nửa. Vừa ngẩng lên thì chạm mắt Vassell đang lườm. Cái trán hói của ông ta đang chuyển đỏ.
“Xin lỗi,” tôi nói. “Ông vừa hỏi gì tôi vậy?”
“Cậu vào phòng mà không biết chào cấp trên à?”
“Sẽ chào nếu họ trực tiếp chỉ huy tôi,” tôi đáp. “Còn ông thì không.”
“Tôi không hài lòng với câu trả lời vừa rồi,” ông ta bảo.
“Mời ông kiểm tra,” tôi nói. “Tôi thuộc Đội Đặc nhiệm 110. Hai ta không liên quan. Theo cấu trúc thì bên tôi độc lập với phần còn lại của quân đội. Phải vậy thôi, ông nghĩ mà xem. Làm sao kiểm sát mấy ông được nếu chúng tôi dưới quyền mấy ông.”
“Tôi không đến đây để cậu kiểm sát đâu, nhóc con,” Vassell nói.
“Vậy ông tới làm gì? Chẳng lẽ tạt qua tán gẫu vào giờ này?”
“Tôi đến để hỏi dăm ba câu.”
“Mời ông hỏi luôn cho,” tôi bảo. “Sau đó đến lượt tôi hỏi. Và ông biết điểm khác nhau là gì không?”
Ông ta im lặng.
“Tôi sẽ trả lời vì lịch sự,” tôi nói tiếp. “Còn ông sẽ trả lời vì Bộ luật Thống nhất của Tư pháp Quân đội bắt buộc ông.”
Vassell không nói gì thêm. Chỉ lườm tôi. Rồi ông ta quay sang nhìn Coomer. Coomer nhìn lại ông ta, rồi quay sang tôi.
“Bọn tôi đến đây vì thiếu tướng Kramer,” ông ta nói.
“Bọn tôi là sĩ quan cấp cao dưới quyền ông ấy.”
“Tôi biết hai vị là ai mà,” tôi đáp.
“Nhờ anh cho bọn tôi biết thông tin về thiếu tướng.”
“Ông ta chết rồi,” tôi nói.
“Bọn tôi cũng biết điều đó. Bọn tôi muốn biết cụ thể sự việc ra sao.”
“Ông ta bị trụy tim thôi.”
“Ở đâu?”
“Trong lồng ngực chứ đâu.”
Lão Vassell trừng mắt.
“Ý tôi là ông ấy chết ở đâu?” Coomer nói.
“Cái đó tôi không tiết lộ được,” tôi đáp. “Vì nó liên quan tới vụ việc đang được điều tra.”
“Điều tra kiểu gì?” Vassell lên tiếng.
“Kiểu không tiết lộ được.”
“Ông ấy chết ở gần đây,” ông ta nói tiếp. “Điều đấy ai cũng biết rồi.”
“Rồi, tới lượt mấy ông,” tôi nói. “Mấy ông hội họp gì ở trại Irwin vậy?”
“Sao cơ?”
“Hội nghị ở trại Irwin,” tôi nói lại. “Nơi mấy ông đang trên đường đến ấy.”
“Hội nghị ấy thì làm sao?”
“Tôi cần biết chương trình của hội nghị đấy.”
Vassell nhìn Coomer, rồi Coomer há miệng toan nói điều gì đó thì điện thoại bàn của tôi đổ chuông. Cô trung sĩ bàn ngoài gọi. Summer đang ở ngoài. Cô không biết có nên để Summer vào không. Tôi bảo cô cứ cho vào. Sau một tiếng gõ cửa thì Summer vào phòng. Tôi giới thiệu cô với mọi người rồi cô kéo một chiếc ghế lại và ngồi xuống, bên cạnh tôi, đối mặt hai người kia. Hai chọi hai. Tôi rút mẩu giấy ban nãy dưới chiếc điện thoại bàn đưa cho cô: Đt Garber gọi. Sở ds Green Valley nhắm bà K chết tầm 2h. Cô mở ra đọc rồi gấp lại trả tôi. Tôi đặt nó trở lại dưới điện thoại bàn. Rồi tôi hỏi Vassell và Coomer về chương trình tại hội nghị ở trại Irwin lần nữa, và để ý thấy thái độ hai người thay đổi. Họ vẫn không có ích hơn trước là bao. Và cái này giống một thay đổi nhỏ hơn là cải thiện. Nhưng giờ nhờ có thêm một người phụ nữ trong phòng mà hai người đó đã giảm bớt giọng điệu gây gổ ban nãy và thay vào đó là vẻ lịch sự kẻ cả. Tôi biết hai người họ sinh ra và lớn lên trong bối cảnh và thời đại đặc trưng ấy. Họ ghét Quân cảnh và tôi khá chắc họ còn ghét cả sĩ quan nữ nữa, nhưng bất thình lình họ cảm thấy phải tỏ ra lịch sự.
“Hội nghị lần này bình thường thôi,” Coomer trả lời. “Đến hẹn lại gặp nhau một lần ấy mà. Chẳng có gì quan trọng cả.”
“Nên hai ông mới không đi chứ gì,” tôi hỏi.
“Đương nhiên, ở lại đây vẫn phải đạo hơn. Nhất là trong hoàn cảnh này, anh thấy đấy.”
“Làm sao hai ông biết về chuyện của tướng Kramer?”
“Quân đoàn XII điện báo chúng tôi.”
“Gọi từ Đức sao?”
“Còn Quân đoàn XII ở đâu nữa hả nhóc con,” Vassell nói.
“Đêm qua hai ông trọ lại nơi nào?”
“Ở một khách sạn,” Coomer đáp.
“Khách sạn tên gì?”
“Khách sạn Jefferson. Ở Thủ đô.”
“Các ông tự đặt phòng hay nhờ Bộ Quốc phòng?”
“Khách sạn đó dành cho sĩ quan cấp cao mà.”
“Thế sao tướng Kramer không trọ lại ở đó?”
“Vì ông ấy có những thu xếp khác.”
“Từ khi nào?”
“Từ khi nào cái gì?” Coomer hỏi.
“Ông ta lo những thu xếp khác đó từ khi nào?”
“Vài ngày trước.”
“Chứ không phải do ông ta đột nhiên nổi hứng phải không?”
“Không, không phải.”
“Các ông có biết những thu xếp đó là gì không?”
“Đương nhiên là không,” Vassell nói. “Nếu có thì cần gì phải hỏi cậu ông ấy chết ở đâu.”
“Các ông không cho rằng ông ta ghé thăm vợ à?”
“Ông ấy thăm vợ à?”
“Không,” tôi đáp. “Hai ông muốn biết nơi ông ta chết để làm gì?”
Một thoáng im lặng khá dài. Thái độ của bọn họ lại thay đổi. Vẻ kẻ cả tan đi và thay vào đó gần như là thái độ thẳng thắn thoải mái.
“Chúng tôi không thực sự cần biết đâu,” Vassell đáp. Ông ta nghiêng người ra trước và liếc qua Summer như thể ước cô không có trong phòng. Như thể ông ta muốn giữ sự thân mật bất thình lình này cho riêng cánh đàn ông với nhau. “Và chúng tôi cũng không có thông tin cụ thể hay trực tiếp gì, nhưng chúng tôi lo ngại rằng những thu xếp riêng tư của thiếu tướng Kramer có khả năng thành một vụ bê bối, xét tình hình hiện tại.”
“Hai ông có thân với ông ta không?”
“Trong công việc thì đương nhiên rất rõ. Trong đời sống cá nhân thì như quân nhân đối với các anh em thôi. Nghĩa là, cũng không thân lắm.”
“Nhưng hai ông có nghi ngờ đại khái những thu xếp riêng của ông ta là gì phải không?”
“Có,” ông ta đáp. “Chúng tôi có nghi ngờ.”
“Vậy hai ông không ngạc nhiên khi ông ta chọn trọ ở nơi khác?”
“Không,” ông ta nói. “Không ngạc nhiên.”
“Và hai ông cũng không ngạc nhiên khi tôi nói ông ta không ghé thăm vợ?”
“Không hẳn, không.”
“Vậy hai ông đại khái đoán được việc ông ta có thể làm, nhưng không biết địa điểm.”
Vassell gật đầu. “Đại khái.”
“Hai người có biết ông ta có thể đã làm việc đó với ai không?”
Vassell lắc đầu.
“Chúng tôi không có thông tin cụ thê’,” ông ta nói.
“OK,” tôi đáp. “Chẳng sao. Tôi tin là hai ông đã trong quân ngũ đủ lâu để hiểu rằng nếu phát hiện sự việc có khả năng làm xấu mặt thì chúng tôi sẽ che đậy nó.”
Một thoáng im lặng hồi lâu.
“Các anh xóa hết chứng cứ rồi chứ?” Coomer hỏi. “Ở hiện trường ấy?”
Tôi gật đầu. “Chúng tôi thu hồi đồ đạc của ông ta rồi.”
“Tốt.”
“Tôi cần bản chương trình của hội nghị tại trại Irwin,” tôi nói tiếp.
Thêm một thoáng im lặng nữa.
“Làm gì có,” Vassell đáp.
“Chắc chắn phải có,” tôi nói. “Đây là quân đội. Đâu phải Hiệp hội Diễn viên. Ta đâu tự dưng mở lớp dạy ứng biến miễn phí.”
Một thoáng im lặng.
“Không có gì trên giấy tờ cả,” Coomer nói. “Tôi bảo cậu rồi, Thiếu tá ạ, không quan trọng đâu.”
“Hôm nay các ông làm gì?”
“Truy theo tin đồn về tướng Kramer.”
“Các ông từ Thủ đô xuống đây bằng cách nào?”
“Bọn tôi mượn xe và tài xế của Lầu Năm Góc.”
“Hai ông trả phòng khách sạn Jefferson rồi à?”
“Đúng vậy.”
“Vậy đồ đạc hai ông đang cất trên chiếc xe của Lầu Năm Góc phải không?”
“Đúng vậy.”
“Chiếc xe này đang ở đâu?”
“Đang đợi ngoài trụ sở chỉ huy trại của anh đó.”
“Không phải trụ sở chỉ huy trại của tôi,” tôi đáp. “Tôi chỉ công tác tạm thời tại nơi này mà thôi.”
Tôi quay sang bảo Summer đi lấy đồ đạc của họ từ chiếc xe vào đây. Hai người kia nhảy chồm lên phản đối, nhưng họ biết rõ chẳng cách nào ngăn tôi được. Những khái niệm của dân thường về việc khám xét tịch thu vô lý và trát lệnh với lý do chính đáng đều không còn được áp dụng sau cánh cửa doanh trại quân đội. Tôi quan sát ánh mắt của họ khi Summer đi khỏi. Dù có khó chịu, nhưng không ai có vẻ lo lắng gì. Vậy có nghĩa hoặc bọn họ đã nói thật về hội nghị tại trại Irwin hoặc họ đã thủ tiêu các loại giấy tờ liên quan rồi. Nhưng tôi vẫn diễn tới cùng. Summer trở lại với hai chiếc cặp táp giống nhau như đúc. Y hệt chiếc cặp thấy trong mấy tấm ảnh lồng khung bạc của gã Kramer. Đúng là mấy lão dưới quyền nịnh bợ cấp trên bằng đủ mọi cách.
Tôi lục soát hai chiếc cặp ngay trên bàn làm việc. Trong cả hai đều có hộ chiếu, vé máy bay, giấy đi đường, và lịch trình. Nhưng không có giấy tờ nào về trại Irwin.
“Thứ lỗi vì đã làm phiền hai vị,” tôi nói.
“Vừa lòng chưa hả nhóc con?” Vassell hỏi.
“Vợ Kramer cũng chết rồi,” tôi nói tiếp. “Hai ông có biết chuyện này không?”
Tôi quan sát họ thật chăm chú, và thấy rõ rằng họ hoàn toàn không biết. Hai người họ trân trân hết nhìn tôi lại quay sang nhìn nhau, sắc mặt tái dần đi, bàng hoàng.
“Chết thế nào?” Vassell hỏi.
“Chết khi nào?” Coomer hỏi.
“Đêm qua,” tôi đáp. “Bà ấy bị sát hại.”
“Ở đâu?”
“Chết tại nhà. Có kẻ đã đột nhập vào.”
“Ta có biết thủ phạm là ai không?”
“Không, ta không biết. Đó không phải vụ của ta. Quyền hạn thuộc sở dân sự khu vực.”
“Sự thể ra làm sao? Do đột nhập cướp của à?”
“Có thể ban đầu là vậy.”
Bọn họ không nói gì thêm. Summer và tôi hộ tống bọn họ ra đến vỉa hè phía trước trụ sở chỉ huy trại và nhìn họ trèo lên chiếc xe của Lầu Năm Góc. Một chiếc Grand Marquis hiệu Mercury, mẫu năm mới hơn chiếc của vợ Kramer, và màu đen thay vì màu xanh giống xe kia. Tay tài xế khá cao to trong bộ đồ dã chiến. Hắn đeo phù hiệu cấp bậc tối màu và vì trời tối nên tôi không nhìn rõ tên cũng như cấp bậc của hắn. Nhưng rõ ràng hắn trông khác kiểu lính đăng ký nhập ngũ. Tay đó trở đầu xe đánh một vòng khá mượt trên con đường vắng tanh rồi đưa Vassell và Coomer đi luôn. Bọn tôi trông theo ánh đèn đuôi xe biến mất về hướng Bắc, qua cổng chính doanh trại, và tiến vào bóng tối mịt mù.
“Sếp nghĩ sao ạ?” Summer hỏi.
“Tôi nghĩ cả hai lão già ấy đều ruồi bu cả,” tôi đáp.
“Ruồi bu cấp cao hay ruồi bu cấp thấp?”
“Bọn họ nói láo,” tôi nói. “Cả hai đều bồn chồn, họ nói láo, và ngu si đến khó tin. Vì sao tôi phải bận tâm đến chiếc cặp táp của gã Kramer nào?”
“Vì thứ giấy tờ quan trọng nào đó,” cô đáp. “Tất tần tật những gì Kramer mang theo đến California.”
Tôi gật đầu. “Hai lão già kia vừa xác nhận giùm tôi chuyện đó. Gã Kramer đã mang theo bản chương trình của hội nghị đó trong cặp.”
“Sếp chắc chắn là nó có tồn tại?”
“Lúc nào cũng phải có chương trình nghị sự. Nó luôn được viết thành văn bản. Cái gì cũng phải có chương trình nghị sự. Cô muốn thay đổi thực đơn của nhóm chó nghiệp vụ K-9, thì ít nhất cũng phải có bốn mươi bảy cuộc họp khác nhau với bốn mươi bảy chương trình nghị sự riêng. Vậy nên chắc chắn phải có một bản cho hội nghị ở trại Irwin kia. Phải ngu si lắm mới chối rằng không có. Nếu muốn giấu tôi, thà hai lão ấy cứ nói rằng đó là thông tin mật tôi không được phép xem.”
“Có khi hội nghị ấy không quan trọng thật.”
“Ruồi bu nốt. Cực kỳ quan trọng là khác.”
“Vì sao?”
“Bởi vì có một tướng hai sao tới dự chứ sao. Cả một tướng một sao nữa. Và vì Giao thừa nữa, Summer ạ. Có ai nhè đúng ngày ấy mà lên đường rồi còn qua đêm ở một quán trọ cà tàng chứ? Và năm nay tình hình ở Đức khá nóng đấy. Bức tường Berlin sắp đổ rồi. Phe ta đã thắng, sau bốn mươi lăm năm. Hẳn bên đó phải ăn mừng to lắm. Cớ gì bỏ lỡ dịp vui lớn như vậy để dự một cuộc họp không quan trọng? Để lôi được ba lão già kia lên máy bay trong đêm Giao thừa, thì vụ Irwin này chắc chắn nặng ký.”
“Trông bọn họ có vẻ bàng hoàng về bà Kramer. Bàng hoàng hơn chuyện xảy ra với chính Kramer nữa.”
Tôi gật đầu. “Chắc họ thích bà ta hơn.”
“Ắt cũng thích cả Kramer chứ.”
“Không, gã chỉ là một vấn đề chiến lược đối với bọn họ. Ở cấp bậc trên đó, sự thương cảm không có chỗ tồn tại. Hai lão ấy từng bám dính lấy gã, và giờ gã chết rồi thì bọn họ đang lo cho tương lai của mình.”
“Chắc đang chuẩn bị để được thăng chức.”
“Có thể lắm,” tôi đáp. “Nhưng nếu chuyện Kramer lộ ra thành một vụ bê bối lớn, thì có thể bọn họ cũng đổ theo gã.”
“Vậy hai người đó nên được trấn an. Sếp đã hứa sẽ che đậy vụ việc.”
Giọng cô có vẻ gì đó nghiêm nghị. Như thể cô muốn ám chỉ rằng đáng lẽ tôi không nên hứa hẹn như vậy với hai người kia.
“Chúng ta bảo vệ quân đội, Summer ạ,” tôi đáp. “Như bảo vệ chính gia đình mình vậy. Đó là phận sự của chúng ta.” Rồi tôi ngưng lại. “Nhưng cô có để ý thấy hai người kia không hề ngậm lời sau đó không? Đáng lẽ nói thế là phải hiểu ý nhau rồi chứ. Họ yêu cầu che đậy, tôi đồng ý che đậy. Truy hỏi rồi trả lời, xong nhiệm vụ.”
“Bọn họ muốn biết đồ đạc của ông ta ở đâu.”
“Phải,” tôi đáp. “Đúng vậy. Mà cô biết điều đó nghĩa là gì không? Có nghĩa là chính bọn họ cũng đang truy tìm chiếc cặp táp của Kramer. Vì chính bản chương trình nghị sự kia. Bản của Kramer là bản sao duy nhất ngoài tầm kiểm soát trực tiếp của bọn họ. Bọn họ xuống đây để kiểm tra xem tôi có nó không.”
Summer nhìn theo hướng chiếc xe nọ. Tôi vẫn ngửi thấy mùi khói xe vương lại. Mùi hăng a xít từ khí thải xe.
“Đội y tế bên dân sự thường làm việc ra sao nhỉ?” tôi hỏi cô. “Thí dụ cô là vợ tôi, rồi tự dưng thấy tôi lăn ra đau tim? Cô xử lý thế nào?”
“Tôi gọi tổng đài 911.”
“Sau đó thì sao?”
“Xe cứu thương tới. Rồi đưa sếp tới phòng cấp cứu.”
“Thí dụ tôi chết trên đường cấp cứu. Cô sẽ ở đâu?”
“Lúc đó tôi phải theo xe cứu thương đưa sếp đến bệnh viện chứ.”
“Thế cặp táp của tôi sẽ ở đâu?”
“Ở nhà,” cô đáp. “Chỗ sếp cất nó thôi.” Rồi cô chợt khựng lại. “Sao cơ? Sếp nghĩ đêm qua có người đột nhập vào nhà Kramer để tìm chiếc cặp táp à?”
“Một tình huống khả thi,” tôi đáp. “Ai đó được tin gã vừa chết vì đau tim, cho rằng gã chết trong xe cứu thương hoặc phòng cấp cứu, cho rằng nếu trước đó gã đang ở với ai thì người đó cũng đi theo gã tới bệnh viện, thế là tưởng nhà kia vắng người mà mò tới để tìm chiếc cặp.”
“Nhưng Kramer vốn có ở đó từ trước đâu?”
“Vào lúc ấy thì đột nhập nhà gã là phương án thiết thực nhất.”
“Sếp đoán là Vassell và Coomer à?”
Tôi không nói gì.
“Hoang đường quá,” Summer nói. “Bọn họ trông đâu có giống dạng đó chứ.”
“Đừng để vẻ ngoài đánh lừa. Họ bên Thiết giáp đấy. Những kẻ dành cả đời đè bẹp bất kỳ thứ gì ngáng đường mình. Nhưng tôi nghĩ thời gian là bằng chứng ngoại phạm của họ. Giả sử đại tá Garber điện thoại cho Quân đoàn XII tại Đức lúc mười giờ hai mười lăm là sớm nhất đi. Rồi giả sử Quân đoàn XII điện cho khách sạn ở Mỹ đây lúc mười hai giờ rưỡi là sớm nhất. Green Valley cách Thủ đô bảy mươi phút đi lại và bà Kramer chết vào khoảng hai giờ. Nghĩa là bọn họ chỉ có tối đa hai mươi phút để phản ứng. Cả hai lại vừa đáp xuống sân bay, nên không có sẵn xe, mà muốn thuê thì phải mất thêm thời gian. Và đương nhiên họ cũng không có thanh xà beng nào. Không ai lên máy bay vác theo xà beng trong hành lý để phòng hờ bao giờ. Mà tôi đoán nếu họ muốn mua một thanh thì cũng chẳng cửa hàng nào mở cửa lúc nửa đêm Giao thừa đâu.”
“Vậy nghĩa là có ai khác cũng đang truy tìm chiếc cặp táp?”
“Ta phải tìm được bản chương trình đó,” tôi nói. “Ta phải kiếm ra nó ngay.”
Tôi cử Summer đi làm ba việc sau: đầu tiên, liệt kê toàn bộ số nữ quân nhân được cấp xe Humvee riêng tại trại Bird này, thứ hai, liệt kê bất cứ ai trong số đó có thể đã từng gặp Kramer tại trại Irwin ở bang California, thứ ba, liên lạc ngay với khách sạn Jefferson tại Thủ đô để xác nhận chính xác giờ nhận và trả phòng của Vassell và Coomer, cùng lịch sử các cuộc gọi đến và đi của bọn họ. Tôi trở lại văn phòng để cất mẩu giấy ghi lời nhắn của Garber và sau đó gọi tới số điện thoại trên mẩu giấy của anh tôi. Anh nhấc máy ngay khi chuông vừa đổ.
“Chào Joe,” tôi nói.
“Jack hả?”
“Có gì không anh?”
“Anh nhận được tin báo.”
“Từ ai thế?”
“Từ bác sĩ đang chăm cho mẹ,” anh đáp.
“Có việc gì sao?”
“Mẹ sắp mất rồi.”