NĂM
Tôi cúp máy và điện ngay cho văn phòng Garber. Ông ta không có ở đó. Nên tôi nhờ họ thông báo giùm với ông ta về chuyến đi khẩn của tôi và nhắn rằng tôi sẽ vắng mặt trong vòng bảy mươi hai giờ. Tôi không nêu nguyên nhân. Tôi cúp máy rồi ngồi xuống bàn làm việc, đờ ra. Năm phút sau Summer vào phòng. Trên tay cô là một xấp giấy tờ từ bãi đậu xe. Tôi đoán cô toan kiểm tra chúng ngay lúc đó, trước mặt tôi.
“Tôi phải đi Paris gấp,” tôi lên tiếng.
“Paris ở bang Texas hả sếp?” cô hỏi. “Hay Paris bang Kentucky, hay Paris bang Tennessee?”
“Paris ở Pháp ấy,” tôi đáp.
“Vì sao thế?”
“Mẹ tôi ốm.”
“Mẹ sếp sống ở Pháp sao?”
“Ở Paris,” tôi nói.
“Vì sao vậy?”
“Vì bà là người Pháp.”
“Sao thế ạ?”
“Sao bà lại là người Pháp á?”
“Không, ý là bệnh của bà ra sao?”
Tôi nhún vai. “Tôi thật tình không biết nữa. Nhưng chắc nghiêm trọng.”
“Tôi rất tiếc.”
“Tôi cần một chiếc xe,” tôi nói. “Tôi cần phải đến sân bay Dulles, ngay bây giờ.”
“Để tôi lái cho,” cô đáp. “Tôi thích lái xe mà.”
Cô đặt mớ giấy tờ lên bàn làm việc của tôi và đi lấy chiếc Chevrolet bọn tôi đã đi. Tôi về phòng riêng mở tủ gói ghém mỗi thứ một món vào ba lô quân dụng. Rồi tôi khoác áo măng tô dài. Trời ở đây lạnh, nên tôi nghĩ châu Âu cũng sẽ không ấm hơn chút nào. Nhất là khoảng đầu tháng Giêng này. Summer đánh xe lên trước cửa phòng tôi. Cô giữ tốc độ chừng ba mươi dặm một giờ cho đến khi rời khỏi doanh trại. Sau đó cô đạp lút ga khiến chiếc xe bay như tên lửa về phía Bắc. Mí mắt cô hấp háy liên hồi.
“Ta nên bảo sở dân sự Green Valley,” cô lên tiếng. “Nếu ta cho rằng bà Kramer bị giết vì chiếc cặp táp kia.”
Tôi lắc đầu. “Có bảo thì bà ta cũng chết rồi. Và nếu bà ta thực sự bị giết vì chiếc cặp táp đó thì ta sẽ phải truy tìm hung thủ từ phía mình.”
“Sếp muốn tôi làm gì khi sếp đi vắng?”
“Kiểm tra bản danh sách kia đi,” tôi đáp. “Kiểm tra nhật ký ra vào cổng. Tìm người phụ nữ bí ẩn kia, tìm chiếc cặp táp, giấu bản chương trình nghị sự ở một nơi an toàn. Rồi tra xem Vassell và Coomer đã gọi điện cho ai tại khách sạn kia. Có thể bọn họ đã cử một người khác ra tay trong đêm ấy.”
“Sếp nghĩ việc ấy có thể xảy ra lắm à?”
“Ở đời có gì mà không thể xảy ra.”
“Nhưng làm sao họ biết Kramer ở đâu chứ?”
“Vậy nên bọn họ mới tới nhầm nơi.”
“Họ đã cử ai mới được?”
“Chắc hẳn phải là một người quan tâm tới lợi ích của hai lão già kia.”
“OK,” cô đáp.
“Và nhớ tìm hiểu về tay tài xế ban nãy của hai người đó.”
“OK,” cô đáp.
Chúng tôi không chuyện trò gì thêm suốt chặng đường tới sân bay Dulles.
Tôi gặp Joe ở quầy mua vé máy bay của hãng hàng không Air France. Anh đã đặt sẵn chuyên bay sáng đầu tiên cho cả hai. Giờ anh đang xếp hàng để thanh toán. Đã ba năm tôi chưa gặp anh. Lần cuối chúng tôi gặp nhau là tại đám tang của bố. Từ khi ấy bọn tôi mỗi người mỗi ngả.
“Chào buổi sáng, em trai,” anh lên tiếng.
Anh mặc com lê thắt cà vạt và khoác thêm áo ngoài, trông rất bảnh. Anh lớn hơn tôi hai tuổi, vẫn và sẽ luôn là như vậy. Hồi bé tôi hay quan sát anh và thầm nghĩ, Lớn lên mình sẽ trông giống như anh. Và giờ tôi phát hiện mình đang làm điều đó lần nữa. Từ xa có khi người ta nhìn nhầm hai chúng tôi với nhau. Khi đứng cạnh nhau thì dễ thấy anh cao hơn tôi hai phân rưỡi và gầy hơn một chút. Nhưng dễ thấy nhất là anh trông già hơn tôi một chút. Trông như thể cả hai chúng tôi vào đời cùng một lúc, nhưng anh nhìn thấy tương lai trước tôi, vì vậy trông anh mới già dặn, và khắc khổ.
“Anh khỏe không Joe?” tôi hỏi.
“Không có gì phải phàn nàn.”
“Bận rộn lắm hả?”
“Chú không tưởng tượng nổi đâu.”
Tôi gật đầu và không nói gì thêm. Sự thật là, chính tôi cũng không rõ anh trai mình kiếm sống bằng nghề gì. Có khi anh đã kể tôi nghe vào dịp nào đó rồi. Cũng chẳng phải bí mật quốc gia gì cho cam. Hình như có liên quan thế nào đó đến Bộ Tài chính. Có khi anh đã kể tôi nghe tường tận và có khi tôi đã bỏ ngoài tai hết. Dù sao bây giờ hỏi lại có lẽ cũng quá muộn rồi.
“Chú đã ở Panama,” anh nói. “Tham gia Chiến dịch Chính nghĩa, phải không?”
“Chiến dịch Cao hứng thì đúng hơn,” tôi đáp. “Bọn em gọi nó vậy đó.”
“Là sao?”
“Hứng lên thì đánh. Hứng lên thì kiếm chuyện để làm. Ông Tổng tư lệnh mới nhậm chức hứng lên muốn thị uy.”
“Rồi tình hình thế nào?”
“Ta với họ như xe đè châu chấu thôi. Tình hình rõ ràng rồi còn gì?”
“Các chú bắt được Noriega chưa?”
“Chưa.”
“Thế sao họ lại chuyển chú về đây?”
“Phe ta có hai mươi bảy nghìn người,” tôi đáp. “Vắng một mình em thì cũng chẳng khác mấy đâu.”
Anh thoáng cười rồi lại hơi nheo nheo mắt như tôi nhớ ngày xưa. Có nghĩa là trong đầu anh đang cố giải nghĩa dòng suy luận rối rắm phức tạp nào đó. Nhưng trước khi anh kịp nói thì đã đến lượt bọn tôi ở quầy thanh toán. Anh lấy thẻ tín dụng và trả tiền vé máy bay. Có thể anh muốn tôi trả lại anh tiền vé của mình, hoặc cũng có thể là không. Dù thế nào anh cũng không thể hiện rõ ra.
“Đi uống cà phê đi,” anh nói.
Joe có lẽ là người duy nhất trên thế giới này có thể sánh ngang tôi về khoản ghiền cà phê. Anh bắt đầu uống từ khi lên sáu tuổi. Tôi bắt chước anh ngay lập tức. Lúc ấy tôi mới bốn tuổi. Và đên tận bây giờ cả hai vẫn chưa ngán thứ ấy. Đám nghiện ma túy cũng chẳng bằng anh em nhà Reacher nghiện cà phê.
Chúng tôi tìm thấy một tiệm với quầy thu ngân hình chữ W kéo dài từ đầu này đến đầu kia. Trong tiệm chỉ một phần tư ghế có khách. Tiệm thắp đèn tuýp sáng rực còn mặt ghế dính nhem nhép. Chúng tôi ngồi cạnh nhau và cả hai cùng đặt tay lên quầy theo kiểu đặc trưng của hành khách đi chuyến bay sáng sớm khắp nơi trên thế giới. Một tay quấn tạp dề đặt hai cái cốc xuống trước mặt chúng tôi mà không cần hỏi một câu. Rồi anh ta rót cà phê từ cái bình nhôm trên tay. Cà phê có mùi thơm mới pha. Tiệm đang chuyển từ phục vụ các món ăn đêm sang thực đơn sáng. Tôi nghe thấy tiếng trứng đang chiên trong chảo.
“Ở Panama có chuyện gì vậy?” Joe hỏi.
“Với em á?” tôi đáp. “Có gì đâu.”
“Nhiệm vụ của chú ở đó là gì?”
“Giám sát.”
“Giám sát việc gì?”
“Giám sát quy trình,” tôi đáp. “Họ muốn vụ Noriega kia phải có vẻ đúng luật. Họ muốn xử hắn ở tòa án Mỹ. Nên bọn em phải bắt hắn sao cho đúng quy trình. Cách nào đó để khi ra tòa không ai phản đối được ấy.”
“Thế chú tính đọc cho hắn nghe quyền Miranda à?”
“Không hẳn vậy. Nhưng cách nào không phải đọ súng là được.”
“Vậy chú làm hỏng chuyện à?”
“Em không nghĩ thế.”
“Ai tiếp quản sau chú vậy?”
“Thằng nào đó ấy mà.”
“Cấp bậc ra làm sao?”
“Ngang em luôn,” tôi đáp.
“Một tay đang lên à?”
Tôi nhấp cà phê. Rồi lắc đầu. “Em chưa gặp thằng cha ấy bao giờ. Nhưng em đoán hắn là đồ khốn.”
Joe gật đầu rồi nâng cốc của mình lên. Anh không nói gì. “Sao thế?” tôi hỏi.
“Trại Bird không nhỏ,” anh nói tiếp. “Nhưng cũng đâu có to lắm, nhỉ? Giờ chú đang theo vụ gì?”
“Ngay bây giờ á? Một gã hai sao lăn ra chết mà em không tìm được cặp táp của gã.”
“Bị giết à?”
Tôi lắc đầu. “Trụy tim.”
“Lúc nào thế?”
“Đêm qua.”
“Sau khi chú chuyển đến à?”
Tôi không nói gì.
“Chú có chắc mình không làm hỏng việc không đấy?” Joe hỏi.
“Em không nghĩ thế,” tôi nhắc lại.
“Thế sao tự dưng họ chuyển chú ra khỏi Panama? Chú đang giám sát vụ Noriega, đùng một cái chú về Bắc Carolina ngồi không? Nếu gã tướng kia không chết thì chắc giờ chú vẫn ngồi không.”
“Em nhận được lệnh,” tôi đáp. “Anh biết thế nào rồi còn gì. Mình đành coi như cấp trên có tính toán riêng của họ thôi.”
“Ai duyệt lệnh cho chú?”
“Em không biết.”
“Chú nên tìm hiểu. Tìm hiểu xem ai cần chú đến trại Bird đến mức phải lôi chú ra khỏi Panama rồi để một thằng khốn nào đó tiếp quản. Và chú cần tìm hiểu nguyên nhân vì sao.”
Tay đeo tạp dề trở lại chế thêm cà phê vào cốc. Rồi đẩy tấm thực đơn ép nhựa tới trước mặt chúng tôi.
“Cho hai trứng,” Joe nói. “Chín kỹ, thêm thịt lợn muối, với bánh mì nướng.”
“Cho phần bánh kếp,” tôi nói. “Thêm trứng, thêm thịt lợn muối, thật nhiều xi rô.”
Tay kia đem thực đơn trở vào trong còn Joe xoay ghế ra ngoài để lưng tựa vào quầy rồi duỗi chân ra phía lối đi.
“Chính xác thì bác sĩ chăm mẹ nhắn gì?” tôi hỏi anh.
Anh nhún vai. “Cũng chẳng gì nhiều. Không nơi chi tiết, cũng chẳng tiết lộ chẩn đoán nào. Bác sĩ châu Âu dở báo tin xấu lắm. Toàn úp úp mở mở. Với lại còn vấn đề bảo mật nữa, dĩ nhiên.”
“Nhưng ta có lý do phải đến đó?”
Anh gật đầu. “Bác sĩ khuyên ta nên đi. Rồi còn úp mở rằng thà sớm còn hơn muộn.”
“Thế mẹ nói gì?”
“Mẹ bảo sao phải chộn rộn vì việc không đâu. Nhưng hai anh em đến thì mẹ mừng.”
Chúng tôi ăn xong bữa sáng và lần này tôi thanh toán. Trả xong thì anh Joe đưa tôi vé máy bay, như một cuộc giao dịch vậy. Tôi tin hầu bao của anh lớn hơn tôi, nhưng chắc chẳng lớn đến mức có thể coi một phần dĩa trứng chiên thêm thịt lợn muối với bánh mì nướng là đủ để đổi lấy một vé máy bay. Nhưng đằng nào tôi cũng nhận. Cả hai xuống ghế lấy đồ đạc và tiến tới quầy làm thủ tục.
“Chú cởi áo khoác ra,” anh bảo.
“Để làm gì?”
“Anh muốn nhân viên thủ tục thấy huân chương của chú,” anh nói. “Chú là sĩ quan quân đội đi công tác nước ngoài, có khi ta được lên hạng ghế không chừng.”
“Đây là hãng Air France mà,” tôi nói. “Pháp còn chả phải thành viên của NATO.”
“Nhân viên làm thủ tục là người Mỹ mà,” Joe bảo. “Cứ thử xem.”
Tôi cởi áo khoác. Gập nó lại trong tay và bước đi hàng ngang để cho bên ngực trái hướng ra phía trước.
“OK chưa?” tôi hỏi.
“Quá ổn luôn,” anh đáp, và cười.
Tôi cười đáp lại. Trên hàng đầu từ trái qua phải là huân chương Ngôi sao Bạc, huân chương Phục vụ Xuất sắc Quốc phòng và huân chương Chiến công. Hàng hai gồm có huân chương Lục quân, Ngôi sao Đồng và Trái tim Tím. Hai hàng cuối cùng là những huân chương lặt vặt khác. Những huân chương lớn kia tôi đạt được nhờ ngẫu nhiên và bản thân cũng không để tâm mấy đến chúng. Dùng để ra oai với nhân viên thủ tục để được nâng hạng ghế có khi là lợi lớn nhất của chúng. Nhưng Joe rất thích hai hàng đầu hoành tráng ấy. Anh từng công tác năm năm trong Tình báo Quân đội mà chỉ đạt được những huân chương lặt vặt.
Khi tới lượt chúng tôi anh đặt hộ chiếu với vé máy bay và thẻ công chức Bộ Tài chính của mình lên mặt quầy. Rồi anh trở ra đứng sau lưng tôi. Tôi đặt hộ chiếu và vé máy bay của mình lên. Anh huých vào lưng tôi. Tôi ngoái lại liếc anh một cái rồi nhìn nhân viên làm thủ tục.
“Nhờ anh tìm giúp hàng ghế nào rộng rãi chút,” tôi bảo ông ta.
Ông ta nhỏ con, trung niên, vẻ mặt mệt mỏi. Ông ta nhìn chúng tôi. Tôi và anh trai gộp lại cũng phải cao gần bốn mét và nặng hon hai tạ. Nhân viên thủ tục nhìn từ thẻ công chức Bộ Tài chính tới quân phục của tôi, rồi gõ gì đó lên bàn phím và cuối cùng ngẩng lên cùng một nụ cười gượng ép.
“Hai vị ngồi hạng trên nhé,” ông ta nói.
Joe lại huých lưng tôi lần nữa và tôi biết chắc rằng anh đang hí hửng lắm.
Chúng tôi được ngồi ở dãy ghế cuối của khoang hạng nhất. Chúng tôi chuyện trò, nhưng tránh cái chủ đề khó nói kia. Chúng tôi bàn về âm nhạc, rồi đến chuyện chính trị. Ăn thêm một bữa sáng nữa. Xong thì uống cà phê. Cà phê khoang hạng nhất của hãng Air France khá ngon.
“Thế gã tướng kia là ai vậy?” Joe hỏi.
“Một thằng cha tên Kramer,” tôi đáp. “Tướng Thiết giáp ở châu Âu.”
“Thiết giáp? Thế hắn ta làm gì ở trại Bird?”
“Thằng cha ấy có ở doanh trại đâu. Gã đến một quán trọ cách đó ba mươi dặm. Hẹn gặp một phụ nữ nào đó. Bọn em đoán cô ta cao chạy xa bay cùng chiếc cặp táp rồi.”
“Dân thường à?”
Tôi lắc đầu. “Bọn em nghĩ cô ta là quân nhân trại Bird. Gã đáng lẽ phải trọ lại tại Thủ đô trên đường dự hội nghị ở California.”
“Vậy là đi thêm tới ba trăm dặm.”
“Chính xác là hai trăm chín mươi tám dặm.”
“Mà chú không biết cô ta là ai.”
“Chắc phải cấp cao. Vì cô ta lái Humvee cá nhân tới quán trọ mà.”
“Phải là cấp cao rồi. Gã Kramer phải quen biết cô ta thế nào mới cất công đi một đoạn đường vừa đi vừa về dài năm trăm chín mươi sáu dặm.”
Tôi mỉm cười. Người khác hẳn sẽ nói sáu trăm dặm. Nhưng anh tôi thì không. Cũng như tôi, anh không có tên đệm. Nếu có thì hẳn sẽ là Kỹ-Tính. Joe Kỹ-Tính Reacher.
“Trại Bird toàn bộ binh, nhỉ?” anh nói. “Có đội Biệt động này, có đội Delta này, nhưng anh nhớ chủ yếu là bộ binh. Vậy bên chú có nhiều nữ sĩ quan cấp cao không?”
“Ở trại vừa mở lớp huấn luyện tác chiến tâm lý,” tôi đáp. “Một nửa số giảng viên đào tạo là nữ.”
“Cấp bậc ra sao?”
“Có vài đại úy, vài thiếu tá, hai trung tá.”
“Trong chiếc cặp táp kia có gì?”
“Có bản chương trình nghị sự của hội nghị tại California kia,” tôi đáp. “Đám cấp dưới của Kramer đang giả bộ là không có thứ đó.”
“Lúc nào mà chả phải có chương trình nghị sự,” Joe nói.
“Em biết mà.”
“Kiểm tra đám cấp tá kia xem,” anh bảo. “Anh nghĩ chú nên làm vậy.”
“Cảm ơn anh,” tôi đáp.
“Rồi tìm hiểu xem ai muốn chú tới trại Bird,” anh nói tiếp. “Và vì lẽ gì. Không phải vì vụ Kramer này đâu. Ta biết chắc điều đó. Chú bị chuyển công tác khi Kramer vẫn còn sống thôi.”
Chúng tôi đọc số báo hôm trước của tờ Le Matin và Le Monde. Bay được nửa đường bọn tôi chuyển sang nói tiếng Pháp. Dù hơi vấp váp vì đã lâu không dùng, nhưng cũng đủ hiểu. Một lần học rồi, mãi mãi không quên. Anh hỏi thăm tôi về chuyện yêu đương. Tôi đoán anh nghĩ tiếng Pháp phù hợp với đề tài này. Tôi kể anh rằng mình từng hẹn hò với một cô tại Hàn Quốc nhưng từ dạo bị thuyên chuyển sang Philippines rồi Panama và bây giờ là Bắc Carolina thì tôi không nghĩ mình sẽ gặp lại cô nữa. Tôi kể anh nghe về trung úy Summer. Anh có vẻ hứng thú với cô. Còn anh nói với tôi anh đang không yêu đương gì.
Rồi anh chuyển sang nói tiếng Anh và hỏi lần cuối tôi đến Đức là khi nào.
“Sáu tháng trước,” tôi đáp.
“Thế giới đang sang chương mới đấy,” anh nói tiếp. “Đức sẽ thống nhất. Pháp sẽ phục hồi chương trình thử nghiệm vũ khí hạt nhân, vì một nước Đức thống nhất sẽ gợi lại những ký ức kinh hoàng cho bên đấy. Rồi Pháp sẽ đề xuất với Ủy ban Châu Âu một đơn vị tiền tệ chung hòng kiềm chế Đức. Mười năm tới Ba Lan sẽ gia nhập khối NATO còn Liên Xô sẽ tan rã. Sẽ chỉ còn lại tàn dư của một quốc gia nào đó. Có thể nó sẽ gia nhập NATO luôn.”
“Có thể thôi,” tôi đáp.
“Vậy gã Kramer kia chọn đúng lúc để ngỏm đấy chứ. Tương lai mọi thứ sẽ khác hết.”
“Chắc vậy.”
“Rồi chú định làm gì?”
“Khi nào anh?”
Anh xoay sang nhìn tôi. “Quân đội sẽ cắt bớt nhân lực đấy, Jack ạ. Chú nên đối diện với sự thật đi. Quân đội không giữ lại cả triệu quân nhân tại ngũ đâu, khi mà đối thủ đã tan rã.”
“Chưa tan rã mà.”
“Chẳng sớm thì muộn thôi. Chừng một năm đổ lại là cùng. Gorbachev không trụ được đâu. Sẽ có đảo chính là cái chắc. Anh hùng cờ đỏ dù còn trò nào chăng nữa cũng chẳng ăn thua đâu. Phe cải cách sẽ trở lại luôn. Chắc là Yeltsin đó. Tay đó OK. Nên ở Thủ đô sẽ muốn thắt ngay hầu bao lại. Chú tưởng tượng như là cả trăm Giáng sinh ập đến cùng lúc ấy. Đừng quên tay Tổng tư lệnh của chú chủ yếu cũng chỉ là chính trị gia thôi.”
Tôi chợt nhớ tới nữ trung sĩ với đứa con trai.
“Đâu có một sớm một chiều được,” tôi nói.
Joe lắc đầu. “Nhanh hơn chú tưởng đấy.”
“Ta lúc nào cũng sẽ có kẻ thù mà,” tôi đáp.
“Đương nhiên,” anh nói. “Nhưng chúng không như trước nữa. Kẻ thù của chúng ta sẽ chẳng có mười ngàn chiến xa rải khắp các cánh đồng nước Đức đâu.”
Tôi không trả lời.
“Chú phải tìm hiểu xem lý do bị thuyên chuyển tới trại Bird là gì,” Joe nói tiếp. “Hoặc ở đó chẳng có khỉ khô gì xảy ra, đồng nghĩa với việc chú đang đi xuống, hoặc đang có chuyện mờ ám nào đó, và họ muốn chú tới để xử lý, và thế nghĩa là chú đang đi lên.”
Tôi không nói gì.
“Dù thế nào đi nữa chú cũng phải biết,” anh nói. “Sắp cắt bớt sĩ quan rồi, chú nên biết mình đang đi lên hay xuống.”
“Lúc nào họ chả cần cảnh sát,” tôi đáp. “Nếu quân đội chỉ còn vỏn vẹn hai mạng, một trong hai phải là Quân cảnh.”
“Chú nên lên kế hoạch đi,” anh bảo.
“Em chả bao giờ lên kế hoạch cả.”
“Cần lắm đấy.”
Tôi rê ngón tay qua hàng huân chương trên ngực áo.
“Đống này giúp em lên khoang nhất máy bay,” tôi nói. “Có thể chúng sẽ giữ việc cho em thôi.”
“Có thể thôi,” Joe bảo. “Dù có giữ việc được chăng nữa, chắc gì chú thích công việc ấy? Mọi thứ sẽ tụt hạng thê thảm.”
Tôi để ý cổ tay áo của anh. Chúng sạch sẽ thẳng thớm và được đính khuy măng sét bằng bạc và mã não đen. Anh đeo chiếc cà vạt lụa trơn màu tối. Râu tóc được cạo cẩn thận. Đuôi tóc mai được gọt vuông vức. Anh trai tôi vốn không chấp nhận những gì không phải hạng nhất.
“Công việc là công việc,” tôi đáp. “Em đâu có kén cá chọn canh.”
Chúng tôi ngủ suốt chặng bay còn lại. Tiếng cơ trưởng trên loa thông báo máy bay sắp hạ cánh xuống sân bay Roissy - Charles de Gaulle làm chúng tôi thức giấc. Giờ địa phương là tám giờ tối. Phần lớn ngày thứ hai của thập kỷ mới tan đi như mây khói khi chúng tôi di chuyển từ múi giờ khu vực Đại Tây Dương này sang múi giờ khác.
Chúng tôi đổi chút tiền rồi đến khu đợi taxi. Hàng dài cả dặm, đầy những người và hành lý. Đám đông không dịch chuyển mấy. Nên chúng tôi đành bắt xe navette, loại xe buýt chở khách từ sân bay vào thành phố của người Pháp. Chúng tôi phải đứng suốt chuyến đi qua những khu ngoại ô miền Bắc vào đến trung tâm thành phố Paris. Xe buýt thả chúng tôi xuống quảng trường Place de l’Opéra lúc chín giờ tối. Trời vừa tối vừa lạnh vừa ẩm ướt vừa tĩnh lặng. Đèn từ các quán cà phê và nhà hàng tỏa ra thứ ánh sáng ấm áp đằng sau những cánh cửa đóng kín và các ô cửa sổ vương sương. Mặt đường ẩm ướt với những chiếc xe đang nằm lặng lẽ hai bên. Sương đêm giăng mờ cửa sổ những chiếc xe ấy. Chúng tôi cùng đi bộ về hướng Nam rồi sang hướng Tây và qua cầu Pont de la Concorde bắc ngang sông Seine. Chúng tôi lại quẹo sang hướng Tây dọc theo bờ kè Quai d’Orsay. Con sông dưới chân nhìn tăm tối và uể oải. Không có tàu bè nào qua lại trên đó. Con đường cũng vắng bóng người. Chẳng có ai ra ngoài giờ này cả.
“Mình có nên mua hoa không anh?” tôi hỏi.
“Trễ rồi,” Joe đáp. “Đóng cửa cả rồi còn gì.”
Chúng tôi quẹo trái ngay ở Place de la Résistance vào đường Rapp. Phía bên phải chúng tôi thấy tháp Eiffel khi đang bước qua đầu đường Rue de l’Université. Ngọn tháp rực sáng ánh đèn vàng. Tiếng chân chúng tôi vang lên như từng phát súng trên vỉa hè tĩnh lặng. Rồi cũng tới tòa nhà mẹ chúng tôi đang ở. Một căn chung cư giản dị cao sáu tầng xây bằng đá nằm lọt thỏm giữa hai căn nhà mặt tiền kiểu Belle Époque lòe loẹt hai bên. Joe rút tay ra khỏi túi quần và mở cửa ngoài.
“Anh có chìa khóa à?” tôi hỏi.
Anh gật đầu. “Anh có chìa khóa đó giờ mà.”
Đằng sau cửa ngoài là một con hẻm rải sỏi dẫn vào sân trong. Văn phòng quản lý nằm ngay bên trái. Sau nữa là hốc tường có một chiếc thang máy khá nhỏ và chậm. Chúng tôi dùng nó lên đến tầng năm. Bước vào hành lang vừa cao, vừa rộng rãi. Đèn thắp lờ mờ. Trên sàn trải gạch hoa tối màu. Căn hộ bên tay phải gắn chiếc cửa đôi khá cao bằng gỗ sồi với tấm bảng bằng đồng lắp kín đáo có khắc dòng chữ: M. & Mme. Girard. Còn cánh cửa đôi bên trái gắn tấm bảng son trắng ghi: Mme. Reacher.
Chúng tôi gõ cửa và cùng đợi.