SÁU
Chúng tôi nghe tiếng chân chậm rãi từ trong nhà vọng ra và sau một hồi lâu thì mẹ tôi mở cửa.
“Bonsoir, Maman,” Joe lên tiếng.
Tôi chỉ trân trân nhìn mẹ.
Người mẹ gầy nhom, tóc bạc cả đi, lưng còng xuống, và trông mẹ già hơn cả trăm tuổi kể từ lần gần nhất tôi gặp. Chân trái mẹ bó trong một khối thạch cao dài và nặng, và mẹ đang phải chống lên một khung tập đi bằng nhôm. Mẹ nắm cái khung chặt đến nỗi tôi thấy cả xương và mạch máu lẫn gân tay nổi lên dưới da. Người mẹ đang run. Da mẹ như trong suốt. Duy chỉ có đôi mắt mẹ vẫn như tôi từng nhớ. Đôi mắt xanh lúc nào cũng vui vẻ và hân hoan.
“Chào con, Joe,” mẹ nói. “Reacher nữa.”
Mẹ luôn gọi tôi bằng họ. Không ai nhớ vì sao nữa. Chắc do tôi đầu têu từ bé. Chắc mẹ vẫn cứ thế mà gọi luôn, nhiều gia đình cũng hay như vậy.
“Các con,” mẹ nói. “Nhìn hai đứa kìa.”
Mẹ nói chậm và có chút hụt hơi nhưng môi đang cười hạnh phúc lắm. Anh em tôi cùng bước tới ôm mẹ. Người mẹ lạnh, yếu ớt và mỏng manh. Trông mẹ như thể còn nhẹ hơn cái khung nhôm kia nữa.
“Có chuyện gì thế mẹ?” tôi hỏi.
“Vào trong đã,” mẹ đáp. “Hai đứa tự nhiên như ở nhà nhé.”
Mẹ lóng ngóng xoay cái khung về sau rồi lê bước vào hành lang. Vừa đi mẹ vừa thở khó nhọc. Tôi theo sau mẹ. Joe đóng cửa rồi theo tôi. Hành lang hẹp với trần cao, dẫn vào một phòng khách có sàn gỗ và chiếc sofa màu trắng tiệp màu với bốn bức tường, cùng vài chiếc gương gắn khung sắt. Mẹ tôi tiến về phía sofa, đoạn xoay lưng lại rồi chậm rãi thả người xuống đó. Trông mẹ như lún mất hút vào chiếc ghế.
“Có chuyện gì thế mẹ?” tôi hỏi lần nữa.
Mẹ vẫn không trả lời. Mẹ chỉ xua đi câu hỏi bằng một cái phẩy tay nóng nảy. Joe và tôi cùng ngồi xuống, cạnh nhau.
“Mẹ phải cho bọn con biết chuyện chứ,” tôi nói.
“Bọn con cất công tới đây rồi mà,” Joe tiếp lời.
“Mẹ tưởng hai đứa đơn thuần muốn đến thăm mẹ thôi,” mẹ đáp.
“Mẹ cứ giả vờ,” tôi bảo.
Mẹ nhìn lên một điểm trên tường.
“Chẳng có gì đâu con,” mẹ nói.
“Nhìn thôi là biết có chuyện đó mẹ.”
“Ừ thì, chỉ là không đúng lúc thôi.”
“Không đúng lúc nghĩa là sao mẹ?”
“Thì mẹ xui,” mẹ nói.
“Xui thế nào mẹ?”
“Mẹ bị xe tông,” mẹ nói. “Nên bị gãy chân.”
“Ở đâu? Lúc nào mẹ?”
“Mới hai tuần trước,” mẹ bảo. “Ngay ngoài cửa nhà đây thôi, trên đường này. Lúc ấy trời mưa, mẹ đội ô, bị che mất tầm nhìn, vừa bước chân ra đường, tay tài xế trông thấy mẹ nên vội đạp thắng, nhưng đường trơn quá nên xe trượt tới chỗ mẹ, chậm lắm, như quay chậm vậy, nhưng mẹ bất ngờ quá nên không né kịp. Mẹ thấy chiếc xe chạm vào chân mẹ, khẽ khàng lắm, hệt một nụ hôn vậy, nhưng xương bị gãy ngay. Đau thấu trời đó.”
Trước mắt tôi chợt hiện lên hình ảnh gã hộ pháp tại bãi đỗ xe bên ngoài quán bar thoát y gần trại Bird, nằm quằn quại trong vết dầu loang trên đất.
“Sao mẹ không báo bọn con biết?” Joe hỏi.
Mẹ không trả lời.
“Nhưng rồi chân mẹ sẽ lành lại được phải không?” anh hỏi tiếp.
“Đương nhiên rồi,” mẹ nói. “Chuyện vặt ấy mà.”
Joe chỉ nhìn tôi.
“Còn gì nữa không mẹ?” tôi hỏi.
Mẹ vẫn dán mắt lên bức tường. Rồi phẩy tay như ban nãy.
“Còn gì nữa hả mẹ?” Joe hỏi.
Mẹ nhìn tôi, rồi nhìn sang anh.
“Bác sĩ chụp X quang cho mẹ,” mẹ nói. “Mẹ già rồi, bọn họ bảo vậy. Theo lời bác sĩ, người già bị gãy xương thường dễ bị viêm phổi. Vì phải nằm yên một chỗ nên phổi bị tràn dịch và nhiễm trùng ấy.”
“Rồi sao mẹ?”
Mẹ không nói gì.
“Thế mẹ bị viêm phổi à?” tôi hỏi.
“Đâu có.”
“Vậy có chuyện gì thế mẹ?”
“Bác sĩ họ phát hiện được. Nhờ chụp X quang.”
“Phát hiện được gì cơ?”
“Phát hiện mẹ bị ung thư.”
Không ai nói gì một hồi lâu.
“Nhưng mẹ biết từ trước rồi mà,” tôi nói.
Mẹ nhìn tôi mỉm cười, một biểu cảm thân thuộc.
“Đúng vậy con yêu,” mẹ nói. “Mẹ biết từ trước rồi.”
“Từ bao giờ thế ạ?”
“Độ một năm rồi,” mẹ đáp.
“Ung thư loại nào vậy mẹ?” Joe hỏi.
“Giờ thì, đủ mọi loại trên đời.”
“Có chữa được không mẹ?”
Mẹ lắc đầu.
“Trước đó có chữa được không mẹ?”
“Mẹ không biết,” mẹ đáp. “Mẹ đâu có hỏi.”
“Triệu chứng ra làm sao mẹ?”
“Đầu tiên mẹ bị đau bụng. Ăn uống không thấy ngon miệng nữa.”
“Rồi nó lan ra?”
“Giờ chỗ nào trên người mẹ cũng đau. Bệnh ăn vào đến xương rồi. Vụ cái chân khỉ khô này càng làm rắc rối thêm.”
“Sao mẹ không nói cho bọn con?”
Mẹ nhún vai. Một phong cách rất Pháp, dịu dàng, nhưng cố chấp.
“Mẹ nói gì bây giờ?” mẹ bảo.
“Sao mẹ không đi bác sĩ?”
Mẹ không trả lời một hồi lâu.
“Mẹ mệt,” mẹ đáp.
“Mẹ mệt gì cơ?” Joe hỏi. “Mệt cuộc đời này á?”
Mẹ mỉm cười. “Không, Joe ơi, ý là mẹ mệt thôi. Bây giờ muộn rồi và mẹ muốn đi ngủ, ý mẹ là vậy đó. Mai mình nói chuyện thêm nhé. Mẹ hứa. Đêm nay ta đừng làm lớn chuyện nữa.”
Chúng tôi để mẹ đi ngủ. Vì đâu còn cách nào khác. Khó ai tưởng tượng nổi tính cố chấp của mẹ. Chúng tôi tìm thấy đồ ăn trong bếp. Mẹ đã để sẵn cho hai anh em. Rõ ràng là như vậy. Vì tủ lạnh của mẹ chất đầy những món vốn chẳng hấp dẫn gì đối với một người phụ nữ chán ăn. Chúng tôi ăn phần pâté với phô mai rồi ngồi xuống bàn uống cà phê. Bên dưới cửa sổ phòng mẹ năm tầng lầu, đường Rapp vẫn im lìm và vắng người.
“Chú nghĩ sao?” Joe hỏi tôi.
“Em nghĩ mẹ không sống được bao lâu nữa,” tôi đáp. “Rốt cuộc thì, mình đến đây vì vậy mà.”
“Mình thuyết phục mẹ đi chữa trị được không?”
“Trễ rồi anh ạ. Chỉ tốn thời gian thôi. Mà mình làm sao thuyết phục nổi mẹ. Trước giờ có ai ép được mẹ làm điều mẹ không muốn chứ?”
“Sao mẹ lại không muốn đi chữa bệnh nhỉ?”
“Em không biết.”
Anh chỉ nhìn tôi.
“Mẹ là người chấp nhận số phận anh ơi.”
“Mẹ mới có sáu mươi tuổi thôi mà.”
Tôi gật đầu. Khi sinh ra tôi mẹ đã ba mươi tuổi, và tới năm mẹ bốn mươi tám tuổi thì tôi rời nơi mình gọi là nhà. Từ ấy tôi không để ý đến tuổi mẹ nữa. Mẹ bốn mươi tám tuổi trông còn trẻ hơn tôi lúc hai mươi tám tuổi. Lần gần nhất tôi gặp mẹ là cách đây một năm rưỡi. Khi ấy tôi ghé lại Paris hai ngày, trên đường từ Đức đến Trung Đông. Lúc đó trông mẹ vẫn khỏe. Rất khỏe là khác. Khi đó mẹ vừa thành góa phụ được hai năm, và với nhiều người thì cái ngưỡng hai năm ấy đã là một chuyển biến lớn trong cuộc đời. Trông mẹ lúc đó vẫn còn khỏe mạnh lắm.
“Sao mẹ không báo cho mình nhỉ?” Joe hỏi.
“Em không rõ.”
“Ước gì mẹ nói cho mình biết.”
“Đời mà anh.”
Joe chỉ gật đầu.
Mẹ đã dọn sẵn phòng cho khách, chuẩn bị chăn ga gối nệm với khăn tắm mới và sạch sẽ, cũng không quên cài vài nhánh hoa vào chiếc bình sứ cạnh tủ đầu giường. Một căn phòng nhỏ thơm tho với hai giường đơn. Tôi tưởng tượng cảnh mẹ chật vật một tay chống khung nhôm, tay còn lại xếp chăn gối, vuốt cho mọi thứ thẳng thớm.
Joe và tôi không trò chuyện với nhau nữa. Tôi treo quân phục vào tủ và rửa ráy trong phòng tắm. Xong xuôi tôi đặt đồng hồ báo thức lúc bảy giờ sáng và trèo lên giường ngắm trần nhà trong khoảng một tiếng. Rồi tôi ngủ thiếp đi.
Tôi trở dậy đúng bảy giờ sáng. Joe cũng đã thức rồi. Có lẽ anh còn không ngủ. Có lẽ anh quen với nếp sống bình thường hơn là tôi. Có lẽ chuyến bay dài khiến anh mệt nhiều hơn tôi. Tôi dậy tắm rửa rồi lấy áo thun với quần thụng dài cất trong túi đồ mặc vào. Sau đó gặp Joe trong phòng bếp. Anh đang pha cà phê.
“Mẹ còn đang ngủ,” anh nói. “Chắc do thuốc.”
“Để em đi mua bữa sáng,” tôi bảo.
Tôi mặc áo khoác vào rồi đi bộ tới tiệm bánh quen thuộc trên đường Rue St. Dominique. Tôi mua vài cái bánh sừng trâu với bánh xếp nhân sô cô la rồi đem về nhà. Mẹ vẫn đang ở trong phòng mình khi tôi về đến nơi.
“Mẹ đang muốn chết đấy,” Joe nói. “Mình không để mẹ làm thế được.”
Tôi không nói gì.
“Sao thế?” anh hỏi. “Nếu mẹ nhặt súng lên tự gí vào đầu, thì chú có định ngăn không?”
Tôi nhún vai. “Mẹ đã tự gí súng vào đầu sẵn rồi mà. Mẹ còn bóp cò từ cả năm trước rồi cơ. Mình đã đến quá trễ. Mẹ cố tình để vậy mà.”
“Vì sao?”
“Ta phải đợi mẹ tự nói ra thôi.”
Mẹ trình bày lý do của mình trong một cuộc trò chuyện kéo dài gần cả ngày với chúng tôi. Mẹ tiết lộ từng mẩu từng chút một. Chúng tôi bắt đầu trong lúc ăn sáng. Mẹ bước từ trong phòng ra, tắm rửa sạch sẽ và trông tươi tỉnh hết mức có thể đối với một bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối bị gãy chân phải chống khung nhôm. Mẹ pha thêm cà phê rồi để mấy cái bánh sừng trâu tôi vừa mua lên đĩa sứ và trịnh trọng đặt lên bàn. Cách mẹ điều hành bữa sáng lôi chúng tôi về ngày xưa. Joe và tôi hóa thành hai đứa nhóc gầy nhẳng còn mẹ trở lại phong thái nữ tướng vốn có. Vừa là vợ quân nhân vừa là bà mẹ nội trợ thật không dễ dàng gì, một số chịu đựng được, một số thì không. Mẹ luôn là nhóm đầu. Nơi nào chúng tôi ở, nơi đó cũng là nhà. Mẹ luôn xoay xở để được như thế.
“Nơi mẹ sinh ra cách chỗ này ba trăm mét đấy,” mẹ nói. “Trên đường Bosquet kia kìa. Từ cửa sổ đó mẹ nhìn thấy được cả điện Invalides lẫn trường quân sự. Năm mẹ lên mười tuổi thì quân Đức tiến vào Paris. Lúc ấy mẹ tưởng đã tận thế đến nơi rồi. Đến năm mười lăm tuổi thì họ rút đi. Lúc đó mẹ lại nghĩ một thời đại mới đã đến.”
Anh Joe và tôi không đáp.
“Bao tháng ngày sau đó tới nay là những món quà đối với mẹ,” mẹ nói tiếp. “Mẹ gặp bố, rồi có các con, rồi chu du thế giới. Mẹ nghĩ không có miền đất nào mà mẹ chưa từng ghé qua.”
Chúng tôi vẫn im lặng.
“Mẹ là người Pháp,” mẹ bảo. “Còn các con là người Mỹ. Giữa chúng ta là một trời khác biệt. Khi một người Mỹ bị mắc bệnh gì đó, cô ta sẽ tá hỏa. Tại sao điều đó dám xảy ra với cô ta chứ? Sai sót này cần được cô ta chỉnh đốn thật mau chóng, ngay và luôn. Nhưng người Pháp bọn mẹ hiểu đơn giản rằng đầu tiên ta sẽ sống, và sau đó ta chết. Đó nào phải việc gì đáng để tá hỏa. Tự cổ chí kim nó vốn là lẽ thường. Nó tất phải xảy ra, các con hiểu không? Nếu người ta cứ sống mãi không chết, thì thế gian này chật cứng người rồi.”
“Nhưng thời điểm ta chết quan trọng chứ mẹ,” Joe nói.
Mẹ gật đầu.
“Phải,” mẹ đáp. “Ta chết khi đến lúc phải chết thôi.”
“Thế thì tiêu cực quá.”
“Không đâu, đó là thực tế, Joe ạ. Ta phải biết lượng sức mà tranh đấu. Đương nhiên ta sẽ chữa trị những bệnh lặt vặt rồi. Nếu bị tai nạn, ta phải chữa trị. Nhưng có những cuộc đấu tranh mà ta không thể thắng. Con đừng tưởng mẹ chưa suy nghĩ tường tận sự việc. Mẹ đã đọc sách báo. Mẹ đã hỏi bạn bè. Khả năng chữa trị sau khi đã xuất hiện các triệu chứng vô cùng thấp. Sống thêm năm năm, hay mười, hai mươi phần trăm khả năng gì đó, ai cần đâu? Mà đó là phải qua một cuộc điều trị kinh khủng nữa chứ.”
Thời điểm ta chết mới quan trọng. Chúng tôi dành cả buổi sáng xoay quanh câu hỏi trọng tâm của Joe. Chúng tôi nói hết nước, từ góc độ này, đến góc độ kia. Nhưng vẫn chỉ ra một kết luận đó. Có những cuộc đấu tranh mà ta không thể thắng. Và đó cũng là một đề tài đáng thảo luận. Một đề tài chúng tôi đáng lẽ phải bàn từ mười hai tháng trước. Đến bây giờ nó đã mất hết ý nghĩa rồi.
Joe và tôi cùng ăn trưa. Mẹ tôi thì không. Tôi đợi Joe hỏi tiếp câu hiển nhiên tiếp theo. Nó cứ lửng lơ ở đó. Cuối cùng thì anh cũng chịu hỏi. Joe Reacher, ba mươi hai tuổi, cao một mét chín tám, nặng một trăm ký, tốt nghiệp trường quân sự West Point, một tay máu mặt của Bộ Tài chính, úp hai tay lên bàn và nhìn vào mắt mẹ mình.
“Mẹ không nhớ bọn con ư?” anh hỏi.
“Con hỏi nhầm câu rồi đó,” mẹ đáp. “Lúc đó mẹ chết rồi. Còn nhớ gì nữa. Chỉ có các con nhớ mẹ ấy. Như các con nhớ đến bố vậy. Như mẹ nhớ bố nữa. Như mẹ nhớ ông ngoại, bà ngoại, và ông cố bà cố vậy. Tưởng nhớ người chết, đó là một phần của cuộc sống mà.”
Chúng tôi im lặng.
“Mẹ biết các con muốn hỏi một câu khác cơ,” mẹ nói tiếp. “Các con muốn hỏi rằng, sao mẹ nỡ bỏ rơi chúng con? Các con muốn hỏi, chẳng lẽ mẹ không quan tâm đến hai đứa sao? Mẹ không muốn biết về cuộc sống sau này của chúng con à? Hay mẹ không còn thương yêu hai anh em nữa?”
Chúng tôi không nói gì.
“Mẹ hiểu mà,” mẹ bảo. “Thật lòng, mẹ rất hiểu đó chứ. Vì mẹ cũng hỏi chính bản thân mình những câu ấy. Cứ như ta ra khỏi rạp khi phim vẫn đang chiếu vậy. Bị lôi ra ngoài khi đang thưởng thức phim mình ưa thích mới đúng. Đó là điều mẹ cứ mãi day dứt. Vì mẹ sẽ không biết được kết thúc của nó. Cũng như mẹ sẽ không bao giờ biết được cuộc đời của các con sau này sẽ ra sao. Mẹ ghét điều đó lắm. Nhưng rồi mẹ nhận ra, sớm muộn gì mẹ cũng phải rời khỏi rạp phim mà thôi. Ý mẹ là, không ai sống mãi được. Mẹ sẽ không bao giờ biết được cuộc đời của hai con sau này ra sao. Không thể biết sẽ có những gì đến với hai con. Đến cuối đời mẹ cũng không. Dù mẹ không ốm đau gì thì cũng không. Mẹ nhận ra như vậy. Rồi tự dưng mọi chuyện không còn nặng nề nữa. Vì đó vẫn luôn là một điều không ai có thể đoán trước. Và điều đó sẽ luôn để lại cho chúng ta bao nỗi nuối tiếc.”
Chúng tôi ngồi trong im lặng một hồi lâu.
“Mẹ còn bao lâu ạ?” Joe hỏi.
“Không lâu con à,” mẹ đáp.
Chúng tôi không nói gì thêm.
“Hai đứa cũng đâu cần mẹ nữa,” mẹ bảo chúng tôi. “Cả hai lớn khôn cả rồi. Việc của mẹ đã xong. Đó là lẽ tự nhiên, và thế thì tốt thôi. Cuộc đời là vậy. Vì thế hãy cứ để mẹ đi nhé.”
Đến sáu giờ tối thì chúng tôi chẳng còn gì để bàn nữa. Không ai nói gì trong cả tiếng đồng hồ. Rồi mẹ tôi ngồi thẳng dậy trên ghế.
“Mình ra ngoài ăn tối đi,” mẹ nói. “Ăn ở tiệm Polidor nhé, trên đường Rue Monsieur Le Prince ấy.”
Chúng tôi gọi taxi đến nhà hát Odéon. Sau đó cùng đi bộ. Mẹ tôi muốn vậy. Mẹ gói mình trong chiếc áo choàng và bám lấy tay chúng tôi đi những bước thật chậm và khó khăn, nhưng tôi nghĩ mẹ thích không khí ngoài trời. Đường Rue Monsieur Le Prince cắt ngang góc đại lộ St. Germain và đại lộ St. Michel, ngay quận Sáu. Đó là góc phố đậm tính Paris nhất trong toàn đô thành này. Đường hẹp, ô hợp, hơi luộm thuộm, hối hả, với những tòa nhà mặt tiền trát vữa cao ngất bọc hai bên. Polidor là một quán ăn lâu đời nổi tiếng. Trông như nó đã chào đón đủ loại thực khách. Từ dân sành ăn, đến gián điệp rồi họa sĩ, người tị nạn, cả cảnh sát, lẫn kẻ cướp.
Chúng tôi đều gọi một bữa ba món giống nhau. Chèvre chaud, porc aux pruneaux, dames blanches. Chúng tôi gọi thêm một chai rượu vang thật ngon. Nhưng mẹ tôi không ăn uống gì. Mẹ chỉ nhìn hai anh em tôi. Cơn đau lộ rõ trên gương mặt mẹ. Joe và tôi gượng gạo ăn. Mẹ kể chuyện tiếp, chỉ độc chuyện ngày xưa mà thôi. Nhưng không có vẻ gì buồn bã. Mẹ đang hồi tưởng những kỷ niệm vui. Mẹ cười. Mẹ xoa ngón cái lên vết sẹo trên trán Joe và mắng tôi vì ngày xưa đã gây ra nó, như mẹ vẫn thường làm. Và mỗi lần mẹ mắng như thế tôi đáp lại bằng cách xắn liền tay áo lên để chỉ cho mẹ vết đâm anh đã lấy dùi trả thù, rồi mẹ quay sang mắng anh y hệt. Mẹ kể chúng tôi nghe về những món thủ công hai anh em đã làm cho mẹ ở trường. Mẹ kể về những bữa tiệc sinh nhật của cả hai, ở những doanh trại quân đội u ám xa xôi, dưới cái nóng, hoặc cái lạnh. Mẹ kể tiếp về bố, lần đầu gặp ông ở Hàn Quốc, sau đó đến đám cưới ở Hà Lan, về vẻ vụng về của ông, về hai bó hoa ông mua tặng mẹ trong suốt ba mươi năm chung sống, một bó lúc anh Joe ra đời, và một bó khi đến tôi.
“Sao một năm trước mẹ không báo cho chúng con?” Joe hỏi.
“Con biết rồi còn gì,” mẹ đáp.
“Vì chúng con sẽ phản đối,” tôi bảo.
Mẹ gật đầu.
“Đây là quyết định của mẹ,” mẹ nói.
Chúng tôi uống cà phê rồi Joe và tôi hút thuốc. Sau đó nhân viên đem hóa đơn lên và chúng tôi nhờ anh ta gọi giùm một chiếc taxi. Chúng tôi trở về đường Rapp trong im lặng. Mọi người cùng lên giường mà không nói gì nhiều với nhau.
Tôi dậy sớm trong buổi sáng mồng bốn của thập kỷ mới. Tôi nghe Joe nói chuyện trong phòng bếp, bằng tiếng Pháp. Tôi bước vào và thấy anh đứng cùng một người phụ nữ. Cô trẻ và nhanh nhẹn. Cô có mái tóc ngắn gọn gàng và đôi mắt long lanh. Cô giới thiệu mình là y tá riêng của mẹ, được cử đến chăm sóc bà theo điều khoản trong chính sách bảo hiểm cũ. Cô kể bình thường sẽ ghé nhà một tuần bảy ngày, nhưng mẹ đã yêu cầu cô nghỉ hôm qua. Cô nói mẹ muốn dành một ngày với hai cậu con trai. Tôi hỏi cô thời gian mỗi lần ghé nhà là bao lâu. Cô trả lời sẽ ở lại tùy theo nhu cầu. Cô kể tiếp chính sách bảo hiểm cũ kia hỗ trợ tới hai mươi tư tiếng một ngày, nếu cần thiết, và cô nghĩ thời điểm cần thiết ấy sắp tới rồi.
Cô gái với đôi mắt long lanh kia ra về còn tôi trở lại phòng ngủ để tắm và thu dọn đồ đạc. Joe vào phòng nhìn tôi.
“Chú về à?” anh hỏi.
“Cả hai ta đều phải về mà. Anh biết rồi còn gì.”
“Ta nên ở lại.”
“Ta đã đến đây rồi. Mẹ chỉ mong có vậy thôi. Giờ mẹ muốn ta về đấy.”
“Chú nghĩ thế à?”
Tôi gật đầu. “Tối qua, ở tiệm Polidor. Đó là tiệc chia tay. Bây giờ mẹ muốn ở một mình.”
“Chú để mẹ như thế được sao?”
“Mẹ muốn vậy mà. Mình phải tôn trọng ý mẹ.”
Tôi lại mua đồ ăn sáng trên đường Rue St. Dominique, chúng tôi ăn và uống cà phê đựng trong tô, theo kiểu Pháp, cả ba người. Mẹ tôi diện bộ đồ đẹp nhất của mình và ra vẻ là một người phụ nữ trẻ khỏe tạm thời bị cái chân gãy làm vướng víu. Chắc mẹ phải gắng sức lắm, nhưng tôi nghĩ mẹ muốn mọi người nhớ đến mình như vậy. Chúng tôi rót cà phê và chuyền nhau đồ ăn, một cách lịch sự. Một bữa ăn văn minh. Như chúng tôi đã từng ngồi ăn với nhau, từ rất lâu rồi. Như một nghi lễ gia đình vậy.
Rồi mẹ lại khơi dậy một nghi lễ gia đình xưa khác. Mẹ làm một điều mẹ đã từng làm cả chục ngàn lần trước đó, suốt cả cuộc đời hai anh em tôi, từ khi chúng tôi mới bắt đầu đủ lớn để sở hữu cá tính của mình. Mẹ chật vật đứng dậy khỏi ghế rồi bước tới đặt hai tay lên vai Joe, từ phía sau. Sau đó mẹ cúi xuống và hôn lên má anh.
“Con không cần phải làm gì nào?” mẹ hỏi anh.
Anh không trả lời. Anh chưa bao giờ trả lời cả. Sự im lặng của anh em tôi là một phần của nghi lễ này.
“Con không cần phải giải quyết toàn bộ vấn đề trên thế gian này, Joe ạ. Chỉ một số thôi. Phải để dành phần cho người khác nữa con nhé.”
Mẹ hôn lên má anh lần nữa. Rồi mẹ vẫn giữ một tay trên lưng ghế của anh còn tay kia vươn ra và di chuyển ra đằng sau tôi. Tôi nghe được hơi thở khó nhọc của mẹ. Mẹ hôn má tôi. Và như bao năm qua, mẹ đặt tay lên vai tôi. Mẹ lấy tay đo chúng, từ bên này sang bên kia. Mẹ vốn nhỏ người, luôn thích thú khi đứa con bé bỏng của mình nay đã thành một người khổng lồ.
“Con khỏe bằng sức hai thằng con trai bình thường gộp lại đó,” mẹ nói.
Rồi câu hỏi dành riêng cho tôi cũng đến.
“Con sẽ làm gì với chừng này sức mạnh đây?” mẹ hỏi tôi. Tôi không trả lời. Tôi chưa bao giờ trả lời cả.
“Con sẽ làm điều đúng đắn,” mẹ nói tiếp.
Rồi mẹ cúi xuống hôn lên má tôi lần nữa.
Tôi nghĩ thầm: Có phải đây là lần cuối mẹ hôn mình không?
Nửa tiếng sau chúng tôi rời đi. Ba mẹ con ôm nhau thắm thiết thật lâu ngay ngưỡng cửa và hai anh em cùng nói lời yêu mẹ, và đáp lại mẹ cũng nói rằng bà đã và sẽ luôn thương yêu chúng tôi. Mẹ đứng đó khi hai anh em chui vào chiếc thang máy bé tí xuống đất, và rồi cùng đi bộ suốt quãng đường dài tới quảng trường Opéra đón xe buýt chở khách vào sân bay. Mắt chúng tôi nhòa lệ và cả hai không nói gì với nhau. Hàng huân chương trên ngực tôi chả có ý nghĩa gì với cô nhân viên thủ tục tại sân bay Roissy - Charles de Gaulle. Cô xếp chúng tôi ở cuối máy bay. Bay được nửa chặng đường tôi lật tờ Le Monde và đọc thấy rằng tay Noriega đã bị bắt ở thành phố Panama. Mới tuần trước tôi còn đầu tắt mặt tối với vụ hắn ta. Vậy mà bây giờ tôi chẳng còn nhớ gì mấy. Tôi đặt tờ báo xuống và cố nhìn về phía trước. Cố nhớ lại nơi tôi cần đến là đâu, và việc tôi cần làm là gì khi tới đó. Tôi chẳng nhớ được gì rõ ràng. Chẳng biết được chuyện gì sắp xảy đến. Nếu biết, tôi đã ở lại Paris.